Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa – Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Vinh Thủy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.52 KB, 61 trang )

MỤC LỤC

i


TÓM LƯỢC
Hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Vinh Thủy đã
được tồn tại, giữ vững và phát triển sau mười năm ra đời. Quá trình kí kết và thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Vinh Thủy đã
đạt được những hiệu quả nhất định. Nhưng việc áp dụng pháp luật về hợp đồng mua
bán hàng hóa tại Vinh Thủy còn chưa được nhận thức đầy đủ. Vì vậy, đề tài “Pháp luật
về hợp đồng mua bán hàng hóa – thực tiễn thực hiện tại công ty cổ phần thương mại
và dịch vụ Vinh Thủy” đã được triển khai với tư cách là một khóa luận tốt nghiệp của
sinh viên.
Đề tài thực hiện thông qua việc tìm hiểu về các quy định pháp luật hiện hành
điều chỉnh quan hệ mua bán hàng hóa và thực trạng thực hiện pháp luật của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, của các bên tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công
ty cổ phần thương mại và dịch vụ Vinh Thủy. Khóa luận với kết cấu 3 chương, tập
trung vào nghiên cứu những vấn đề như sau:
Chương 1 nêu ra một số lý luận về hợp đồng mua bán hàng hóa trong. Nội dung
chương được hình thành trên cơ sở phân tích, đánh giá các quy định chung về hợp
đồng và các quy định riêng về hợp đồng mua bán hàng hóa trong các văn bản quy
phạm pháp luật hiện hành điều chỉnh về vấn đề này.
Tiếp theo chương 2, khóa luận tập trung nghiên cứu thực trạng pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần thương mại và dịch
vụ Vinh Thủy. Từ đó đưa ra những đánh giá, nhận xét và chỉ ra những khó khăn về quá
trình giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
Cuối cùng chương 3 em đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hợp
đồng nói chung, pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng, và một số kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa tại Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Vinh Thủy.



ii


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp này, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô
giáo đã giảng dạy, rèn luyện, hướng dẫn em trong thời gian học tập tại trường Đại học
Thương Mại và Ban lãnh đạo cùng toàn thể các cán bộ công nhân viên trong công ty
cổ phần thương mại và dịch vụ Vinh Thủy trong thời gian em thực tập tại công ty.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa kinh tế luật. Đặc biệt là Th.S
Nguyễn Thị Vinh Hương, cô đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em trong quá
trình làm báo cáo thực tập để em có thể hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này.
Do có nhiều ý kiến, những cách tiếp cận khác nhau, thời gian thực tập, kinh
nghiệm và kiến thức thực tế còn nhiều hạn chế nên trong khóa luận không thể tránh
khỏi những thiết sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự giúp đỡ và ý kiến đóng góp
của các thầy cô giáo và ban lãnh đạo Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Vinh
Thủy, để em hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình một cách tốt nhất.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, Tháng 4 Năm 2019
Sinh viên thực hiện
Dương Quang Vinh

iii


MỤC LỤC

iv



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS 2015

Bộ Luật dân sư 2015

LTM 2005

Luật Thương mại 2005

MBHH

Mua bán hàng hóa

WTO

Tổ chức Thương mại Thế giới

ASEAN

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á

TPP

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương

v


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, các giao dịch kinh
doanh diễn ra ngày càng sôi động, đòi hỏi Nhà nước phải ban hành quy định điều
chỉnh chi tiết cho quá trình thiết lập và thực hiện chúng. Các bên trong giao dịch phải
có sự hiểu biết đầy đủ các quy định pháp luật hợp đồng nhằm bảo đảm cho việc thực
hiện các giao dịch này. Hầu hết các doanh nghiệp thương mại đều phải ký kết các hợp
đồng thương mại khác nhau, đó có thể là hợp đồng mua hay hợp đồng bán, được gọi
chung là hợp đồng mua bán hàng hóa. Các hợp đồng này gắn liền với lợi ích của các
bên ký kết, đồng thời ràng buộc trách nhiệm của một bên với bên kia, mang giá trị
pháp lý được pháp luật công nhận. Như vậy, có thể nói hợp đồng mua bán hàng hóa là
một nội dung không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh. Việc nắm vững, hiểu rõ các
quy định pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ giúp chủ thể kinh doanh ký kết
và thực hiện hợp đồng thuận lợi, an toàn và hiệu quả, trách xảy ra các rủi ro, tranh
chấp đáng tiếc. Nhưng thực tiễn cho thấy, sự hiểu biết về pháp luật của các doanh
nghiệp còn bộc lộ nhiều hạn chế do chưa thể nắm rõ ràng và chắc chắn về hệ thống
pháp luật hiện hành. Hiện nay pháp luật về hợp đồng đang được ngày càng hoàn thiện
theo hướng phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế và pháp luật hợp đồng của thế giới.
Nhưng còn rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu và hoàn thiện.
Trong quá trình thực tập tại công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Vinh Thủy,
em nhận thấy công ty hàng năm ký kết rất nhiều hợp đồng, chủ yếu là hợp đồng mua
bán hàng hóa. Do nhận thức được vai trò to lớn của hợp đồng mua bán hàng hóa, nên
việc tìm hiểu pháp luật hợp đồng là điều cần thiết đối với công ty. Hơn nữa, thực tiễn
việc áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty còn nhiều hạn chế
và cần giải pháp giúp công ty cải thiện trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng. Vì
vậy, việc nghiên cứu áp dụng pháp luật hợp đồng trên khía cạnh giao kết, thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Vinh Thủy là
một vấn đề không chỉ có ý nghĩa với riêng công ty mà còn đối với nhiều doanh nghiệp
khác.
Từ những lý do trên, em xin được lựa chọn đề tài :“Pháp luật về hợp đồng mua
bán hàng hóa – Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Vinh
Thủy ” làm đề tài Khóa luận tốt nghiệp.

2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa là bộ phận pháp luật có vị trí quan
trọng trong pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam. Các công trình nghiên cứu thường đi từ
1


khái niệm, đặc điểm đến các tiêu chí của hợp đồng như: nội dung, hiệu lực. Ngoài ra,
các tác giả còn tiếp cận theo trình tự xác lập hợp đồng, từ thỏa thuận, giao kết đến thực
hiện và chấm dứt hợp đồng mua bán hàng hóa. Tiêu biểu cho các công trình nghiên
cứu về hợp đồng mua bán hàng hóa được các trường đại học lớn trên đất nước ta viết
ra các cuốn giáo trình, liên quan đến chuyên ngành đào tạo của trường đạo học như:
Giáo trình Luật Thương mại 2 – Đại học Luật Hà Nội năm 2014; Giáo trình Luật
Thương mại – Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015; Giáo trình Luật Kinh tế
- Đại học Thương mại năm 2016; Giáo trình Luật kinh tế - Đại học Kinh tế Quốc dân
năm 2015.
Vấn đề pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa được nhiều nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu, dưới những góc độ khác nhau. Trên thực tế đã có nhiều
luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ… Nghiên cứu các đề tài liên quan đến hợp đồng, như
đề tài:
- Lê Minh Hùng (2010), Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt
Nam, luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Yến (2011), Pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hoá
qua sở giao dịch hàng hoá ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội.
- Trương Thị Bích (2012), Pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với
thương nhân nước ngoài - Kinh nghiệm so sánh với luật Trung Quốc và những định
hướng hoàn thiện cho pháp luật Việt Nam, luận văn Thạc sỹ, Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội..
Bài đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành như:
- Phạm Văn Bằng (2013), Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng những
vấn đề đặt ra khi sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2005, tạp chí dân chủ và pháp luật Số

định kỳ tháng 4.
- Phan Thông Anh (2013), Quyền tự do giao kết hợp đồng ở Việt Nam – lý luận
và thực tiễn, tạp chí Nghiên cứu pháp luật.
- ThS. Nguyễn Văn Việt (2015), Bàn về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa, Tạp chí dân chủ và pháp luật.
Ngoài ra, cũng có nhiều bài nghiên cứu khoa học, khóa luận tốt nghiệp của sinh
viên, luận văn thạc sĩ tìm hiểu về hợp đồng mua bán hàng hóa:
- Khóa luận tốt nghiệp “Pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa –
Thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH Thu Ngân” - sinh viên Nguyễn Ngọc Hải - Đại
học Thương Mại.
- Khóa luận tốt nghiệp “Pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa và
Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Vinh Thủy” – sinh viên
2


Phạm Văn Chung – Đại học Thương Mại.
- Khóa luận tốt nghiệp “Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa – Thực tiễn
thực hiện tại Công ty TNHH Đầu tư và Thương mại ATP” - sinh viên Nguyễn Thiên
Giang - Đại học Thương Mại.
Tất cả các công trình nghiên cứu, các bài báo khoa học, sách chuyên khảo, các
luận án, luận văn nêu trên đều có những thành công nhất định về một số khía cạnh
pháp lý của hợp đồng. Do đó, em xin thể hiện sự trân trọng đến những tác giả với
những kết quả nghiên cứu trên.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa những lý luận cơ bản về hợp đồng mua bán hàng hóa, các tài
liệu trên là nguồn tư liệu quý giá để em nghiên cứ lý luận về hợp đồng mua bán hàng
hóa, kết hợp với những tư liệu thực tế thu thập được từ đơn vị thực tập để phản ánh
được thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty. Em
nhận thấy pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa còn nhiều vấn đề cần tìm hiểu và
làm rõ.

Trong quá trình thực tập tại công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Vinh Thủy
em nhận thấy pháp luật hợp đồng là rất quan trọng đối với công ty, tuy nhiên do hạn
chế về tổ chức quản lý của công ty nên công ty không có bộ phận pháp chế, còn chưa
chú trọng chuyên sâu tìm hiểu về vấn đề này.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá, nhìn nhận cả về lý luận và thực tiễn em chọn đề
tài: “Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần
thương mại và dịch vụ Vinh Thủy” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Với tính cấp thiết của đề tài: “Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa – Thực
tiến thực hiện tại Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Vinh Thủy”, khóa luận tập
trung nghiên cứu hai vấn đề sau:
- Những vấn đề lý luận chung về một số khía cạnh pháp lý liên quan đến pháp
luật về hợp đồng mua bán hàng hóa.
- Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ
phần thương mại và dịch vụ Vinh Thủy.
4.2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu các vấn đề lý luận,
khảo sát thực trạng áp dụng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật hợp đồng mua
bán hàng hóa tại doanh nghiệp, để có thể:
- Làm sáng tỏ vấn đề lý luận có liên quan đến pháp luật về hợp đồng mua bán
3


hàng hóa. Tiếp cận nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định hiện hành của pháp
luật về hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên.
- Đánh giá được thực trạng thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
tại công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Vinh Thủy. Từ đó tìm ra các mặt hạn chế
của công ty trong việc thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa.
- Lập luận đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu lực của pháp luật và tính

hiệu quả của hợp đồng mua bán hàng hóa trong kinh doanh của công ty cổ phần
thương mại và dịch vụ Vinh Thủy.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
Với đối tượng nghiên cứu nêu trên cùng sự hạn chế về nguồn tài liệu thu thập
được, em xin giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:
- Phạm vi đối tượng nghiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu về thực
tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa của công ty cổ phần thương
mại và dịch vụ Vinh Thủy.
- Phạm vi không gian nghiên cứu của đề tài:
• Các quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam có hiệu lực trên toàn bộ
lãnh thổ. Cũng như pháp luật nước ngoài có liên quan.
• Thực trạng thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa của công ty
cổ phần thương mại và dịch vụ Vinh Thủy trong thị trường Việt Nam cũng như đối tác
nước ngoài.
- Phạm vi thời gian nghiên cứu của đề tài:
• Các quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa từ khi xuất hiện
chế định về hợp đồng trong pháp luật Việt Nam. Áp dụng theo bộ luật, luật hiện hành.
• Thực trạng thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa của công ty
cổ phần thương mại và dịch vụ Vinh Thủy trong ba năm trở lại đây (2016-2019).
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và các phương pháp chuyên ngành khoa học pháp lý để giải quyết những vấn đề lý
luận và pháp lý liên quan đến các quy định về pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa.
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp liệt kê: liệt kê các quan điểm pháp lý có liên quan đến hợp đồng
mua bán hàng hóa trong phần lý luận chung về hợp đồng mua bán hàng hóa và pháp
luật về hợp đồng mua bán hàng hóa ở chương 1
- Phương pháp tổng hợp: nghiên cứu tài liệu, các văn bản quy phạm pháp luật để
tổng hợp lại thành những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán
hàng hóa trong chương 1; tổng hợp các tài liệu thu thập được từ đơn vị thực tập phản

4


ánh được thực tiễn thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty.
- Phương pháp phân tích, đánh giá: Dựa vào tài liệu đã thu thập được, phân tích
và đưa ra những đánh giá về thực trạng các quy định của pháp luật về hợp đồng mua
bán hàng hóa trong chương 1. Cũng như thực tiễn thực hiện của công ty về các quy
định này trong chương 2, từ đó đưa ra những đánh giá, đề xuất hoàn thiện đề tài trong
chương 3.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Với mục tiêu và phạm vi nghiên cứu như đã nêu ở trên, đề tài ngoài tóm lược, lời
cảm ơn, lời mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung, thì khóa luận
gồm có 3 chương:
- Chương 1. Một số lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán
hàng hóa.
- Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng
hóa tại công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Vinh Thủy.
- Chương 3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán
hàng hóa

5


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HÓA
1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng nói chung là một hành vi pháp lý, là sự thể hiện ý chí của các bên để
làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ. Hợp đồng là loại hành vi pháp lý cơ bản và thông
dụng nhất. Tại điều 385 BLDS 2015 có nêu khái niệm chung của hợp đồng: “Hợp

đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự”. Ý chí của cá nhân đóng vai trò quan trọng trong hợp đồng, khi sự
thống nhất của các ý chí là thực chất và không trái pháp luật thì nó sẽ làm phát sinh
các nghĩa vụ ràng buộc các bên.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Thương Mại 2005:
“2. Hàng hóa bao gồm:
a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
b) Những vật gắn liền với đất đai.”
Cũng tại Khoản 8, Điều 3 Luật này : “8. Mua bán hàng hoá là hoạt động thương
mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên
mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và
quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận.”
Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất chung của hợp đồng, nó là sự thỏa
thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua
bán. Luật Thương mại 2005 không có quy định cụ thể về khái niệm hợp đồng mua bán
hàng hóa, nhưng về bản chất, hợp đồng mua bán hàng hóa là một dạng cụ thể của hợp
đồng mua bán tài sản. Theo Điều 430 BLDS 2015: “Hợp đồng mua bán tài sản là sự
thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận
tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán. Hợp đồng mua bán
nhà ở, mua bán nhà để sử dụng vào mục đích khác được thực hiện theo quy định của
Bộ luật này, Luật nhà ở và luật khác có liên quan”. Hàng hóa được hiểu là động sản, kể
cả động sản hình thành trong tương lai, và các vật gắn liền với đất. Như vậy, hàng hóa
thuộc tài sản và có phạm vi hẹp hơn tài sản. Từ đó cho thấy, hợp đồng mua bán hàng
hóa trong thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản.
Như vậy, kết hợp định nghĩa chung về hợp đồng mua bán tài sản và khái niệm
riêng về mua bán hàng hóa, có thể rút ra kết luận: “Hợp đồng mua bán hàng hoá là sự
thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua và
nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền cho bên bán theo thời hạn, số
6



lượng và phương thức thanh toán mà các bên đã thỏa thuận”.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
Có thể xem xét các đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa trong mối liên hệ
với hợp đồng mua bán tài sản theo nguyên lý của mối quan hệ giữa luật riêng và luật
chung.
- Hợp đồng mua bán hàng hóa cũng có những đặc điểm chung của hợp đồng mua
bán tài sản trong dân sự như:
+ Là hợp đồng ưng thuận: Tức là nó được coi là giao kết tại thời điểm các bên
thỏa thuận xong các điều khoản cơ bản, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng không phụ
thuộc vào thời điểm bàn giao hàng hóa, việc bàn giao hàng hóa chỉ được coi là hành
động của bên bán nhắm thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng mua bán đã có hiệu lực.
+ Là hợp đồng có tính đền bù: Bên bán khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng hóa cho
bên mua thì sẽ nhận từ bên mua một lợi ích tương đương với giá trị hàng hóa theo thỏa
thuận dưới dạng khoản tiền thanh toán.
+ Là hợp đồng song vụ: Mỗi bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa đều bị ràng
buộc bởi nghĩa vụ đối với bên kia, đồng thời lại cũng là bên có quyền đòi hỏi bên kia thực
hiện nghĩa vụ đối với mình. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa tồn tại hai nghĩa vụ chính
mang tính chất qua lại và liên quan mật thiết với nhau: nghĩa vụ của bên bán phải bàn giao
hàng hóa cho bên mua và nghĩa vụ của bên mua phải thanh toán cho bên bán.
- Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ mua bán hàng hóa, hợp đồng mua
bán hàng hóa có những đặc điểm nhất định, xuất phát từ bản chất thương mại của hành
vi mua bán hàng hóa:
+ Về chủ thể của hợp đồng, theo Luật thương mại 2005, hợp đồng thương mại có
thể được giao kết giữa các chủ thể bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp,
cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh. Các thương nhân này có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại
các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm.
Ngoài ra, hợp đồng thương mại còn được ký kết giữa các tổ chức, cá nhân khác hoạt
động có liên quan đến thương mại. Các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp có thể

bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
công ty nhà nước, và các tổ chức kinh tế khác. Thương nhân là cá nhân bao gồm các
hộ kinh doanh cá thể có đăng ký kinh doanh và tiến hành hoạt động thương mại một
cách thường xuyên, độc lập. Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân
cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa.
+ Đối tượng của hợp đồng là hàng hóa. Hàng hóa theo hợp đồng là hàng hóa
được phép mua bán theo quy định của pháp luật. Theo Luật Thương mại 2005, hàng
7


hóa là đối tượng của quan hệ mua bán có thể là hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc hàng
hóa sẽ có trong tương lai, hàng hóa có thể là động sản hoặc bất động sản được phép
lưu thông thương mại.
+ Về hình thức của hợp đồng. Theo quy định tại Luật Thương mại 2005, hợp
đồng thương mại được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng
hành vi cụ thể. Như vậy, hình thức của hợp đồng là rất đa dạng, linh hoạt, tùy trường
hợp cụ thể mà các bên thỏa thuận để chọn hình thức nào cho phù hợp với hợp đồng
mua bán hàng hóa được giao kết phù hợp với quy định của pháp luật.
+ Nội dung của hợp đồng chứa đựng những nội dung cơ bản của một hợp đồng
mua bán hàng hóa là: tên mặt hàng, số lượng, chủng loại, quy cách chất lượng, giá cả,
phương thức thanh toán, địa điểm và thời hạn giao hàng. Ngoài ra hợp đồng còn phải
thêm những điều kiện để đảm bảo quyền lợi cho các bên nếu có tranh chấp xảy ra như
nơi giải quyết tranh chấp, phương thức giải quyết tranh chấp. Do loại hợp đồng này có
đặc điểm là các bên đều nhằm đến mục tiêu lợi nhuận nên đòi hỏi nội dung của hợp
đồng phải đầy đủ, rõ ràng, tránh những hiểu lầm dẫn đến tranh chấp. Vì vậy các bên
cần chú ý thận trọng soạn thảo nội dung của hợp đồng.
+ Mục đích của hợp đồng mua bán hàng hóa chính là đặc điểm quan trọng nhất giúp
phân biệt hợp đồng mua bán hàng hóa với các loại hợp đồng dân sự khác, bởi lẽ sẽ có ít
nhất một trong các bên tham gia vào quan hệ mua bán hàng hóa tham gia hợp đồng với
mục đích sinh lời hay còn gọi là tìm kiếm lợi nhuận từ việc mua bán hàng hóa.

1.1.3. Phân loại hợp đồng mua bán hàng hóa
- Căn cứ vào phạm vi của hợp đồng có thể chia ra hai loại đó là:
• Hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước.


Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.

Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước thì đương nhiên sẽ chịu sự điều
chỉnh của pháp luật Việt Nam, cụ thể là luật Thương mại 2005 và các luật chuyên
ngành khác. Còn đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì các bên có thể thoả
thuận áp dụng, có thể là luật của Việt Nam hay luật của phía đối tác hay cũng có thể là
luật của một nước thứ ba.
- Căn cứ vào cách thức thực hiện hợp đồng có thể chia ra hai loại:
• Hợp đồng mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá.


Hợp đồng mua bán hàng hoá không qua sở giao dịch hàng hoá.

Cần lưu ý đối với loại hợp đồng mua bán qua cơ sở giao dịch hàng hoá rằng: thứ
nhất hàng hoá giao dịch tại cơ sở giao dịch phải thuộc danh mục hàng hoá giao dịch tại
sở giao dịch hàng hoá do bộ trưởng bộ thương mại quyết định. Thứ hai, theo điều 69

8


của luật thương mại 2005, thương nhân môi giới qua sở giao dịch về hàng hoá chỉ
được phép hoạt động tại sở giao dịch hàng hoá khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy
định của pháp luật; thương nhân mua bán qua sở giao dịch hàng hoá chỉ được phép
thực hiện các hoạt động mua giới mua bán qua sở giao dịch hàng hoá và không được
phép là một bên của hợp đồng mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá. Thứ ba,

điều 70 của luật thương mại 2005 quy định các hành vi bị cấm đối với thương nhân
môi giới hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá:
“1. Lôi kéo khách hàng ký kết hợp đồng bằng cách hứa bồi thường toàn bộ hoặc
một phần thiệt hại phát sinh hoặc bảo đảm lợi nhuận cho khách hàng.
2. Chào hàng hoặc môi giới mà không có hợp đồng với khách hàng.
3. Sử dụng giá giả tạo hoặc các biện pháp gian lận khác khi môi giới cho khách
hàng.
4. Từ chối hoặc tiến hành chậm trễ một cách bất hợp lý việc môi giới hợp đồng
theo các nội dung đã thoả thuận với khách hàng.
5. Các hành vi bị cấm khác quy định tại khoản 2 Điều 71 của Luật này.”
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh về hợp đồng mua bán
hàng hóa
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh về hợp đồng mua bán hàng hóa
Một quốc gia muốn thúc đẩy sự phát triển kinh tế cần phải xây dựng cho mình
một hành lang pháp lý thông thoáng và phù hợp với yêu cầu chính trị - xã hội cũng
như xét trên tương quan với tình hình thế giới. Trước năm 1986 Cơ chế kế hoạch hoá
tập trung đã không mang lại được hiệu quả kinh tế cao, do vậy Đại hội VI tháng
12/1986 của Đảng đã quyết định chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và bao cấp
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Từ năm 1986 đến nay, sau 30 năm đổi mới và vững bước trên con đường xây
dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đã khiến xã hội nước ta có nhiều
chuyển biến to lớn và tích cực. Kinh tế phát triển kéo theo sự xuất hiện và lớn mạnh
của các thành phần kinh tế. Từ đó, yêu cầu về sự đảm bảo trong việc giao kết và thực
hiện các hợp đồng mua bán hàng hóa không chỉ là vấn đề của Nhà nước mà còn là yêu
cầu chung của toàn xã hội.
Vấn đề về hợp đồng mua bán hàng hóa chỉ được nhà nước ta thực sự chú trọng
và luật hóa một thời gian sau đổi mới, nền kinh tế thị trường bắt đầu phát triển. Ngày
25/09/1989, Hội đồng nhà nước đã thông qua Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và nhiều
văn bản khác điều chỉnh các quan hệ hợp đồng theo quan điểm mới. Tiếp theo sau là
hàng loạt các văn bản Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/1/1990, Quyết định số

18/HĐBT ngày 16/1/1990 và nhiều văn bản hướng dẫn khác. Sau đó, Quốc hội thông
9


qua Bộ Luật Dân Sự ngày 28/10/1995, Luật Thương mại ngày 10/5/1997. Sự ra đời
của các văn bản này một phần nào đó đã giải quyết được những bức xúc trên tuy nhiên
những qui định còn chồng chéo mâu thuẫn, mập mờ, chất lượng văn bản còn chưa cao.
Do đó đã gây ra hậu quả bất lợi về nhiều mặt, cả thể chế, thiết chế và thực tiễn hoạt
động của các cơ quan nhà nước có liên quan, làm kìm hãm, trì trệ các hoạt động kinh
doanh của các chủ thể. Những bất cập đó đã dẫn đến một yêu cầu cấp bách phải xây
dựng lại các quy định về hợp đồng trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Để giải quyết vấn đề này, đồng thời để đáp ứng nhu cầu hội nhập WTO, ngày
14/11/2005 Quốc hội đã ban hành Luật Thương mại 2005 số 36/2005-QH 11 quy định
về hoạt động thương mại (chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, thay thế Luật
Thương mại 1997) ra đời với những quy định thống nhất đã đánh dấu bước phát triển
mới của hợp đồng. Bên cạnh đó, Bộ Luật dân sự 2005 thay thế Bộ Luật dân sự 1995
điều chỉnh song song cũng với các quy định trong Luật Thương mại 2005.
Hiện nay bên cạnh Luật Thương mại 2005 thì vấn đề thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hóa còn được quy định trong Bộ Luật dân sự 2015. Bộ Luật dân sự 2015
được ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015 thay thế Bộ Luật dân sự 2005, đây là bộ
luật cơ bản, bao quát một cách tổng thể các quy phạm pháp luật khác, nhằm điều chỉnh
các quan hệ dân sự theo một khung pháp lý nhất định. Bộ Luật dân sự 2015 có phạm
vi tác động lớn tới các doanh nghiệp trong quá trình soạn thảo hợp đồng (hợp đồng
mua bán, hợp đồng thuê mướn…), xác định quyền và nghĩa vụ của các bên, đặc biệt là
các quy định về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa. Tuy Bộ Luật dân sự 2015 đã
bỏ đi một số quy định so với Bộ Luật dân sự về nguyên tắc thực hiện hợp đồng nhưng
cũng bổ sung một số quy định về thiệt hại bồi thường do vi phạm hợp đồng và thực
hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Như vậy có thể thấy đây là một trong
những điểm tiến bộ trong xu hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh về hợp đồng mua bán hàng hóa

1.2.2.1. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại văn bản có tính chất pháp lý được hình
thành trên cơ sở thoả thuận một cách bình đẳng, tự nguyện giữa các chủ thể nhằm xác
lập, thực hiện và chấm dứt một quan hệ trao đổi hàng hoá.
- Đề nghị giao kết hợp đồng:
Đề nghị giao kết hợp đồng nói chung có bản chất là hành vi pháp lý đơn phương
của một chủ thể, có nội dung bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với chủ thể khác theo
các điều kiện đã xác định. Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao
kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được
xác định hoặc tới công chúng . Đề nghị giao kết hợp đồng có thể do bên bán hoặc bên
10


mua thực hiện.
- Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực
Hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng thông thường do bên đề nghị ấn định.
Trường hợp bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ
khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó, trừ trường hợp luật liên quan có quy định
khác. Các trường hợp sau đây được coi là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng: (i)
Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được chuyển
đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân; (ii) Đề nghị được đưa vào hệ thống
thông tin chính thức của bên được đề nghị; (iii) Khi bên được đề nghị biết được đề
nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác.
Bên đề nghị phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình. Trong thời hạn đề
nghị giao kết có hiệu lực, nếu bên được đề nghị thông báo chấp nhận vô điều kiện đề
nghị thì hợp đồng được hình thành và có giá trị ràng buộc các bên.
- Thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng
Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng
trong trường hợp: (i) Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút
lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị; (ii) Điều kiện thay đổi

hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được
thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh. Khi bên đề nghị thay đổi nội
dung của đề nghị thì đó là đề nghị mới.
- Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng
Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt trong trường hợp sau đây: (i) Bên được đề
nghị chấp nhận giao kết hợp đồng; (ii) Bên được đề nghị trả lời không chấp nhận; (iii)
Hết thời hạn trả lời chấp nhận; (iv) Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị
có hiệu lực; Khi thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực; (v) Theo thỏa thuận của
bên đề nghị và bên được đề nghị trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời.
- Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đới với
bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung đề nghị. Thời hạn trả lời chấp nhận
giao kết hợp đồng được xác định khác nhau trong các trường hợp sau:
Khi bên đề nghị ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chỉ có hiệu lực nếu thực
hiện trong thời hạn đó. Sau thời hạn này, chấp nhận được coi là đề nghị mới của bên
chậm trả lời. Nếu trả lời chậm vì lý do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết
về lý do khách quan này thì thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực,
trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó của bên được
đề nghị.
11


Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại
hoặc qua phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc
không chấp nhận, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận về thời hạn trả lời.
- Thời điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
Về nguyên tắc, hợp đồng mua bán được giao kết khi các bên đạt được thỏa thuận.
Theo Điều 400 BLDS 2015, thời điểm này được xác định cụ thể như sau:
“1. Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao
kết.

2. Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp
đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của
thời hạn đó.
3. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận
về nội dung của hợp đồng.
4. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào
văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.
Trường hợp hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó được xác lập bằng văn bản
thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định theo khoản 3 Điều này.”
1.2.2.2. Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa sau khi đã được giao kết, các bên cần phải thực hiện
nghiêm chỉnh tất cả những cam kết trong hợp đồng, cụ thể là thực hiện theo đúng nội
dung về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Luật Thương mại quy định
những nội dung đặc thù về mua bán hàng hóa với tính chất là một hoạt động thương
mại. Trong trường hợp cần có những quy định chuyên biệt trong những hoạt động
thương mại cụ thể thì luật chuyên ngành sẽ điều chỉnh theo tính chất chuyên biệt trong
hoạt động chuyên ngành theo nguyên tắc áp dụng luật thì sẽ ưu tiên áp dụng các quy
định về hợp đồng chuyên ngành đó.
- Quyền và nghĩa vụ của bên bán:
+ Quyền cơ bản của bên bán:
Thứ nhất, trong hợp đồng mua bán, bên bán cũng như bên mua có quyền tự do kí
kết hợp đồng và thỏa thuận về các vấn đề của hợp đồng như: số lượng, chất lượng
hàng hóa; thời gian, địa điểm giao hàng; các quyền và nghĩa vụ…
Thứ hai, quyền được bên mua thanh toán: Bên bán có quyền nhận được thanh
toán từ bên mua theo đúng những nội dung mà hai bên đã thỏa thuận trước như
phương thức thanh toán, địa điểm, thời hạn thanh toán… Trường hợp hàng hóa mất
mát, hư hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên bán sang bên mua thì bên mua
vẫn phải thanh toán. Trường hợp người mua vi phạm thời gian thanh toán, thì người
12



bán có quyền đòi lại tiền lãi do chậm thanh toán tiền hàng…
+ Nghĩa vụ cơ bản của bên bán:
Thứ nhất, nghĩa vụ giao hàng
Giao hàng đúng đối tượng và chất lượng: bên bán phải kiểm tra chất lượng hàng
hoá trước khi giao hàng, nếu hai bên có thoả thuận trong hợp đồng thì bên bán phải
đảm bảo cho bên mua tham dự việc kiểm tra.
Giao hàng đúng số lượng: Các bên có thể thoả thuận số lượng, cách thức đo
lường, đơn vị đo lường. Trường hợp giao hàng thừa, người mua trả tiền cho số hàng
đó, có quyền từ chối số giao thừa. Nếu nhận số hàng giao thừa, người mua phải thoả
thuận giá. Trường hợp người bán giao thiếu hàng, thì buộc bên bán phải chịu các chế
tài hoặc nhận phần đã giao, đồng thời yêu cầu bên bán giao tiếp phần còn thiếu trong
một thời hạn nhất định.
Giao hàng đúng thời hạn: Bên bán phải giao hàng đúng thời điểm giao hàng thoả
thuận trong hợp đồng (Điều 37 LTM 2005). Trường hợp chỉ có thỏa thuận về thời hạn
giao hàng mà không xác định thời điểm giao hàng cụ thể thì bên bán có quyền giao
hàng vào bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn đó và phải thông báo trước cho bên mua.
Nếu không có thỏa thuận về thời hạn giao hàng thì bên bán phải giao hàng trong một
thời hạn hợp lý sau khi giao kết hợp đồng. Trường hợp bên bán giao hàng trước thời
hạn đã thoả thuận thì bên mua có quyền nhận hoặc không nhận hàng.
Giao hàng đúng địa điểm: Bên bán có nghĩa vụ giao hàng đúng địa điểm đã thoả
thuận (Khoản 1 Điều 35 LTM 2005). Trường hợp không có thoả thuận về địa điểm
giao hàng thì: Trường hợp hàng hoá là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao
hàng tại nơi có hàng hoá đó; Trường hợp trong hợp đồng có quy định về vận chuyển
hàng hoá thì bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên; Trường
hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển hàng hoá, nếu vào thời điểm
giao kết hợp đồng, các bên biết được địa điểm kho chứa hàng, địa điểm xếp hàng hoặc
nơi sản xuất, chế tạo hàng hoá thì bên bán phải giao hàng tại địa điểm đó...
Thứ hai, nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua quy định tại điều
45 LTM 2005. Bên bán phải bảo đảm quyền sở hữu, tính hợp pháp của hàng hóa và

chuyển giao quyền sở hữu đối với hàng hóa giao cho bên mua, đảm bảo hàng hóa đã
bán không bị tranh chấp bởi bên thứ ba.
Nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hoá theo khoản điều 46
LTM 2005, bên bán không được bán hàng hóa vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Bên bán
phải chịu trách nhiệm trong trường hợp có tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí
tuệ đối với hàng hóa đã bán.
Thứ ba, nghĩa vụ bảo hành hàng hoá (Điều 49 LTM 2005). Trường hợp hàng hoá
13


mua bán có bảo hành thì bên bán phải chịu trách nhiệm bảo hành hàng hoá đó theo nội
dung và thời hạn đã thỏa thuận. Bên bán phải thực hiện nghĩa vụ bảo hành trong thời
gian ngắn nhất mà hoàn cảnh thực tế cho phép. Bên bán phải chịu các chi phí về việc
bảo hành, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
- Quyền và nghĩa vụ của bên mua:
+ Quyền cơ bản của bên mua:
Thứ nhất, bên mua có quyền từ chối nhận hàng nếu hàng hoá không đảm bảo
chất lượng như mẫu hoặc không được bảo quản, đóng gói theo cách thức thông
thường, hàng hóa không phù hợp với hợp đồng theo khoản 2 Điều 39 LTM 2005.
Thứ hai, bên mua có quyền kiểm tra hàng hóa về số lượng, chất lượng, cách thức
đóng gói bảo quản... trước khi nhận hàng theo điều 44 LTM 2005.
Thứ ba, bên mua có quyền nhận hoặc từ chối nhận hàng khi bên bán giao hàng
trước thời hạn hoặc giao thừa (điều 38 và điều 43 LTM 2005). Trường hợp bên mua
chấp nhận số hàng thừa thì phải thanh toán theo giá thoả thuận trong hợp đồng nếu các
bên không có thoả thuận khác.
Thứ tư, bên mua có quyền yêu cầu bên bán chịu trách nhiệm khi giao thiếu hàng,
giao hàng không phù hợp theo hợp đồng.
Thứ năm, người mua có quyền ngừng thanh toán hoặc giữ lại một phần hoặc toàn
bộ tiền mua hàng nếu nhận hàng phát hiện hàng bị hư hỏng, có khuyết tật hoặc có
bằng chứng người bán hàng lừa gạt… Bên mua có thể lợi dụng ưu điểm này để chậm

thanh toán tiền hàng cho bên bán.
+ Nghĩa vụ cơ bản của bên mua:
Thứ nhất, tiếp nhận hàng: người mua phải thực hiện các việc cần thiết, kể cả
hướng dẫn gửi hàng để bên bán thực hiện nghĩa vụ giao hàng đúng hợp đồng. Khi
người mua vi phạm nghĩa vụ tiếp nhận, người mua phải chịu hậu quả pháp lý, người
bán phải áp dụng biện pháp cần thiết để bảo quản tài sản và có quyền yêu cầu thanh
toán chi phí hợp lý. Đối với hàng hoá có nguy cơ bị hư hỏng, người có nghĩa vụ có
quyền bán hàng hoá đó để ngăn chặn thiệt hại và trả tiền cho người mua từ khoản thu
được do việc bán hàng hoá sau khi trừ đi chi phí hợp lí để bảo quản và bán hàng hóa.
Thứ hai, nghĩa vụ thanh toán: Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng và
nhận hàng theo thỏa thuận. Bên mua phải tuân thủ các phương thức thanh toán, thực
hiện việc thanh toán theo trình tự, thủ tục đã thỏa thuận và theo quy định của pháp
luật. Thời gian thanh toán do các bên thỏa thuận, nếu các bên không có thỏa thuận thì
theo LTM 2005 bên mua phải thanh toán cho bên bán vào thời điểm bên bán giao hàng
hoặc giao chừng từ liên quan đến hàng hóa và kiểm tra xong hàng hóa trừ trường hợp
các bên thỏa thuận kiểm tra hàng hóa trước khi giao.
14


1.2.2.3. Sửa đổi và chấm dứt hợp đồng mua bán hàng hóa
- Sửa đổi hợp đồng hàng hóa: Hợp đồng đã được giao kết và có hiệu lực pháp lý
nhưng do điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi bên mà các bên có thể thỏa thuận sửa
đổi hợp đồng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi tiến hành sửa đổi hợp
đồng mua bán hàng hóa các bên phải giải quyết hậu quả của việc sửa đổi đó. Nó có thể
là chi phí đã bỏ ra để thực hiện một phần công việc trước khi sửa đổi mà bên thực hiện
không thu hồi được; hoặc chi phí để chuẩn bị cho việc thực hiện nghĩa vụ của hợp
đồng, mặc dù đã tận dụng, thanh lý nhưng chưa đủ bù đắp giá trị ban đầu của nó; hoặc
tiền bồi thường thiệt hại đã phải trả do sửa đổi hợp đồng. Hình thức ghi nhận việc sửa
đổi phải phù hợp với hình thức hợp đồng đã giao kết. Theo khoản 3 điều 421 Bộ luật
Dân sự 2015:" Hợp đồng sửa đổi phải tuân theo hình thức của hợp đồng ban đầu” .

Đối với các hợp đồng khác thì việc sửa đổi hợp đồng được ghi nhận bằng hình thức
nào là do các bên tự nguyện thỏa thuận với nhau.
- Chấm dứt hợp đồng mua bán hàng hóa:
Xuất phát từ lợi ích của mình mà các bên tham gia giao kết hợp đồng, xác lập
quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng. Hợp đồng đã có hiệu lực nhưng khi tiến hành thực
hiện nghĩa vụ thì các bên mới nhận thức được rằng họ cần phải chấm dứt hợp đồng vì
việc tiếp tục thực hiện hợp đồng không mang lại lợi ích hợp lý cho một bên hoặc cả
hai bên như họ kỳ vọng khi giao kết hợp đồng. Chính vì thế, trong điều 422 Bộ luật
Dân sự 2015 đã nêu ra các trường hợp chấm dứt hợp đồng như sau:
“1. Hợp đồng đã được hoàn thành;
2. Theo thỏa thuận của các bên;
3. Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại
mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện;
4. Hợp đồng bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện;
5. Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn;
6. Hợp đồng chấm dứt theo quy định tại Điều 420 của Bộ luật này;
7. Trường hợp khác do luật quy định.”
1.2.2.4. Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng mua bán hàng hóa
- Thương lượng
Đây là phương thức được các bên tranh chấp lựa chọn trước tiên, trong thực tiễn
phần lớn các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại được giải quyết bằng phương
thức này. Nhà nước khuyến khích áp dụng phương thức tự thương lượng để giải quyết
tranh chấp trên tinh thần hoàn toàn tôn trọng quyền thỏa thuận của các bên. Đây là một
trong những phương thức giải quyết tranh chấp giúp các bên tiết kiệm được chi phí
giải quyết cũng như không làm ảnh hưởng nhiều tới mối quan hệ giữa các bên trong
15


tranh chấp khi phát sinh tranh chấp.
- Hòa giải

Là việc các bên tiến hành thương lượng giải quyết tranh chấp với sự hỗ trợ của
bên thứ ba là hòa giải viên. Kết quả hòa giải phụ thuộc vào thiện chí của các bên tranh
chấp và uy tín, kinh nghiệm, kỹ năng của trung gian hòa giải, quyết định cuối cùng của
việc giải quyết tranh chấp hoàn toàn phụ thuộc các bên tranh chấp. Hình thức giải
quyết này có nhiều ưu điểm: nhanh gọn, chi phí thấp, các bên có quyền tự định đoạt,
lựa chọn hòa giải viên; không bị gò bó về mặt thời gian như tòa án. Hòa giải mang tính
thân thiện nhằm tiếp tục giữ gìn và phát triển các mối quan hệ kinh doanh vì lợi ích
của cả hai bên.
Bên cạnh đó, giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa giải vẫn còn tồn tại
những nhược điểm: phụ thuộc vào sự nhất trí của các bên, hòa giải viên không có
quyền đưa ra một quyết định ràng buộc hay áp đặt bất cứ vấn đề gì đối với các bên
tranh chấp thỏa thuận hòa giải không có tính bắt buộc thi hành như phán quyết của
trọng tài hay của tòa án. Thủ tục này ít được sử dụng nếu các bên không có sự tin
tưởng với nhau.
- Trọng tài
Trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết một tranh chấp cụ thể nào đó khi các bên
tranh chấp tự nguyện thỏa thuận lựa chọn trọng tài để giải quyết. Tuy nhiên khi giữa
các bên đã có một thỏa thuận trọng tài hợp pháp thì việc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài là bắt buộc. Khi đó tòa án sẽ được coi là không có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đó.
Ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp này là có tính linh hoạt, tạo
quyền chủ động cho các bên; tính nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian có thể rút
ngắn thủ tục tố tụng trọng tài và đảm bảo bí mật, phán quyết chung thẩm. Nhược điểm
là giải quyết bằng phương thức trọng tài đòi hỏi chi phí tương đối cao, vụ việc giải
quyết càng kéo dài thì phí trọng tài càng cao.Việc thi hành quyết định trọng tài không
phải lúc nào cũng trôi chảy, thuận lợi như việc thi hành bản án, quyết định của tòa án.
- Tòa án
Toà án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền
lực nhà nước được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay
quyết định của Toà án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được

đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước.
Việc đưa tranh chấp ra xét xử tại Tòa án có ưu điểm là khả năng thực thi cao
nhưng cũng có những nhược điểm nhất định như: thủ tục tại Tòa án thiếu linh hoạt do
đã được pháp luật quy định trước đó. Bên cạnh đó, nguyên tắc xét xử công khai của
16


Tòa án tuy là nguyên tắc được xem là tiến bộ, mang tính răn đe nhưng đôi khi lại là
cản trở đối với doanh nhân khi những bí mật kinh doanh bị tiết lộ.
Chính vì những nhược điểm này mà hình thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án
ít khi được các thương nhân lựa chọn và các thương nhân thường xem đây là phương
thức lựa chọn cuối cùng của mình khi các phương thức thương lượng, hòa giải, trọng
tài không mang lại hiệu quả.
1.3. Một số nguyên tắc pháp luật điều chỉnh về hợp đồng mua bán hàng hóa
Các yêu cầu, nguyên tắc của pháp luật điều chỉnh vấn đề hợp đồng mua bán hàng
hóa được quy định hầu hết tại LTM 2005. Tuy nhiên, nó cũng chịu sự điều chỉnh của
BLDS 2015. Bộ luật Dân sự được coi là luật gốc quy định các vấn đề chung về hợp
đồng, là nền tảng cho pháp luật về hợp đồng, điều chỉnh các quan hệ hợp đồng được
xác lập trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thoả thuận và tự chịu trách nhiệm.
Các nguyên tắc trong việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quy định khá rõ ràng.
Những yêu cầu, nguyên tắc này nhằm đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp cũng từ đó để
doanh nghiệp có thể thực hiện đúng yêu cầu của Nhà nước và không vi phạm những
điều mà pháp luật không cho phép. Các bên khi tham gia giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
- Thứ nhất, trong các hợp đồng yếu tố cơ bản nhất là sự thỏa hiệp giữa các ý chí,
tức là có sự ưng thuận giữa các bên với nhau. Đương nhiên tự do hợp đồng không phải
là tự do tuyệt đối. Nhà nước buộc các bên khi giao kết hợp đồng phải tôn trọng đạo
đức, trật tự xã hội, trật tự công cộng. Trong những trường hợp thật cần thiết, nhân danh
tổ chức quyền lực công, nhà nước có thể can thiệp vào việc ký kết hợp đồng và do đó
giới hạn quyền tự do giao kết hợp đồng. Tuy nhiên sự can thiệp này phải là sự can

thiệp hợp lý và được pháp luật quy định chặt chẽ để tránh sự lạm dụng, vi phạm quyền
tự do hợp đồng.
- Thứ hai, ý chí chỉ phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý khi người giao kết có
đầy đủ năng lực hành vi để xác lập hợp đồng.
- Thứ ba, yếu tố không thể thiếu của hợp đồng chính là đối tượng. Sự thống nhất
ý chí của các bên phải nhằm vào một đối tượng cụ thể. Mọi hợp đồng phải có đối
tượng xác định. Đối tượng của hợp đồng phải được xác định rõ rệt và không bị cấm
đưa vào các giao dịch dân sự – kinh tế. Chẳng hạn, đối tượng của hợp đồng mua bán
phải là những thứ không bị cấm. Nếu đối tượng của hợp đồng là bất hợp pháp thì hợp
đồng bị coi là vô hiệu.
Cùng các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại được quy định từ Điều
10 đến Điều 15 của LTM 2005. Đó là:
+ Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động thương
17


mại (Điều 10)
+ Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại (Điều 11)
+ Nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại được thiết lập giữa
các bên (Điều 12)
+ Nguyên tắc áp dụng tập quán pháp trong hoạt động thương mại (Điều 13)
+ Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng (Điều 14)
+ Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động
thương mại (Điều 15)
Một khi hợp đồng được hình thành một cách hợp pháp thì nó có hiệu lực như
pháp luật đối với các bên giao kết. Đây là nguyên tắc cơ bản của pháp luật hợp đồng.
Sau khi hợp đồng được xác lập với đầy đủ các yếu tố thì hợp đồng đó có hiệu lực ràng
buộc như pháp luật, các bên buộc phải thực hiện cam kết trong hợp đồng, mọi sự vi
phạm sẽ dẫn đến trách nhiệm tài sản mà bên vi phạm sẽ phải gánh chịu. Khi giải quyết
tranh chấp hợp đồng, xử lý vi phạm hợp đồng, tòa án hoặc trọng tài phải căn cứ vào

các điều khoản mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng để ra bản án hoặc quyết định
công bằng, đúng đắn.

18


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ HỢP ĐỒNG MUA
BÁN HÀNG HÓA VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ VINH THỦY
2.1. Tổng quan về Công ty Cổ phần Thương mại và Dịch vụ Vinh Thủy và
các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công
ty
2.1.1. Tổng quan về Công ty Cổ phần Thương mại và Dịch vụ Vinh Thủy
a, Giới thiệu khái quát về doanh nghiệp
Tên công ty: CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ VINH
THỦY
Mã số thuế: 2700271545
Địa chỉ: Số 3, đường Quyết Thắng, Phường Đông Thành, Thành phố Ninh Bình,
Tỉnh Ninh Bình.
Số điện thoại/ Fax: 03038715687.
Tổng Giám Đốc: Nguyễn Văn Vinh.
Website: http:www.vinhthuypro.com.
Công ty thành lập năm 2008 được Piaggio Việt Nam cho phép thành lập cửa
hàng bán xe máy và dịch vụ do Piaggio Việt Nam ủy nhiệm. Với số vốn điều lệ là:
30.000.000.000 VNĐ.
b, Quá trình hình thành và phát triển:
Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Vinh Thủy được thành lập năm 2008.
Hoạt động chủ yếu về lĩnh vực vận tải, tư vấn doanh nghiệp.
Ngày 23/05/2008, công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Vinh Thủy vinh dự
được Piaggio Việt Nam cho phép thành lập Cửa hàng bán xe máy và dịch vụ do

Piaggio uỷ nhiệm. Đại lý Vinh Thủy tại Ninh Bình thực hiện mô hình đạt chuẩn 3S của
Piaggio: Sales – Services – Sparepart (Bán hàng – Dịch vụ - Phụ tùng), theo tiêu chuẩn
nhận dạng thương hiệu của Tập đoàn Piaggio, hứa hẹn sẽ mang đến cho khách hàng
dịch vụ bán hàng và hậu mãi chuyên nghiệp. Với phương châm đặt khách hàng vào vị
trí trung tâm trong mọi quyết định và hành động.
Qua 9 năm phát triển Piaggio Vinh Thủy đã trở thành một địa chỉ tin cậy về cung
cấp xe máy và dịch vụ tại Ninh Bình. Piaggio Vinh Thủy luôn đem lại lợi ích lớn nhất
đến khách hàng và đem đến các dòng sản phẩm xe máy thời trang, đẳng cấp phù hợp
với thu nhập của người tiêu dùng. Piaggio Vinh Thủy cam kết mang đến cho khách
hàng dịch vụ bán hàng và sau bán hàng tốt nhất.

19


Năm 2014 Piaggio Vinh Thủy mở rộng diện tích cửa hàng và nâng cấp khu dịch
vụ nhằm đem đến trải nghiệm hài lòng nhất cho khách hàng.
c, Chức năng và nhiệm vụ của công ty
* Chức năng:
- Thực hiện các khâu trong dòng lưu chuyển hàng hóa (bao gồm xe máy, các phụ
tùng và các dịch vụ đi kèm) từ nơi sản xuất (nơi sản xuất của công ty Piaggio hay
chính tại các chi nhánh được Piaggio ủy nhiêm) tới người tiêu dùng.
- Chức năng tiếp tục sản xuất trong khâu lưu thông:
Trong quá trình trao đổi hàng hóa, lưu thông sản phẩm từ lĩnh vực sản xuất đến
lĩnh vực tiêu dùng, công ty phải thực hiện việc phân loại các loại xe, chọn lọc, vận
chuyển, đảm bảo khâu bảo quản xe máy và các phụ tùng trong kho, hướng dẫn sử
dụng, sửa chữa, lắp ráp, bảo hành sản phẩm…
Chức năng này nhằm hoàn thiện sản phẩm ở dạng tốt nhất để sản phẩm thích hợp
với nhu cầu của người tiêu dùng.
- Chức năng dự trữ hàng hóa và điều hòa cung-cầu:
Mỗi chi nhánh do Piaggio ủy nhiệm cần có chức năng cung ứng đầy đủ, kịp thời,

đồng bộ, đúng chất lượng, số lượng sản phẩm, và ở những nơi thuận tiện cho khách
hàng.
Để làm được điều đó thì cần tới sự có mặt của hàng hóa dự trữ. Công ty cổ phần
thương mại và dịch vụ Vinh Thủy thông qua mạng lưới các đại lý rộng lớn, với mức
độ bao phủ rộng khắp trên phạm vi cả nước, có thể đảm bảo thuận lợi cho khách hàng
mua những loại xe, hay phụ tùng, hay các dịch vụ đi kèm cần thiết, vừa tiết kiệm được
thời gian, mà khách hàng lại không cần phải đi quá xa.
* Nhiệm vụ:
- Hoạt động kinh doanh đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng về nhu cầu mua
mới phương tiện đi lại, sửa chữa và bảo dưỡng, thay thế phụ tùng các dòng xe Piaggio.
- Thực hiện đầy đủ các cam kết đối với khách hàng về sản phẩm, dịch vụ, giải
quyết thỏa đáng các mối quan hệ lợi ích với các chủ thể kinh doanh theo nguyên tắc
bình đẳng, cùng có lợi;
- Bảo toàn và tăng trưởng vốn, mở rộng kinh doanh;
- Bảo vệ môi trường, bảo vệ sản xuất, bảo đảm an ninh, an toàn và trật tự xã hội;
- Chấp hành pháp luật, thực hiện chế độ hạch toán thống kê thống nhất và thực
hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước.
d, Ngành nghề kinh doanh của Piaggio Vinh Thủy.
- Lắp ráp, mua bán xe máy mang nhãn hiệu Piaggio.
- Cung cấp dịch vụ bảo hành, sửa chữa, bảo dưỡng cho xe máy Piaggio.
20


×