Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Luận văn cao cấp chính trị THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở TỈNH BẠC LIÊU TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.69 KB, 27 trang )

Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị
LỜI MỞ ĐẦU

Phát triển bền vững được hiểu là “Kiểu phát triển vừa đáp ứng được nhu
cầu của các thế hệ hiện tại, vừa không ảnh hưởng đến khả năng mà các thế
hệ tương lai đáp ứng các nhu cầu của mình. Tháng 06/1992 Hội nghị thương
đỉnh về môi trường và phát triển họp tại Raode.Janiero đã đưa ra bản tuyên
ngôn “Về môi trường và phát triển”. Hội nghị đã coi “phát triển bền vững là
mục tiêu lâu dài cần đạt được của mọi quốc gia” của mọi hoạt động nhằm
thúc đẩy tăng trưởng, nhưng cũng tìm mọi phương cách để giảm thiểu tác hại
của tăng trưởng kinh tế đến môi trường sống của xã hội loài người.
Tăng trưởng có thể là điều kiện cần đối với sự phát triển nhưng nó chưa
phải là điều kiện đủ, tăng trưởng mà không phát triển sẽ dẫn đến suy thoái cả
về kinh tế và xã hội ngược lại phát triển mà không tăng trưởng là không tồn
tại trong thực tế.
Ở nước ta quá trình hình thành chiến lược phát triển kinh tế –xã hội và
đổi mới cơ chế quản lý cũng là quá trình xác định rõ hơn vai trò của nông
nghiệp. Việc chuyển từ chiến lược “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý sang tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu”, “thực hiện ba chương trình kinh tế”. Đã góp phần quan
trọng trong việc tạo ra bước phát triển vượt bậc của nền kinh tế trong những
năm đổi mới nghị quyết Đại hội lần thứ IX chỉ rõ trong thập kỷ 2001 –2010
cần “Tăng cường sự lãnh đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục phát
triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp lên một trình độ mới”
(trang 92)
Khai thác và nuôi trồng thủy sản là những ngành mà nước ta còn nhiều
tiềm năng, thế mạnh. Thực hiện quy hoạch xác định hướng nuôi trồng, đánh
bắt, chế biến cho từng vùng để nhanh chóng đưa thuỷ sản thành ngành kinh


tế mũi nhọn là công việc cần chú trọng.
Khi bàn về phát triển kinh tế giữa các ngành, Hồ Chí Minh chỉ rõ :
“công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển; cho nên công nghiệp
và nông nghiệp phải giúp đỡ nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi
khoẻ và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và chóng đi đến mục đích” (Trang 16.
T19. HCMTT).

Trang 1


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị

Quá trình đổi mới ở nước ta đang thu được nhiều kết quả đáng mừng,
nền kinh tế nước ta đã ra khỏi khủng hoảng, tốc độ tăng trưởng khá và ổn
định. Chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành, các vùng có sự chuyển biến rõ rệt,
phát huy mọi nguồn lực để thúc đẩy kinh tế –xã hội phát triển mang tính bền
vững.
Bạc Liêu là một 1 trong 32 tỉnh của cả nước có điều kiện để phát triển
ngành nghề nuôi trồng thủy sản ở cả hai vùng sinh thái khác nhau đó là nuôi
trồng thủy sản ở nước ngọt và nước mặn. Báo cáo chính trị tại Đại hội lần
thứ XII của Đảng bộ tỉnh nêu rõ : “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới
toàn diện, tập trung khai thác tiềm năng và lợi thế kinh tế nông nghiệp và
nông thôn, bảo đảm đạt tốt độ tăng trưởng nhanh và bền vững với chất lượng
và hiệu quả trên 1 đơn vị diện tích ngày càng cao, tăng tích lũy đáng kể cho
nội bộ nền kinh tế”.
Được học tập và nghiên cứu môn kinh tế phát triển đã trang bị cho bản
thân những lý luận cơ bản, làm sáng tỏ nhiều vấn đề đang đặt ra trong thực
tiễn cuộc sống ở đơn vị và địa phương công tác. Đây là những trang bị lý

luận cần thiết đối với cán bộ làm công tác quản lý ở cơ sở, giúp cho họ có
nhận thức đầy đủ về nền kinh tế thị trường trong xu thế hội nhập quốc tế và
khu vực, đảm bảo tăng trưởng và phát triển bền vững, gắn phát triển với tiến
bộ và công bằng xã hội, thực hiện mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh”.
Qua thời gian học tập, nghiên cứu và khảo sát thực tiễn để viết tiểu luận
với mong muốn sẽ góp 1 viên gạch nhỏ trong chiến lược phát triển kinh tế
biển – Một ngành đầy tiềm năng và hấp dẫn này.
Trong quá trình tìm hiểu để thực hiện đề tài bản thân luôn nhận được sự
giúp đỡ tận tình của văn phòng tỉnh uỷ, Ban lãnh đạo sở thủy sản tỉnh Bạc
Liêu. Đặc biệt được sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô trong Khoa kinh
tế phát triển trong Phân viện Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ em hoàn
thành tiểu luận này. Em xin chân thành cám ơn./.

Trang 2


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị
CHƯƠNG I

SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN NGHỀ NUÔI TRỒNG
THỦY SẢN (NTTS) TRONG SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ –XÃ HỘI.
1.1. Tính tất yếu của việc phát triển nuôi trồng thủy sản
Ta biết rằng Việt Nam có bờ biển dài trên 3.200 km2, có vùng đặc quyền
kinh tế sông xấp xỉ 1 triệu km2, có trên 3.000 hòn đảo lớn nhỏ nhằm rải rác ở
các vùng từ Bắc đến Nam. Có 112 cửa sông lớn nhỏ. Ngoài ra còn có hàng
vạn ao hồ với diện tích lớn hơn 1 triệu ha mặt nước. Sông ngòi, ao hồ, biển
cả của Việt Nam trở thành nơi cư ngụ sinh sôi nảy nở của vô vàn các loại

thuỷ sản khác nhau. Khí hậu Việt Nam là vùng nhiệt đới, gió mùa nóng ẩm
hết sức lý tưởng cho nhiều loại thuỷ sản phát triển gồm thủy sản nước mặn,
thuỷ sản nước lợ và thuỷ sản nước ngọt.
Hệ sinh thái ven biển Việt Nam thuộc loại đa dạng sinh học bao gồm
rừng nhiệt đới, đất rừng ngập nước, rừng ngập mặn, đất trồng trọt nông
nghiệp, thảm thực vật trên cạn, thảm cỏ biển, các dạng san hô sinh sống dưới
biển. Nguồn lợi thủy sản bao gồm mọi sinh vật có giá trị kinh tế, khoa học,
sống ở các vùng nội địa, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lụa địa Việt Nam.
Thuỷ sản là nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu hạn và có khả năng tái
tạo. Nguồn lợi thủy sản phong phú và đa dạng bao gồm khoảng 12.000 loài
thực vật, 7.000 động vật, chiếm 10% tổng số loài động thực vật tìm thấy trên
thế giới. Việt Nam có khoảng trên 1.700 loài cá trong đó co 130 loài có giá
trị thương mại, 1.600 loài giáp xác, nhuyễn thể, vích, rùa, rắn biển, sam biển,
và trên 600 loài rong tảo, rau câu với hàng chục loài san hô. Theo nghiên cứu
của các nhà khoa học thì trữ lượng hải sản của Việt Nam có khoảng 3,5 triệu
tấn và có khả năng cho khai thác hàng năm từ 1 –1,3 triệu tấn. Nguồn lợi
thủy sản nước ngọt cũng khá phong phú, ở phía Bắc có 240 loài cá trong đó
có 30 loài có giá trị kinh tế cao, ở phía Nam có khoảng 255 loài trong đó có
42 loài có giá trị kinh tế cao.
Tuy nhiên, nguồn lợi thủy sản Việt Nam đang trên đà suy giảm dần
trong đó có nguyên nhân quan trọng là tính đa dạng sinh học ở vùng sinh thái
ven biển bị xâm phạm, bị khai thác bừa bãi đến mức cạn kiệt, rừng ngập mặn
bị phá huỷ mạnh, rừng đầu nguồn bị suy kiệt lớn, độ che phủ rừng từ 40%
đến nay còn trên 20%, diện tích che phủ chỉ còn 9,3 triệu ha, nước biển, song

Trang 3


Tiểu luận tốt nghiệp


Cao cấp Lý luận chính trị

ngòi càng bị ô nhiễm nghiêm trọng, hàm lượng dầu, hàm lượng chì, sắt… và
các kim loại khác trong nước đều quá chỉ tiêu cho phép. Các chất thải rắn,
độc hại từ các khu công nghiệp, các nhà máy chế biến đang làm cho nguồn
nước biển bị ô nhiễm nặng từ những lý do trên đang làm cho các loài động
thực vật thuỷ sinh có nguy cơ tuyệt chủng.
Mặc khác, với sự vô thức khai thác của con người, tình trạng khai thác
ngày càng cao có nguy cơ bị cản kiệt trong khi đó đời sống vật chất của con
người với nhu cầu ngày càng cao thì nhu cầu tiêu dùng hàng thuỷ sản cũng
có ảnh hưởng lớn đến quan niệm của ông cha ta xưa là rừng vàng, biển
bạc…
Được giải quyết có hiệu quả thực trạng khai thác nguồn lợi thủy sản
ngày càng cạn kiệt thì một giải pháp hữu hiệu nhất vừa duy trì bảo vệ các
loài thuỷ hải sản vừa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của con người đó
chính là phát triển ngành nuôi trồng thủy sản. Với các nước phát triển thì
việc nuôi trồng thủy hải sản đã đi trước chúng ta 5 –7 thập kỷ trong khi đó
Việt Nam có lợi thế hơn về điều kiện địa lý thì lại ít được quan tâm.
Mãi đến sau Đại hội 6 và phải đến đầu những năm 90 của thế kỷ 20 thì
Việt Nam mới quan tâm nhiều hơn đến lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Đây là
những vấn đề đặt ra cho công tác quản lý bảo vệ và xây dựng cơ cấu kinh tế
biển ngang tầm với tiềm năng của nó trong sự chuyển dịch cây trồng vật nuôi
ở lĩnh vực này.
1.2. Vai trò của việc nuôi trồng thủy sản đối với phát triển kinh tế –
xã hội.
Xu thế hướng ra biển từ lâu đã được ông cha ta quan tâm qua truyền
thuyết Mẹ Âu cơ 100 trứng, 50 người con lên rừng và 50 người con xuống
biển đã thể hiện khác vọng của tổ tiên ta muốn được chinh phục biển khơi.
Ngoài nghề trồng lúa nước, các nghề sản xuất khác, như đánh bắt các hải sản

ven biển nhất là lúc nước cạn. Nghề khai thác thuỷ sản có vai trò rất quan
trọng trong đời sống nhân dân và phát triển kinh tế của đất nước. Có thể nói
đây là một thế mạnh của đất nước. Khai thác thủy sản là một ngành kinh tế
quốc dân. Từ những năm 1990 –1995 nghề thủy sản đóng góp xấp xỉ 3%
cho tổng sản phẩm quốc nội hàng năm. Nếu kể cả nuôi trồng và chế biến thì
mức đóng góp là 6,3% GDP.
Hiện nay, trong cả nước có 32 tỉnh thành có đông đảo dân cư sống bằng

Trang 4


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị

nghề khai thác hải sản. Nghề nuôi cá không chỉ là thú vui mà còn một nguồn
thu nhập của hàng triệu gia đình trong cả n. Tục ngữ từ xa xưa đã nói :
“Muốn giàu thì nuôi cá, muốn khá thì nuôi heo…”. Nuôi cá tạo thu nhập ở
các ao hồ, sông, suối ở nước ngọt cũng như nước lợ đã tạo ra nguồn thu nhập
khá cho nhiều gia đình ở mọi vùng, mọi miền đất nước.
Từ lao động đánh bắt, người dân cư đã sáng tạo ra các phương tiện đánh
bắt như : Chài, lưới, đăng, đó, đáy với các phương tiện như thuyền ghe tàu…
tới việc nuôi trồng các loại thủy sản ở nước ngọt, nước lợ, nước mặn đã đem
lại sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng và trao đổi buôn bán đã trở
thành ngành nghề, thành công ăn việc làm của một bộ phận dân cư sống trên
đất nước ta. Gắn liền với các hoạt động đánh bắt, từ việc bao ví đê, lợi dụng
nước thuỷ triều đưa lượng ấu trùng tôm, cá, cua theo con nước vào các đầm
nước rồi qua một thời gian ngư dân đã xã nước ra để thu tôm cá. Những ngày
đầu tiên thật là dễ dàng, trữ lượng tôm cá, cua tự nhiên rất nhiều, các ngư
dân sống rất thoải mái nhất là lượng tôm bạc, đất và cá kèo, có những con

nước cá kèo nổi đen trên mặt láng thu 5 –7 tấn cá là chuyện thường. Nhưng
rồi trữ lượng tôm cá tự nhiên giảm do đất hẹp, người đông, người khôn của
khó, khai thác mãi đã đến lúc cạn kiệt. Do vậy nghề nuôi trồng thủy sản tạo
cho ngư dân nghiên cứu vào tạo lập các nghề mới như tạo giống thủy sản có
năng suất, chất lượng hiệu quả cao như : Giống tôm sú, tôm thẻ, cá chẻm,
cua… đồng thời với việc tạo ra giống thuỷ hải sản ngư dân còn tìm tòi học
hỏi để phòng và trị các dịch bệnh trồng nghề nuôi trồng thủy sản. Gắn liền
với đánh bắt, nuôi trồng, thu lượm thuỷ hải sản các ngành chế biến thuỷ hải
sản cũng ra đời từ đó như chế biến nước mắm, tôm đông lạnh, chế biến thuỷ
sản khô để tiêu thụ trong nước và phục vụ xuất khẩu. Hiện nay cả nước ta có
khoảng 168 nhà máy chế biến thủy hải sản đông lạnh. Công suất khoảng
800 tấn/ ngày. Như vậy, tách ra từ nông nghiệp nghề đánh bắt, nuôi trồng và
chế biến tiêu thụ thuỷ sản từng bước phát triển trở thành những ngành nghề
đặc thù, tạo ra việc làm thu nhập ổn định cho một phận dân cư.
Tổng số lao động làm việc trong ngành thuỷ sản ước tính lên tới 3,5
triệu người, xét về lao động khai thác thuỷ sản thì có 93% lao động thuộc các
thành phần kinh tế hộ gia đình, bao gồm cá thể, tư nhân và số hộ tham gia
vào các tập đoàn, các hợp tác xã khai thác đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản.
Nghề kinh tế thuỷ sản có vai trò quan trọng trong việc cung cấp dinh
dưỡng có nguồn động vật cho nhân dân như: tôm, cá tươi, khô, nước mắm,
mắm tôm, mắm ruốc trở thành những món ăn thông dụng hàng ngày, chứa
đựng yếu tố văn hoá ẩm thực của dân tộc Việt Nam. Sản lượng thuỷ sản khai
Trang 5


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị

thác hàng năm bình quân đầu người ở nước ta từ 8 – 15 kg. Trong đó giành

hơn 70% cho tiêu thụ nội địa, so với thế giới là 17,6% kg/ người/ năm. Tuy
còn thấp nhưng lương thực phẩm thuỷ sản đã cung cấp đạm động thực vật
quan trọng.
Đặc biệt nghề thuỷ sản ngoài vấn đề tạo việc làm tăng thu nhập cho một
bộ phận đáng kể quần chúng nhân dân nhưng nó còn gắn chặt kinh tế xã hội
với bảo đảm an ninh của đất nước. Đây là quan điểm xuyên suốt của Đảng ta
trong quá trình phát triển đất nước. Biển đông là vùng biển rộng có vị trí
chiến lược, có nhiều tiềm năng kinh tế chưa được khai thác tốt. Với những
giá trị qúy giá về nhiều mặt biển đông đang trở thành vùng tranh chấp phức
tạp của nhiều người. Với chiến lược quốc phòng toàn dân nhằm bảo vệ an
ninh quốc gia trên vùng đất nước đang là vấn đề bức xúc của nước ta.
Như vậy, việc khai thác đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản có một vai trò
quan trọng trong việc tạo ra việc làm đời sống và thu nhập cho một bộ phận
không nhỏ dân cư của đất nước, tạo nguồn hàng xuất khẩu ổn định có giá trị
kinh tế cao, tạo nguồn thực phẩm tiêu thụ nội địa đảm bảo dinh dưỡng cho
cuộc sống nhân dân, phát triển kinh tế với quốc phòng và bảo vệ an ninh
quốc gia đã được Đảng ta quan tâm trong Nghị quyết Trung ương lần thứ 8
khoá IX.
1.3. Ý nghĩa của việc phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản.
Việc khai thác bừa bãi làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên trên mặt đất,
trong lòng đất và dưới đáy đại dương đã và đang để lại cho con người những
hậu quả khôn lường. Ngày nay, trong điều kiện mối quan hệ giữa xã hội và
tự nhiên phải được nhìn nhận lại bao quát cả về quá trình tự nhiên và quá
trình xã hội. Ở đó nhân loại phải tính đến phạm vi, tính chất, giới hạn cho
phép việc khai thác nuôi dưỡng bảo vệ môi trường tự nhiên đang được đặt ra
cho toàn nhân loại đó là việc bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ các nguồn
lợi thuỷ sản. Điều quan trọng hơn đó là việc tái tạo, nuôi trồng, khai thác hợp
lý theo đúng quy luật tự nhiên.
Gắn bó máu thịt với môi trường địa lý tự nhiên, các loài thuỷ hải sản
sinh tồn và phát triển theo quy luật tự nhiên, việc khai thác các tiềm năng

trên mặt đất, trong lòng đất ngoài biển khơi con người với khối óc và bàn tay
với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ con người đã làm
nên những kỳ tích đáng khâm phục. Hiện nay tại Quảng Ninh chúng ta đã
nuôi được trai lấy ngọc, nuôi được đồi mồi để phục vụ cho công nghiệp chế
biến đồ trang sức, ở miền Trung ta đã nuôi thành công tôm hùm phục vụ cho
xuất khẩu, ở khu vực phía Nam lợi dụng thủy triều mà ở An Giang những
Trang 6


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị

nhà nổi nuôi cá tra, cá basa đem lại nguồn lợi kinh tế rất lớn. Đặc biệt thời
gian gần đây việc sản xuất ra tôm sú, tôm thẻ chân trắng phục vụ cho việc
nuôi trồng thuỷ sản có bước đột phá mạnh mẽ làm cho tốc độ tăng trưởng
kinh tế nhiều tỉnh đạt tỷ trọng cao, là ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ cấu
kinh tế thời gian qua.
Nhưng nuôi trồng thủy sản như thế nào để thể hiện tính bền vững, đem
lại hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo tốc độ tăng trưởng ổn định đang là bài toán
mà các nhà hoạch định chiến lược quan tâm trăn trở, ta biết rằng mục tiêu
của mỗi quốc gia là tạo ra sự tiến bộ toàn diện mà tăng trưởng kinh tế là một
điều kiện quan trọng, tăng trưởng kinh tế tác động thúc đẩy sự tiến bộ về mọi
mặt xã hội. hình thành cơ cấu kinh tế bao hàm ý nghĩa rộng lớn, nó không
chỉ bao gồm những thay đổi về sự tăng thêm về quy mô sản lượng và sự tiến
bộ về cơ cấu kinh tế xã hội. sự tăng lên về quy mô sản xuất, làm tăng thêm
giá trị sản lượng, của cải vật chất, dịch vụ và sự biển đổi tích cực và cơ cấu
kinh tế, tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý có khả năng khai thác nguồn lực
trong nước và nước ngoài.
Việc tăng trưởng và phát triển mang tính bền vững được hội nghị Trung

ương lần thứ 9 khoá IX vào những ngày đầu xuân giáp Thân thể hiện sự
quan tâm của Đảng ta trong công cuộc đổi mới đất nước cụ thể là : “Đẩy
nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế trong 2 năm 2004 –2005 mỗi năm đạt trên
8%. Tạo bước tiến rõ rệt về chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của các
sản phẩm, các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế; nâng cao vai trò của khoa
học và công nghệ, giáo dục và đào tạo đóng góp cho sự phát triển nhanh, bền
vững của đất nước…”.
Như vậy, phát triển bền vững nghề nuôi trồng thủy sản có một ý nghĩa
hết sức quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn của cả nước nói chung, của Bạc Liêu nói riêng, nó không
những đảm bảo sản lượng ngày càng tăng cung cấp cho nguồn hàng xuất
khẩu tạo kim ngạch cao, vừa không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, tạo
việc làm và thu nhập ổn định cho một bộ phận không nhỏ lực lượng sản xuất
có tính truyền thống của ngư dân vùng ven biển kết hợp với bảo vệ môi
trường bảo vệ hệ sinh thái biển và các loài thuỷ hải sản đang sinh sống ở
vùng ngập mặn nước ta.

Trang 7


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị

CHƯƠNG II :
THỰC TRẠNG NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN
Ở BẠC LIÊU THỜI GIAN QUA.
2.1. Điều kiện tự nhiên.
Cũng như các tỉnh ven biển khác, Bạc Liêu có tiềm năng khá về kinh tế
thuỷ sản. Với 56 km bờ biển, 1 ngư trường rộng lớn với nhiều loài thuỷ sản

có giá trị kinh tế, đặc biệt dọc theo bờ biển có 3 cửa sông lớn rất thuận lợi
cho việc khai thác hải sản nhất là cung cấp nước mặn và con giống tự nhiên
cho nuôi trồng thủy sản. Khu vực nội địa nằm 2 bên quốc lộ 1A có hơn
135.000 ha đất thuộc vùng sinh thái nước mặn, lợ, có khả năng nuôi và phát
triển đa dạng các loài thuỷ sản có giá trị kinh tế cao, nhất là nghề nuôi tôm
sú, có điều kiện thích hợp cho việc hình thành các trung tâm sản xuất giống
phục vụ cho việc nuôi trồng. Ngoài những yếu tố thuận lợi về địa lý trên địa
bàn tỉnh hiện có 8 cơ sở chế biến thuỷ sản, có khả năng tiêu thụ 40% nguồn
nguyên liệu thuỷ sản của tỉnh. Bạc Liêu còn có thuận lợi về nguồn lao động
dồi dào, các ngư dân ở ven biển thì cần cù sáng tạo, từng bám biển, bám
rừng và gắn bó với nghề nhiều năm. Trong những năm gần đây phong trào
nuôi tôm phát triển mạnh với quy mô ngày càng lớn là 1 trong những tỉnh có
diện tích nuôi tôm công nghiệp lớn nhất cả nước với năng xuất sản lượng
ngày càng cao.
Tại văn kiện Đại hội lần thứ XII của tỉnh khẳng định : “Tiềm năng của
tỉnh vẫn còn lớn, đặc biệt là lĩnh vực thuỷ sản đang có lợi thế cạnh tranh
trong khu vực và trên thế giới”. Bạc Liêu có hai vùng kinh tế trọng điểm rõ
rệt. Vùng phía Bắc quốc lộ 1A (Huyện Vĩnh Lợi, Phước Long, Hồng Dân) là
vùng ngọt hoá thế mạnh chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, cây ăn trái và vùng
nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt. Vùng Nam quốc lộ 1A (một số xã thuộc
Huyện Vĩnh Lợi, TX Bạc Liêu, huyện Gia Rai, huyện Đông Hải). Hội nghị
lần thứ XII của tỉnh xác định tăng trưởng phát triển kinh tế với tốc độ nhanh
và bền vững “đối với vùng ngọt hoá cần phát triển mạnh lúa xuất khẩu kết
hợp nuôi cá, tôm, gia súc, gia cầm… theo hệ sinh thái ngọt….đối với vùng
thích nghi trước hết cần phải phát triển mạnh sản xuất lúa, tôm đi đôi với mở
rộng từng bước diện tích nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp… Bảo
đảm chuyển đổi đến đâu phát huy đến đó, đầu tư sắp xếp lại ngành nghề đề
nâng cao hiệu quả khai thác hải sản xa bờ, nuôi một số loài thuỷ hải sản phù
hợp và có hiệu quả kinh tế cao ở các bãi biển gắn với phát triển rừng phòng
Trang 8



Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị

hộ, bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản và môi trường sinh thái…
2.2. Về tình hình nuôi trồng thủy sản :
Trong những năm vừa qua, phong trào nuôi trồng thủy sản đã được phát
triển mạnh ở nhiều tỉnh trong cả nước; đặc biệt là ở ĐBSCL. Một phần là do
nhu cầu tiêu dùng trên thị trường tăng cao, một phần là do giá trị lợi nhuận
đem lại khá cao. Cho nên đã tác động lớn đến việc mở rộng diện tích nuôi
trồng thủy sản. Ở Bạc Liêu thời gian qua phong trào nuôi trồng thuỷ sản
không ngừng được phát triển mạnh, thể hiện ở một số khía cạnh chủ yếu sau
đây:
Diện tích đất nông nghiệp tiếp tục chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản
là 13.975 ha (2003), nâng diện tích nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh Bạc Liêu
lên 112.400 ha. Vượt 4% so với kế hoạch và tăng 14,2% so với cùng kỳ.
Diện tích trên được bố trí chuyên nuôi tôm là 86.417 ha, tôm kết hợp 22.841
ha, cá và thuỷ sản khác 3.142 ha và được thả nuôi với các loại hình, đối
tượng cụ thể như sau :
- Mô hình nuôi công nghiệp và bán công nghiệp : Mô hình này phát
triển tương đối khá, đến nay có 7.535 ha chiếm 6,95% tổng diện tích nuôi
chuyên tôm. Vốn đầu tư cho mô hình này khá lớn, quy trình kỹ thuật quản lý
nghiêm ngặt. Trong ba năm qua (từ 2000 đến nay) mô hình này nuôi khá ổn
định, ít rủi ro, có trên 70% diện tích đạt hiệu quả, bình quân đạt 3 –3,5 tấn/
ha. Sau khi trừ các chi phí thu lãi 65 –70 triệu đồng/ha, nhiều hộ nuôi đạt 4 –
5 tấn/ha thu lãi 100 –120 triệu đồng. Riêng công ty nuôi trồng thủy sản Vĩnh
Hậu năm 2003 thả nuôi 50 ha thu hoạch 285 tấn tôm nguyên liệu, năng suất
bình quân 6 –7 tấn/ha, lãi ròng mỗi ha từ 130 –150 triệu đồng. Tổng số lượng

mô hình này thu được 23.807 tấn. Song mô hình nuôi tôm công nghiệp và
bán công nghiệp ( CN&BCN) vẫn còn nhiều khó khăn, hệ thống thuỷ lợi,
thủy nông nội đồng thiếu đồng bộ, nhu cầu vốn rất lớn, một số hộ nuôi theo
mô hình này không đủ vốn. Ý thức trong việc xây dựng công trình, cải tạo,
xử lý môi trường còn đơn giản, chưa thực hiện đúng quy trình kỹ thuật nuôi.
Đối với mô hình này nếu bị rủi ro hoặc giá cả đầu ra biến động thì gây thiệt
hại khá lớn cho người nuôi.
- Mô hình nuôi quãng canh cải tiến ( QCCT), hiện có 76.998 ha chiếm
98,1% diện tích nuôi chuyên tôm, năng suất bình quân đạt 0,34 tấn/ha/năm.
Ngoài sản phẩm là tôm còn thu thêm sản phẩm cá (nước mặn, lợ). Có
khoảng 75% số diện tích nuôi có hiệu quả sau khi trừ chi phí, bình quân 1ha
Trang 9


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị

lãi từ 12 –15 triệu đồng. Tổng sản lượng mô hình vượt đạt 26.213 tấn, đặc
điểm của mô hình nuôi quảng canh là thu tỉa thả bù, thả nuôi quanh năm. Vì
vậy việc cải tạo ao đầm không triệt để, không thực hiện được lịch thời vụ,
nguồn nước bị ô nhiễm, khi tôm bị bệnh dễ lây lan, không có cách phòng trị.
- Nuôi tôm quảng canh : Hiện nay mô hình này thu hẹp, chỉ còn 1.884
ha. Mô hình này mức đầu tư thấp, lấy giống tự nhiên, chủ yếu là tôm bạc,
tôm đất giá trị thấp, sản lượng bình quân thu hoạch từ 200 –250 kg/ha/năm.
Trừ chi phí thu lãi từ 5 – 8 triệu đồng/ha. Sản lượng mô hình này là 490 tấn.
- Mô hình tôm – lúa : Do tích cực chỉ đạo nên bà con ngư dân đã lấp lại
lúa trên đất nuôi tôm được 15.022 ha, tăng hơn cùng kỳ năm trước 6.492 ha,
tập trung ở huyện Hồng Dân, Phước Long và một phần ở Vĩnh Lợi, các trà
lúa phát triển tốt và đã có thu hoạch. Đây là mô hình nuôi chỉ thả giống

không bổ sung thức ăn, năng suất bình quân từ 150 đến 170 kg/ha thu lãi từ 8
–10 triệu đồng/ ha ( chưa tính thu từ lúa). Sản lượng mô hình này đạt 2.272
tấn. Tuy hiệu quả của mô hình này đạt chưa cao, nhưng riêng về năng suất
tôm khá ổn định. Năng suất lúa còn phụ thuộc vào thời tiết và lượng nước.
Song mô hình này kỹ thuật canh tác đơn giản dể nhân rộng trong nhân dân.
- Mô hình nuôi tôm kết hợp: Bao gồm tôm – rừng, mương vườn và luôn
canh tôm trên đất làm muối với diện tích 7.819 ha, mô hình này không ổn
định, năng suất thấp bình quân mỗi ha thu từ 4 –6 triệu đồng/ năm, tuy hiệu
quả không cao nhưng cũng đã góp phần tăng thu nhập cho một số nông dân,
sản lượng mô hình nuôi kết hợp là 1.195 tấn.
- Nuôi cá và thuỷ sản khác 3.142 ha tăng trên 1.000 ha so với năm 2002,
do sử dụng thêm đất bãi bồi ven biển nuôi sò nghêu. Tuỳ từng vùng mặn
ngọt để nuôi các đối tượng cá đồng, cá ao hồ, cá kèo, cá chẽm… đạt sản
lượng trên 2.105 tấn. Các loài nhuyễn thể sản lượng đạt 4.439 tấn. Ngoài các
đối tượng nêu trên, một số hộ nuôi rùa rắn, baba, cá sấu bước đầu thu đạt
hiệu quả, nhưng chưa được nhân rộng. Vì đây là những đối tượng nuôi mới,
vốn đầu tư khá cao, thị trường chưa ổn định nên chưa phát triển. Ngoài ra
còn nguồn thuỷ sản khai thác trên sông rạch nội thuỷ đạt 9.233 tấn.
Đặc điểm nổi bật của nuôi trồng thuỷ sản năm 2003 là các mô hình nuôi
nhìn chung khá ổn định, nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp vẫn duy
trì về năng suất, sản lượng, diện tích và quy mô phát triển khá nhanh, nguồn
vốn đầu tư lớn, lợi nhuận thu về cao. Mô hình tôm – lúa có bước khởi sắc và
bước đầu đem lại hiệu quả cần bước đầu duy trì và phát triển. Tuy nhiên do
Trang 10


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị


tình hình thời tiết, khí hậu diễn biến bất lợi và cải tạo ao đầm chưa đảm bảo
kỹ thuật đã làm hạn chế năng suất. Ở các mô hình nuôi tôm năm 2003 một số
hộ nuôi chậm lớn, kéo dài thời gian thu hoạch, phải xử lý nhiều hoá chất, chi
phí tốn kém. Giá tôm nguyên liệu giảm mạnh ở tháng gần cuối năm, thức ăn,
hoá chất, thuốc thú y thuỷ sản chưa có mặt hàng nào giảm giá làm cho lợi
nhuận không cao, người nuôi tôm băn khoăn, lo ngại trước vụ kiện bán phá
giá tôm của một số người miền Nam nước Mỹ. Trên lĩnh vực nuôi trồng thuỷ
sản còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc cần được tiếp tục chỉ đạo trong thời
gian tới.
Hệ thống thuỷ lợi phục vụ cho nuôi trồng thuỷ sản, phương tiện kiểm
dịch con giống, kiểm soát môi trường dịch bệnh… vẫn còn ở mức tối thiểu
so với yêu cầu nên khả năng triển khai sản xuất tôm – lúa còn gặp nhiều rủi
ro.
Kết quả nuôi trồng thuỷ sản không đồng đều, bên cạnh một số hộ đạt
hiệu quả cao cũng còn nhiều hộ đạt hiệu quả thấp thậm chí bị thua lỗ nặng.
Nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng con giống, cải tạo ao đầm, quản lý
chăm sóc chưa đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, không quản lý được môi trường
nuôi, đặc biệt là môi trường nước.
Việc sản xuất quản lý kiểm dịch giống thuỷ sản lưu thông thức ăn hoá
chất và công tác phòng trừ dịch bệnh thuỷ sản.
Nhu cầu giống phục vụ cho hơn 112.000 ha là rất lớn, riêng năm 2003
ngư dân thả nuôi trên 8 tỷ con cá giống và lượng cá giống khá lớn các loại.
Hiện toàn tỉnh có 88 cơ sở, doanh nghiệp tư nhân sản xuất giống chỉ mới sản
xuất cung cấp gần 2 tỷ con giống Post, đạt khoảng 25% nhu cầu. Nhìn chung
giống sản xuất tại địa phương ngày càng đạt chất lượng khá, được người
chăn nuôi chấp nhận. Trước nhu cầu thực tế, hàng năm phải đi nhập giống từ
các tỉnh miền trung về với số lượng lớn, nhưng xét nghiệm tỉ lệ bệnh còi
( MBV ) khá cao, ngoài ra còn bệnh đầu vàng đốm trắng.
Việc quản lý sản xuất kinh doanh con giống có nhiều cố gắng, nhưng
vẫn chưa kiểm soát được toàn bộ chất lượng con giống với 441 cơ sở sản

xuất, ươm, thuần hoá giống thuỷ sản, nhưng cán bộ trực tiếp quản lý, kiểm
tra, kiểm dịch chỉ 5 người ngoài ra tình trạng vượt trạm, trốn kiểm dịch vẫn
thường xuyên xẩy ra, nhiều cơ sở không chấp hành nghiêm túc về các quy
định trong quản lý giống tình trạng bán giống tôm nuôi, không rõ nguồn góc
chưa được chấm dứt. Mặc dù thanh tra bảo vệ NTTS phối hợp với địa
Trang 11


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị

phương thường xuyên kiểm tra, xử phạt hành chính nhưng chưa có sự
chuyển biến tốt.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 128 cơ sở kinh doanh thức ăn, thuốc thú y
thuỷ sản, nhiều chủng loại khác nhau của nhiều doanh nghiệp trong và ngoài
tỉnh và nước ngoài đáp ứng khá đầy đủ cho NTTS. Nhưng việc quản lý các
cơ sở dịch vụ này hết sức khó khăn và phức tạp, nhất là chưa kiểm tra được
chất lượng của các sản phẩm.
Công tác phòng trừ bệnh tôm được quan tâm chỉ đạo ngoài công tác
khuyến ngư hướng dẫn kỹ nuôi, kỹ thuật chăm sóc trong quá trình nuôi, sở
thuỷ sản phối hợp với các viện, trường, định kỳ lấy mẩu nước, đo đạc phân
tích các thông số kỹ thuật, lấy mẩu tôm xét nghiệm đề ra các giải pháp phòng
trừ dịch bệnh kịp thời, khi phát hiện có dấu hiệu dịch bệnh xuất hiện. Có thể
nói trong nhiều năm qua tôm nuôi tuy có thiệt hại nhưng xảy ra rải rác, cục
bộ không có lây lan thành dịch bệnh. Đây là một yếu tố thành công bước đầu
trong nghề nuôi trồng thuỷ sản ở Bạc Liêu.
2.3. Về công tác khuyến ngư:
Hoạt động khuyến ngư đã có nhiều tiến bộ góp phần nâng cao hiệu quả
cho bà con ngư dân. Thời gian qua đã làm được một số việc quan trọng như:

Tổ chức tập huấn kỹ thuật nuôi tôm, bảo vệ môi trường, phòng ngừa dịch
bệnh cho ngư dân, góp phần cho nuôi trồng thuỷ sản đạt và vượt kế hoạch,
nâng cao được trình độ, khả năng ứng dụng kỹ thuật của nông ngư dân vào
thực tế sản xuất, tạo điều kiện tiếp cận những mô hình sản xuất có hiệu quả,
đã có nhiều hộ dân áp dụng thành công các công nghệ được chuyển giao và
qua tham quan học tập kinh nghiệm ở các tỉnh bạn đã áp dụng thành công
một số mô hình nuôi: cá lóc môi trề, cá rô đồng, baba… trong ao đầm và trên
ruộng lúa. Đã tổ chức tập huấn, thông tin tuyên truyền với nhiều hình thức và
nội dung ngày càng đa dạng và phong phú hơn được dư luận nông ngư dân
đồng tình. Trong năm 2003 đã biên soạn và phát hành trên 20.000 tài liệu về
kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản, tổ chức 385 lớp tập huấn kỹ thuật, 24 cuộc hội
thảo ở các huyện thị với 10.585 lượt người tham dự. Đồng thời phối hợp với
báo, đài thực hiện 24 chương trình khuyến ngư trên sóng phát thanh truyền
hình và đăng tin, bài trên báo Bạc Liêu. Tổ chức cho gần 100 lượt ngư dân
sản xuất giỏi tham quan học tập kinh nghiệm ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng,
Cà Mau.

Trang 12


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị

Việc thực hiện xây dựng các mô hình sản xuất thử nghiệm, mô hình
trình diễn được triển khai đều khắp các huyện thị. Xây dựng một điểm nuôi
thử nghiệm cá bống mú trong ao nuôi tôm; 10 mô hình trình diễn gồm : Hai
mô hình nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp, 3 mô hình nuôi cá nước
ngọt, 2 mô hình nuôi cá kết hợp với trồng lúa, 3 mô hình nuôi cua kết hợp
với nuôi tôm và đã chuyển giao 1,5 triệu con giống tôm rão (Tôm đất) 200

ngàn tôm thẻ chân trắng cho ngư dân nghèo. Công tác xét nghiệm chuẩn
đoán bệnh tôm năm nay nhiều hơn so với các năm trước đã xét nghiệm 2.585
mẫu, phát hiện 1.486 mẫu có mang mầm bệnh, giúp cho người nuôi tôm hạn
chế được rủi ro trong quá trình nuôi. Phối hợp với các huyện thị chuẩn bị
triển khai công tác tổ chức sản xuất trong nuôi trồng thuỷ sản để tiếp nhận,
phổ biến kỹ thuật nuôi tôm, sinh sản giống nhân tạo, bảo vệ môi trường,
phòng trừ dịch bệnh trong sản xuất. Phối hợp với các cơ quan thông tin đại
chúng tăng cường thời lượng thông tin khuyến ngư trên đài, báo Trung ương
và địa phương.
Tuy nhiên do trình độ hiểu biết của bà con ngư dân ở một vài nơi nhất là
ở vùng sâu, vùng xa – vùng dân tộc còn thấp, thiếu vốn đầu tư, đặc biệt là
một bộ phận nông ngư dân còn mang nặng tính bảo thủ, tập quán mê tín làm
hạn chế khả năng tiếp thu và ứng dụng kỹ thuật đã tập huấn. Nhiều hộ đã
không thực hiện đúng theo lịch thả giống. Một vài nơi sản xuất còn mang
tính tự phát không phù hợp với quy hoạch làm cho năng suất đạt thấp, hiệu
quả không cao. Việc phối hợp của địa phương với cán bộ kỹ thuật khuyến
ngư chưa được chặt chẽ, lực lượng cán bộ kỹ thuật còn thiếu, chưa có nhiều
kinh nghiệm còn hạn chế khả năng truyền đạt kiến thức cho bà con. Nhiều
mô hình sản xuất đạt hiệu quả cao nhưng chưa được nhân rộng.

2.4. Về tổ chức quản lý Nhà nước ngành :
Để phục vụ cho công tác chuyển đổi cơ cấu sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm cho nhân dân, ngành thuỷ sản đã tập trung giải quyết một số công việc
cấp bách trước mắt :
- Tiếp tục triển khai một số chương trình tham gia điều chỉnh quy hoạch
ngư – nông – lâm của tỉnh. Bổ sung hoàn chỉnh chương trình phát triển kinh
tế thuỷ sản giai đoạn 2001 –2010. chương trình tập huấn khuyến ngư cho hộ

Trang 13



Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị

ngư dân vùng mới chuyển dịch, chương trình nuôi tôm sinh thái trên đất
rừng, chương trình tổ chức lại sản xuất và quản lý kinh doanh tôm giống.
- Chỉ đạo các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh
kịp thời chủ động khi thị trường biến động. Xác định và huy động lực lượng
và lĩnh vực xúc tiến lĩnh vực thương mại.
- Chỉ đạo một số khâu đột phá như : Sản xuất nhân tạo tôm càng xanh,
tôm đất, nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp theo mô hình vi sinh bền
vững. Đổi mới công nghệ chế biến và kiểm dịch giống bằng phương pháp
khoa học với các thiết bị chuyên dùng.
- Phố hợp với các Viện, trường (Viện nuôi trồng thuỷ sản II, Trường đại
học Cần Thơ, Khoa thuỷ sản). Thực hiện các đề tài khoa học 3 đề tài phục vụ
cho nuôi trồng thuỷ sản; 01 đề tài an toàn vệ sinh thực phẩm, 01 đề tài khảo
sát phục vụ cho khai thác đánh bắt hải sản.
- Phát triển các hình thức kinh tế hợp tác toàn tỉnh có 21 hợp tác xã và
nhiều tổ hợp tác, trang trại thuỷ sản. Phần lớn các hợp tác xã đã phát huy
hiệu quả đất đai, tiền vốn của các xã viên trong 12 hợp tác xã nuôi trồng thuỷ
sản. Trong sản xuất đã phát huy được tính cộng đồng và mang lại hiệu quả
thiết thực trong kiểu làm ăn mới quá trình hoạt dộng của các hợp tác xã, có
14 hợp tác xã và hàng trăm tổ hợp tác, trang trại hoạt động tốt có hiệu quả
cao. Số còn lại thì hoạt động hiệu quả chưa cao chủ yếu do thiếu vốn sản
xuất, thiếu cán bộ có năng lực quản lý.
- Công tác tổ chức bộ máy : Bộ máy tổ chức của Sở thuỷ sản từng bước
được ổn định. có bốn phòng chuyên môn nghiệp vụ và hai đơn vị sự nghiệp
trực thuộc. Các phòng ban đơn vị chuyên môn nghiệp vụ hoạt động ngày
càng đi vào nề nếp. Song do biên chế còn thiếu, nhất là bộ phận quản lý

giống, thức ăn thuốc thú y thuỷ sản, đăng kiểm tàu cá và trạm khuyến ngư
huyện, thị. Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ luôn được quan tâm, có hai
đồng chí đang học cao học, 9 đồng chí học đại học nuôi trồng thủy sản và
nhiều công chức học chính trị, quản lý Nhà nước…Tiếp tục đổi mới phong
cách lãnh đạo, điều hành cải cách hành chánh tạo điều kiện thuận lợi dễ dàng
cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh. Kiên quyết chỉ
đạo công tác phòng chống đưa tạp chất vào nguyên liệu thuỷ sản bảo quản
tốt hơn chất lượng nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy chế biến trong
tỉnh.

Trang 14


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị

- Phối hợp với các ban ngành hữu quan sắp xếp lại các doanh nghiệp
Nhà nước nhất là cổ phần hoá các xí nghiệp chế biến như : Công ty xuất
nhập khẩu tổng hợp Giá Rai, Công ty xuất nhập khẩu thị trấn Hộ Phòng…
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong công tác quản lý ngành, nhưng đứng
trước yêu cầu nhiệm vụ mới, nhất là khi diện tích chuyển đổi cao (hơn
112.000 ha). Công tác quản lý, kiểm dịch, hướng dẫn kỹ thuật đang đứng
trước một vấn đề qúa tải đòi hỏi ngành thuỷ sản của tỉnh phải có những sách
lược quan trọng, kịp thời tháo gỡ những vấn đề mới nảy sinh nhằm tận dụng
thời cơ trong tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế để thuỷ sản thực sự là
ngành mũi nhọn của tỉnh trong thời gian tới.

Trang 15



Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị
CHƯƠNG III

NHIỆM VỤ VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU.
3.1. Mục tiêu tổng quát và nhiệm vụ các chỉ tiêu chủ yếu.
3.1.1. Nhiệm vụ.
Khai thác và nuôi trồng thủy sản là những ngành mà nước ta có nhiều
tiềm năng thế mạnh. Thực hiện quy hoạch, xác định hướng nuôi trồng, đánh
bắt chế biến cho từng vùng để nhanh chóng đưa thuỷ sản thành ngành kinh tế
mũi nhọn là công việc cần chú trọng. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX đã nêu
rõ : “Phát triển khai thác hải sản xa bờ và điều chỉnh nghề cá ven bờ hợp lý.
Đầu tư phát triển mạnh nghề nuôi trồng thủy sản, xây dựng vùng nuôi tập
trung, gắn với phát triển công nghiệp chế biến theo hướng chất lượng cao,
đẩy mạnh nuôi tôm xuất khẩu theo phương thức tiến bộ, bảo vệ môi trường,
xây dựng đồng bộ công nghiệp khai thác cả về đội tàu, cảng, bến phà, đóng
và sửa tàu thuyền, dệt lưới dịch vụ hậu cần, an toàn trên biển. Phấn đấu đạt
sản lượng thuỷ sản năm 2005 và khoảng 2,4 triệu tấn, giá trị xuất khẩu thuỷ
sản vào khoảng 2,5 tỷ USD (Trang 277 –278).
Thực hiện nghị quyết 09 của chính phủ về chuyển đổi sản xuất, nghị
quyết Đại hội lần thứ XII của tỉnh uỷ Bạc Liêu, nghị quyết của HĐND tỉnh
và quyết định của UBND tỉnh đã tạo ra nhiều thuận lợi, giải quyết những khó
khăn cho cơ sở nên hiệu quả chuyển đổi sản xuất ngày càng được khẳng
định. Nhằm phát huy mọi tiềm năng to lớn và những lợi thế của ngành thuỷ
sản trên ba lĩnh vực : Đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản với tốc độ
nhanh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa tăng nhanh kim ngạch xuất
khẩu, tạo động lực mạnh mẽ cho sự chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế
–xã hội của tỉnh.

Khai thác có hiệu quả mọi nguồn vốn trong nước, sử dụng hợp lý nguồn
vốn đầu tư bên ngoài để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành, thúc
đẩy phát triển sản xuất thuỷ sản với quy mô lớn trong giai đoạn 2001 –2005
và những năm tiếp theo. Đổi mới hiện đại hoá công nghệ chế biến, tăng năng
lực khai thác và nuôi trồng thủy sản gắn chặt quá trình sản xuất nguyên liệu
với chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Không ngừng cải thiện chất lượng hàng
hoá, giảm giá thành, tăng hiệu quả và nâng cao khả năng cạnh tranh, phát
triển thị trường trong khu vực và trên thế giới.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của tỉnh nêu rõ : “Đối với vùng thích
Trang 16


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị

nghi trước hết cần ưu tiên phát triển mạnh sản xuất tôm – lúa đi đôi với mở
rộng từng bước diện tích nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp nhưng
phải có bước đi phù hợp đồng bộ với tiến trình xây dựng hệ thống thuỷ lợi,
đảm bảo chuyển đổi đến đâu phát huy hiệu quả sản xuất đến đó. Đồng thời
đầu tư, sắp xếp lại ngành nghề để nâng cao hiệu quả khai thác hải sản xa bờ
nuôi một số loài thuỷ hải sản thích hợp và có hiệu quả kinh tế cao ở các bải
biển gắn với phát triển rừng phòng hộ, bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản và môi
trường sinh thái”. (Trang 41).
3.1.2. Mục tiêu chung:
a. Mục tiêu: Huy động cao nhất các nguồn lực, trước hết là nguồn lực
trong tỉnh, trong nước để tập trung đầu tư phát triển ngành thuỷ sản theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa với mục tiêu hiệu quả có sức cạnh
tranh cao và phát triển bền vững, có cơ cấu sản xuất và cơ cấu lao động hợp
lý để phát huy cao nhất tiềm năng kinh tế thuỷ sản, gắn phát triển mạnh lực

lượng sản xuất với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp, gắn sản xuất với
chế biến, tiêu thụ sản phẩm, phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh
thái và đảm bảo an ninh quốc phòng vùng biển, nhanh chống đưa ngành thuỷ
sản thực sự trở thành nền kinh tế chủ lực của tỉnh, góp phần quan trọng trong
sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và giữ vững an ninh quốc phòng trên địa
bàn tỉnh
b. Các chỉ tiêu chủ yếu về nuôi trồng thủy sản:
+ Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo quy hoạch đã điều chỉnh;
tiến hành quy hoạch chi tiết và triển khai thực hiện đúng quy hoạch các vùng
NTTS nhất là nuôi tôm công nghiệp, bán công nghiệp tập trung, vùng nuôi
tôm sinh thái, vùng nuôi tôm kết hợp, vùng bãi bồi ven biển.
+ Thực hiện đa canh, đa con, cả nước mặn, nước lợ, nước ngọt.
+ Tổ chức tổng kết các mô hình thử nghiệm, các điểm trình diễn để
nhân rộng, nhất là mô hình tôm – lúa, lúa – cá, nuôi tôm công nghiệp, bán
công nghiệp, nuôi sinh thái.
+ Tích cực hỗ trợ, đâu tư phát triển các cơ sở sản xuất giông tại chỗ
nhằm đảm bảo chất lượng và từng bước đáp ứng về số lượng; đầu tư thiết bị
hiện đại để kiểm tra chất lượng, thức ăn, thuốc và hoá chất phục vụ NTTS;
tăng cường công tác khuyến ngư, đảm bảo cho NTTS phát triển ổn định, bền
vững giảm đến mức thấp nhất những rủi ro, đặc biệt không để xảy ra tình
Trang 17


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị

trạng tôm bị dịch bệnh và chết trên địa bàn rộng, phấn đấu đến năm 2005:
Diện tích NTTS đạt trên 129.000 ha đến năm 2010 ổn định ở mức 134.000
ha. Trong đó, diện tích nuôi tôm công nghiệp, bán công nghiệp 15.000 ha

( 2005) và 34.000 ha (2010). Nuôi tôm quảng canh cải tiến năm 2005 đạt
76.000 ha và đến năm 2010 là 71.000 ha. Nuôi kết hợp 15.000 ha (2005) đến
2010 là 20.000 ha.
- Tổng sản lượng NTTS năm 2005 đạt 179.000 tấn năm 2010 đạt
230.000 tấn. Trong đó sản lượng tôm năm 2005 là 164.000 tân đến 2010 là
178.000 tấn.
- Năng suất bình quân nuôi tôm công nghiệp, bán công nghiệp đạt từ 3
tấn/ha đến 6 tấn/ha/vụ; nuôi tôm quảng canh cải tiến năng suất đạt 250kg –
300 kg/ha/vụ.
- Số lượng con giống sản xuất tại chỗ đáp ứng 40% (khoảng 5 tỉ Post)
nhu cầu nuôi của nhân dân, đến 2010 đáp ứng 60% ( 12 tỉ Post).
Để thực hiện được chỉ tiêu trên cần thực hiện được các giải pháp sau:
- Tiếp tục thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo Nghị quyết 09 của
Chính phủ, gắn quản lý chặt chẽ với quy hoạch, xử lý nghiêm các trường hợp
chuyển đổi sai quy hoạch.
- Cân đối năng lực đầu tư để tăng diện tích nuôi phù hợp, áp dụng nhiều
hình thức nuôi, đa dạng hoá đối tượng nuôi, nâng cao năng suất nuôi đối với
tôm và các loài thuỷ sản khác. Triển khai nuôi các loài thuỷ sàn phù hợp ở
vùng bãi bồi ven biển như: sò huyết, nghêu, ốc len…
- Ưu tiên các nguồn vốn để đầu tư xây dựng hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng
(thuỷ lợi, giao thông, điện) đối với các vùng nuôi thuỷ sản, nhất là vùng nuôi
tôm công nghiệp, bán công nghiệp tập trung, vùng nuôi sinh thái.
- Đầu tư ngân sách xây dựng các giống thuỷ sán của tỉnh, đồng thời kêu
gọi và có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia sản xuất
tôm giống, cá giống tại chỗ, tổ chức liên kết chặt chẽ với các tỉnh bạn để chủ
động nguồn giống chất lượng.
- Tăng cường đầu tư cho công tác khuyến ngư, đẩy mạnh việc ứng dụng
phổ biến những tiến bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ
sản, tăng cường quản lí gắn với trang bị thêm dụng cụ thiết bị hiện đại cho
công tác kiểm tra chất lượng con giống và các sản phẩm phục vụ nuôi trồng

thủy sản.
Trang 18


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị

- Nghiên cứu và thực hiện nghiêm, có hiệu quả ác giải pháp về chống ô
nhiễm môi trường, đồng thời khẩn trương xây dựng một số trạm quan trắc
nhằm dự báo và xử lý kịp thời về môi trường, nâng cao ý thức bảo vệ môi
trường, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về bảo vệ môi trường, nâng cao
vai trò quản lý Nhà nước về môi trường của cấp huyện và cơ sở. Xem đây là
biện pháp quan trọng để đảm bảo nuôi trồng thủy sản phát triển bền vững
trước mắt cũng như lâu dài.
- Tạo điều kiện thuận lợi thông thoáng về môi trường sản xuất kinh
doanh để thu hút và đa dạng hoá nguồn đầu tư.
- Tăng cường cán bộ kỹ thuật thuỷ sản cho các đơn vị chức năng thuộc
sở thuỷ sản và các phòng nông nghiệp thuỷ sản các huyện thị, thực hiện việc
khuyến khích cán bộ thuỷ sản về công tác ở xã.
- Tổ chức các hiệp hội về nuôi trồng thủy sản, xây dựng quỹ bảo hộ
nuôi trồng thủy sản, phát triển mạnh kinh tế hợp tác và kinh tế trang tại trong
nuôi trồng thủy sản.
*. Xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Tập trung các nguồn vốn đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng
phục vụ đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Phấn đấu từ nay đến năm 2006
hoàn thành cơ bản việc thực hiện các dự án thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng thủy
sản nhất là ở các vùng mới chuyển đổi, vùng nuôi công nghiệp, bán công
nghiệp tập trung phía Nam quốc lộ 1A, nghiên cứu, khảo sát để hình thành
một số dự án khả thi mới nhằm phục vụ cho đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản

có hiệu quả. Việc đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi phải bảo đảm yêu cầu
vừa cung cấp đủ nước cho nuôi trồng thủy sản vừa đảm bảo không bị ô
nhiễm, đồng thời không làm phương hại đến vùng sản xuất lúa, hoa màu, cây
ăn trái.
- Sớm hoàn thành cầu Nhà Mát và nhanh chóng triển khai xây dựng lộ
trên đê biển đông, lộ Hiệp Thành – Gò Cát để nối liền các cụm kinh tế ven
biển, đồng thời đẩy nhanh tiến độ xây dựng cảnh Gành Hào, Nhà Mát, Cái
Cùng và các hạ tầng kinh tế- xã hội để thu hút các thành phần kinh tế, các
nhà đầu tư tham gia phát triển kinh tế thuỷ sản và thúc đẩy nhanh sự phát
triển kinh tế, văn hoá xã hội, khu vực ven biển và khu nuôi trồng thủy sản
tập trung sớm lập dự án để xây dựng chợ tôm hộ phòng và một số chợ thuỷ
sản khác.

Trang 19


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị

- Tranh thủ các nguồn vốn của Trung ương đầu tư xây dựng các cơ sở
nghiên cứu thực nghiệm về thuỷ sản, các công trình phục vụ phòng tránh, trú
bão, xây dựng trạm cảnh báo, trạm trắc môi trường, khẩn trương đầu tư xây
dựng hệ thống xử lý nước thải ở các khu vực nuôi tôm công nghiệp tập trung
và của các nhà máy chế biến, nhà máy sản xuất công nghiệp.
- Ngoài các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, cần có cơ chế để huy động
tốt hơn nguồn đầu tư tín dụng và vốn trong nhân dân để phát triển nhanh cơ
sở hạ tầng phục vụ nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản, nhất là các công trình
giao thông, điện… Phấn đấu đến năm 2005 có 50% vùng nuôi tôm công
nghiệp có đường giao thông bộ và điện đi đến.

*. Về nguồn nhân lực :
- Nhanh chóng sắp xếp ổn định bộ máy tổ chức sở thuỷ sản theo hướng
tinh gọn, bảo đảm đủ sức hoàn thành nhiệm vụ, củng cố, tăng cường cán bộ
cho phòng thuỷ sản – nông nghiệp các huyện, thị đủ sức quản lý kinh tế thuỷ
sản, các xã, phường, thị trấn có kinh tế thuỷ sản tùy theo quy mô mà bố trí 1
đến 2 cán bộ quản lý và xây dựng mạng lưới cộng tác viên với quy chế hoạt
động phù hợp.
- Khẩn trương quy hoạch, đào tạo và bố trí, sử dụng có hiệu quả đội ngũ
cán bộ kỹ thuật, cán bộ kinh doanh và cán bộ quản lý trên lĩnh vực thuỷ sản
nhằm đáp ứng yêu cầu của tỉnh. Phấn đấu đến năm 2006 mỗi xã phường thị
trấn có kinh tế thuỷ sản có 2 trung cấp và 1 kỹ sư thuỷ sản chuyên ngành.
- Đi đôi với thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cần có chính sách
đãi ngộ để thu hút cán bộ kỹ thuật giỏi, có kinh nghiệm thực tiễn về thuỷ sản,
có chính sách hỗ trợ vật chất cho cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật xuống
công tác ở cơ sở, khuyến khích xã hội hoá việc đãi ngộ đối với cán bộ kỹ
thuật ở cơ sở.
- Đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho các trường đào tạo và trung tâm
dạy nghề trong tỉnh để đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình
độ, kiến thức cho ngư dân, tạo nhanh lực lượng nông ngư dân giỏi về nuôi
trồng thủy sản.
3.2. Các giải pháp chủ yếu :
Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Bạc Liêu xác định : phát triển kinh tế là trọng
tâm, việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế chọn nuôi trồng thủy sản là ngành kinh
tế mũi nhọn đã tạo ra khâu đột phá trong phát triển kinh tế.
Trang 20


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị


Để thực hiện việc quy hoạch vùng nuôi tôm công nghiệp tập trung có
hiệu quả, đảm bảo tính bền vững cần tập trung thực hiện một số giải pháp
chủ yếu sau :
3.2.1. Về quy hoạch quản lý và tổ chức sản xuất :
Trong chỉ đạo tổ chức sản xuất phải thực hiện đúng theo quy hoạch
được duyệt. Ngoài những danh mục quy hoạch và dự án đã được triển khai
năm 2003 chuyển sang, tiếp tục điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát
triển thuỷ sản cho phù hợp với điều chỉnh quy hoạch sản xuất nông – ngư –
lâm diêm nghiệp đến năm 2010. đồng thời tiến hành quy hoạch chi tiết các
vùng nuôi trồng thủy sản phù hợp, thiết lập các dự án đầu tư phát triển cơ sở
hạ tầng cho vùng nuôi tôm công nghiệp tập trung, lập các dự án đầu tư xây
dựng vùng sản xuất giống tập trung đảm bảo được lượng giống để thả nuôi.
3.2.2. Giải pháp thuỷ lợi :
Sở thuỷ lợi phối hợp với các ngành có liên quan và các huyện thị tiếp
tục đầu tư xây dựng hệ thống thuỷ lợi, thủy nông nội đồng để đáp ứng cho
nuôi trồng thủy sản. Thực hiện điều tiết nước phù hợp với lịch thời vụ cho
sản xuất thủy sản và nông nghiệp.
3.2.3 Giải pháp về giống:
Khẩn trương quy hoạch và xây dựng các dự án sản xuất giống tập
trung. Khuyến khích các chủ trại đầu tư nâng cấp, mở rộng các trại sản xuất
giống tại địa phương kêu gọi các thành phần kinh tế tham gia đầu tư sản xuất
giống tại tỉnh, vận dụng, hướng dẫn thực hiện các chính sách đầu tư của
chính phủ, của tỉnh để đầu tư sản xuất trên lĩnh vực này.
Triển khai quyết định thành lập trung tâm giống, đầu tư xây dựng trại
giống cấp I của tỉnh, nhằm sản xuất giống tại chỗ nhận chuyển giao các công
nghệ sản xuất giống cho các cơ sở sản xuất giống trong tỉnh và nuôi dưỡng
tôm bố mẹ.
Kết hợp với một số tỉnh miền trung trong việc nhập giống về tỉnh, vấn
đề quan tâm là kiểm tra chất lượng con giống tại nơi sản xuất trước khi nhập

giống về tỉnh. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, quản lý để nâng cao
chất lượng con giống, đồng thời xử lí thật nghiêm những trường hợp vi phạm
về sản xuất và kinh doanh con giống.
Sở thuỷ sản đề nghị UBND tỉnh cấp kinh phí mua sắm những phương
tiện, máy móc hiện đại để kiểm tra con giống và xét nghiệm bệnh tôm, cá,
Trang 21


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị

đồng thời hướng dẫn bà con nông dân biết cách chon giống tốt, không mua
giống trôi nỗi kém chất lượng.
Ngoài việc lo cung ứng tôm sú giống, khuyến cáo các hộ dân tiếp tục
mở rộng nuôi các loài cá và các thuỷ sản khác để phòng bất trắc trong nuôi
tôm sú. Tiếp tục đầu tư hoàn chỉnh trại thực nghiệm nuôi giống nước mặn,
tiến hành sản xuất thử nghiệm và xây dựng trại thực nghiệm giống thuỷ sản
nước ngọt.
3.2.4. Giải pháp kỹ thuật:
Phát huy hiệu quả các trạm khuyến ngư cấp huyện thị và tăng cường
cán bộ khuyến ngư xuống cơ sở. Triển khai công tác tập huấn, hướng dẫn
cho nông ngư dân kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản. Đa dạng hoá các loại hình
khuyến ngư, biên tập các tài liệu, sổ tay kỹ thuật phát hành rộng rãi ở những
vùng nuôi trồng thuỷ sản, xây dựng điểm trình diễn các mô hình nuôi tôm
QCCT, CN&BCN khuyến khích nhân rộng các hình thức nuôi sinh thái
không dùng hoá chất, vân đông ngư dân phát triển các mô hình nuôi tôm kết
hợp như: tôm – lúa, tôm – cá, cá – lúa… ngoài ra cần chú ý hướng dẫn kỹ
thuật các mô hình nuôi cá nước ngọt ( cá đồng) hiện đang có xu hướng phát
triển ở vùng ngọt hóa và tiểu vùng chuyển đổi mở rộng ở phía bắc Quốc lộ 1

A ( QL1A)và nuôi cá nước lợ ở vùng phía Nam QL1A.
Tiếp tục mở lớp đào tạo thuyền trưởng máy trưởng tập huấn nâng cao
kỹ thuật khai thác xa bờ phù hợp cho từng loại nghề, kỹ thuật bảo quản sản
phẩm sau thu hoạch và tổ chức tập huấn phòng tránh trú bão cho tàu, thuyền.
Đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân chế biến, công nhân kỹ thuật vận
hành những thiết bị công nghệ mới. Tăng cường kiểm tra kiểm soát dư lượng
kháng sinh trong nguyên liệu thuỷ sản. Thực hiện quản lý tốt về vệ sinh an
toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn ngành và tiêu chuẩn quốc tế.
3.2.5. Giải pháp về ngăn ngừa ô nhiễn và bảo vệ môi trường:
Tập trung công tác tuyên truyền giáo dục trong các tầng lớp nhân dân
về ý thức bảo vệ môi trường. Đồng thời phối hợp với các ngành có liên quan
trong việc triển khai lập dư án đầu tư xây dựng các trạm quan trắc cảnh báo
môi trường phòng ngừa ô nhiễm. Thông qua lịch thời vụ, lịch điều tiết nước,
công tác khuyến ngư và nguồn lợi thuỷ sản cần tổ chức vận động ngư dân
nâng cao ý thức cộng đồng trong việc bảo vệ tốt các công trình thuỷ lợi –
thuỷ nông nội đồng nhằm ngăn ngừa, hạn chế ô nhiễm, xử lý việc sên bùn

Trang 22


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị

đưa xuống kênh rạch. Thường xuyên phối hợp với các viện, trường, sở khoa
học và công nghệ, sở tài nguyên và môi trường, thu nhập, phân tích, đánh giá
cảnh báo mức độ ô nhiễm của từng vùng, từng mô hình nuôi thuỷ sản, từng
nhà máy chế biến và các cơ sở sản xuất công nghiệp khác để có kế hoạch và
biện pháp phòng ngừa, xử lý ô nhiễm có hiệu quả. Nếu có dịch bệnh xảy ra
phải có biện pháp kịp thời khống chế dập tắt không để lây lan.

3.2.6. Giải pháp về vốn:
Tổng nhu cầu vốn cho sản xuất thuỷ sản trong năm 2004 là 3.887 tỉ
907 triệu đồng, để thực hiện được giải pháp về vốn cần có chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước.
Cùng với sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện của cấp uỷ, chính quyền các
cấp và sự hỗ trợ của các cơ quan ban ngành liên quan. Đặc biệt là các tổ
chức tín dụng tạo điều kiện thuật lợi trong sản xuất cụ thể như.
- Bằng nguồn vốn ngân sách của địa phương và TW thông qua các
nguồn vốn thuộc các chương trình mục tiêu cần bố trí vốn đấu tư 31tỉ 017
triệu đồng nhằm phát triển cơ sơ hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất.
- Để đảm bảo nhu cầu phục vụ cho sản xuất cần có sự phối hợp tích
cực của ngành ngân hàng tín dụng đầu tư cho sản xuất là : 1722 tỉ đồng.
Trong đó cho NTTS: 1.488 tỉ đồng, khai thác đánh bắt hải sản: 20 tỉ đồng và
thu mua chế biến thuỷ sản xuất khẩu 213 tỉ 440 triệu đồng
Thông qua các dự án đầu tư phát triển về công nghệ chế biến tăng
năng lực sản xuất giống, phát triển nuôi tôm công nghiệp và bán công
nghiệp. Đầu tư các công trình dịch vụ hậu cần của cảng cá Gành Hào vốn
nhu cầu tín dụng ưu đãi khoảng 51tỉ 250 triệu đồng.
Ngoài các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và vốn của các tổ
chức tín dụng nên huy động thêm từ các thành phần kinh tế tham gia đầu tư
vào sản xuất và phát triển sản xuất 2.083,5 tỉ đồng. Gồm có vốn của các
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 55 tỉ, vốn trong dân: 1.954 tỉ đồng, góp vốn
liên doanh vốn nước ngoài: 12 tỉ đồng và nguồn vốn của nước ngoài trực tiếp
tham đầu tư là 20 tỉ đồng.
3.2.7. giải pháp về tổ chức sản xuất.
Nhằm triển khai, thực hiện chương trình của tỉnh uỷ thực hiện NQ TW
khoá IX về Việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả

Trang 23



Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị

doanh nghiệp Nhà nước, các Doanh nghiệp này khẩn trương xây dựng kế
hoạch cổ phần hoá cho đơn vị mình.
Tiếp tục phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã với các mô hình thích
hợp, cũng cố các tổ chức hợp tác có bảo đảm hoạt động có hiệu quả: khẩn
trương tổ chức sản xuất trên các lĩnh vực nuôi trồng, sản xuất – kinh doanh
giống, khai thác biển theo hướng thành lập các tổ tự quản và tổ sản xuất. Để
giúp đỡ nhau về kỹ thuật, vốn, tiêu thụ sản phẩm và phòng chống dịch bệnh
bảo vệ môi trường… tiếp tục phát triển các loại hình kinh tế trang trại trong
NTTS. Triển khai kế hoạch phân cấp quản lý tàu thuyền theo hướng giao cho
địa phương đồng quản lý.
Phối hợp với các ngành chức năng, các huyện thị tổ chức thực hiện tốt
các chủ trương chính sách của TW, của tỉnh như: chính sách khuyến khích
sản xuất giống mới, kiểm dịch giống, tìm kiếm thị trường, nuôi tôm công
nghiệp tập trung, sản xuất thức ăn cho tôm, cá… nhằm tháo gở khó khăn
vướng mắc, phát huy những nhân tố tích cực, huy động mọi nguồn lực trong
nhân dân và hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện tốt chủ trương chuyển
đổi sản xuất, góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhà.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghị quyết đại hội của Đảng lần thứ IX nêu rõ: “Phát triển khai thác
hải sản xa bờ và điều chỉnh nghề cá ven bờ hợp lý. Đầu tư phát triển mạnh
ngành nuôi trồng thuỷ sản, xây dựng vùng nuôi tập trung gắn với công
nghiệp chế biến theo hướng chất lượng cao, đẩy mạnh nuôi tôm xuất khẩu
theo hướng tiến bộ, bảo vệ môi trường. Xây dựng đồng bộ trong việc khai
thác cả về đội tàu, cảng, bến cá. đóng và sửa tàu thuyền, dệt lưới, dịch vụ

hậu cần, an toàn trên biển. Phấn đấu đạt sản lượng thuỷ sản năm 2005 vào
khoản 2,4 triệu tấn, giá trị xuất khẩu thuỷ sản đạt 2,5 tỉ USD” ( trang 277,
278).
Trang 24


Tiểu luận tốt nghiệp

Cao cấp Lý luận chính trị

Bạc Liêu có nhiều tiềm năng để phát triển ngành thuỷ hải sản nói
chung, nuôi trồng thuỷ sản nói riêng. Thực hiện nghị quyết của ban chấp
hành Đảng bộ tỉnh về định hướng phát triển kinh tế thuỷ sản đến 2010 với
những lợi thế về đất đai về diện tích ven biển và nhân lực dồi dào chắc chắn
trong những năm tới việc phát triển kinh tế thuỷ sản sẽ thành ngành kinh tế
chủ lực của tỉnh.
Mặc dù là tỉnh mới thành lập ( 1/1997 ) song tốc độ phát triển khá cao.
Với tiềm năng hiện có, nông nghiệp của tỉnh được xem là mặt trận hàng đầu,
trong đó thuỷ sản là ngành kinh tế mũi nhọn. Cơ cấu GDP đã có sự chuyển
dịch theo hướng tích cực. Cuối năm 2003, nông, lâm, ngư-diêm nghiệp đạt tỉ
trọng 58% từ năm 2001 đến nay, thuỷ sản đạt được xác định là ngành kinh tế
mũi nhọn và đã được quan tâm đúng mức, đến nay điện tích nuôi trồng thuỷ
sản là 112.000 ha đạt 86,7% so với quy hoạch. Đến năm 2005 đạt 83,5% so
với quy hoạch đến năm 2010. với sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời có hiệu quả,
giải quyết tốt nhiều vấn đề đặt ra đối với NTTS như thuỷ lợi, vốn con giống,
khoa học – kỹ thuật… nên năng suất sản lượng nuôi trồng thuỷ sản, nhất là
nuôi tôm tăng nhanh đem lại hiệu kinh tế cao tuy nhiên trong thực tế đang
đặt ra vấn đề bức xúc cần phải có biện pháp cụ thể kịp thời để ngành kinh tế
thuỷ sản nói chung, nghề nuôi tôm nói riêng đem lại hiệu quả cao và mang
tính bền vững. Đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân Bạc Liêu phải có quyết tâm cao

thực hiện tốt những giải pháp đề ra nhằm thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu
kinh tế – xã hội mà đại hội Đảng lần thứ XII đã đề ra. Góp phần thúc dẩy
kinh tế – xã hội của tỉnh phát triển.
Để đạt được yêu cầu trên chúng tôi cần kiến nghị như sau:
Bộ thuỷ sản tiếp tục bố trí vốn thông qua các chương trình phát triển
NTTS, phát triển sản xuất giống. Xây dựng cơ sơ hạ tầng, kỹ thuật phục vụ
sản xuất. Có chương trình đào tạo cán bộ, chuyển giao công nghệ mới, đặc
biệt là công nghệ sản xuất sạch, ngăn ngừa ô nhiểm bảo vệ môi trường trong
NTTS, đánh bắt thủy hải sản, chế biến xuất khẩu. Hỗ trợ cho tỉnh xây dựng
chiến lược sản phẩm và chỉ đạo hiệp hội chế biến xuất khẩu thuỷ sản giúp
tỉnh trong công tác xúc tiến thương mại tháo gỡ khó khăn về thị trường khi
Mỹ kiện Việt Nam bán phá giá cá tra, cá ba sa và tôm xuất khẩu.
- Bộ kế hoạch và đầu tư, bộ tài chính ưu tiên vốn ngân sách đầu tư các
dụ án thuộc chương trình mục tiêu đối với những vùng nông thôn ven biển

Trang 25


×