Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

VẤN ĐỀ HƯỚNG NGHIỆP CHO THANH NIÊN NÔNG THÔN TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH VTV6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.68 KB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

LÊ THỊ NHUNG

VẤN ĐỀ HƯỚNG NGHIỆP CHO THANH NIÊN
NÔNG THÔN TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH VTV6

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

LÊ THỊ NHUNG

VẤN ĐỀ HƯỚNG NGHIỆP CHO THANH NIÊN
NÔNG THÔN TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH VTV6

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60320101

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN BẢO KHÁNH

Hà Nội – 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả công bố trong luận văn hoàn toàn chính xác, chưa từng công bố trong
bất cứ tài liệu nào, nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Thị Nhung


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận
được giúp nhiệt tình của quý Thầy Cô trong Khoa Báo chí – Truyền thông,
Phòng Đào tạo Sau đại học, Ban TNNT (TW Đoàn). Nhân đây, tôi xin chân
thành cảm ơn Ban Giám hiệu nhà trường, Phòng Đào tạo Sau đại học, Khoa
Báo chí – Truyền thông, đã tạo điều kiện để tôi học tập và hoàn thành tốt khóa
học.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Bảo Khánh, người đã dành
rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi hoàn thành
luận văn tốt nghiệp.
Đồng thời, tôi xin chân thành cảm ơn các anh/chị trong Ban TNNT,
biên tập viên các chương trình trên kênh VTV6 đã chia sẻ thông tin và giúp
đỡ tôi trong quá trình khảo sát đề tài. Cảm ơn ban lãnh đạo công ty, bạn bè,
đồng nghiệp, người thân trong gia đình là những người đã thầm lặng giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này
Mặc dù đã cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt tình và
năng lực của mình, tuy nhiên, vẫn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi
rất mong nhận được những đóng góp quí báu của quí Thầy Cô và các bạn.
Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2015
Học viên


Lê Thị Nhung


MỤC LỤC
KẾT LUẬN.....................................................................................................76


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BTV

: Biên tập viên

CNH

: Công nghiệp hóa

HĐH

: Hiện đại hóa

LĐ-VL

: Lao động – Việc làm

MC

: Người dẫn chương trình

NSX


: Nhà sản xuất

NXB

: Nhà xuất bản

PV

: Phóng viên

PVS

: Phỏng vấn sâu

PL

: Phụ lục

TNNT

: Thanh niên nông thôn

TW

: Trung ương

Th.S

: Thạc sĩ


TS

: Tiễn sĩ

VTV

: Đài truyền hình Việt Nam

VTV6

: Ban Thanh thiếu niên – Đài truyền hình Việt Nam


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Danh mục bảng
KẾT LUẬN.....................................................................................................76
Danh mục biểu đồ
KẾT LUẬN.....................................................................................................76
KẾT LUẬN.....................................................................................................76
Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
đề tài được cấu trúc thành 3 chương.
Chương 1.Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2.Thực trạng của các chương trình hướng nghiệp trên kênh
VTV6, Đài Truyền hình Việt Nam
Chương 3. Các giải pháp về hướng nghiệp cho TNNT trên kênh truyền
hình VTV6, Đài truyền hình Việt Nam



Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Các khái niệm về hướng nghiệp cho TNNT
1.1.1.1. Hướng nghiệp
* Hướng nghiệp
Có nhiều cách hiểu về Hướng nghiệp với tiêu chí, mục tiêu quan sát và
góc độ chuyên môn khác nhau. Theo từ điển Tiếng Việt : “Hướng nghiệp là hệ
thống các biện pháp giúp cho con người lựa chọn và xác định nghề nghiệp
của bản thân trong cuộc sống tương lai, trên cơ sở kết hợp nguyện vọng, sở
trường cá nhân với nhu cầu xã hội” [13; tr.458]. Theo Từ điển Giáo dục học
định nghĩa : “Hướng nghiệp là hệ thống các biện pháp giúp đỡ học sinh làm
quen tìm hiểu nghề, lựa chọn, cân nhắc nghề nghiệp với nguyện vọng năng
lực sở trường của mỗi người với nhu cầu và điều kiện thực tế khách quan của
xã hội” [12,tr.209].
Trong tài liệu tham khảo khác, Hướng nghiệp được hiểu là tổng thể
chứa đựng nhiều khái niệm thành phần, biểu thị những hình thức riêng lẻ của
hướng nghiệp như: thông tin nghề, tư vấn nghề, thích ứng nghề, ….
Xét theo phương diện kinh tế học: Hướng nghiệp được hiểu là hệ thống
những giải pháp dẫn dắt tổ chức thanh thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp
nhằm sử dụng hợp lý tiềm năng lao động trẻ tuổi đất nước. Hướng nghiệp góp
phần tích cực vào quá trính phấn đấu nâng cao năng suất lao động xã hội.
Xét theo phương diện tâm lý học: Hướng nghiệp được coi như quá
trình chuẩn bị tâm lý cho thế hệ trẻ sự sẵn sang tâm lý đi vào lao động nghền
ghiệp. Sự sẵn sàng tâm lý đó chính là tâm thế lao động – một trạng thái tâm lý
tích cự trước hoạt động lao động.
Hướng nghiệp còn được hiểu là hoạt động nhằm hỗ trợ mọi cá nhân
chọn lựa và phát triển chuyên môn nghề nghiệp phù hợp nhất với khả năng
của cá nhân, đồng thời thỏa mãn nhu cầu nhân lực cho tất cả các lĩnh vực
nghề nghiệp (thị trường lao động) ở cấp độ địa phương và quốc gia.



Việc lựa chọn nghề nghiệp mình yêu thích hay đi vào một trường đại
học phù hợp với mình là những lầm tưởng về vai trò của Hướng nghiệp từ
trước đến nay. Thực tế, đây chỉ là phần ngọn của một quá trính, một hoạt động
trong số rất nhiều các hoạt động khác của Hướng nghiệp. Thuật ngữ Hướng
nghiệp (career mentoring) nếu được hiểu chính xác thì nó là sự kết hợp rất
nhiều lĩnh vực như: đánh giá nghề nghiệp (Career assessment), quản lý nghề
nghiệp (career management), phát triển nghề nghiệp (career development)…
Trong đó lựa chọn nghề nghiệp chỉ là một giai đoạn đầu trong tiến trình
hướng nghiệp của mỗi người.
Trên bình diện cá nhân, hướng nghiệp giúp họ chọn nghề phù hợp với
nhu cầu xã hội, đồng thời hỏa mãn tối đa nguyện vọng, thích hợp với năng
lực, sở trường và điều kiện tâm lý, sinh lý cá nhân để họ có thể phát triển tới
đỉnh cao trong nghề nghiệp, cống hiến thật nhiều cho xã hội cũng như tạo lập
được cuộc sống tốt đẹp cho bản thân.
Như vậy có thể hiểu, hướng nghiệp là quá trình chọn nghề, chuẩn bị
cho thế hệ trẻ đi vào lao động sản xuất xã hội có định hướng và hiệu quả hơn.
Do tình hình các nghề và việc làm hiện nay thường xuyên thay đổi cho nên
hoạt động Hướng nghiệp không còn giới hạn ở trường phổ thông mà cần thiết
mở rộng cho các tầng lớp dân cư khác nhau.
Sơ đồ quá trình Hướng nghiệp:
Định hướng nghề

Thích ứng nghề

Phù hợp nghề

Học nghề

Hành nghề

Bồi dưỡng

Đào tạo lại

1.1.1.2. Thanh niên nông thôn
* Nông thôn
Hiện nay vẫn chưa có khái niệm chuẩn xác về nông thôn và có nhiều
quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng nông thôn được coi là khu vực


địa lý nơi đó cộng đồng gắn bó, có quan hệ trực tiếp đến khai thác, sử dụng,
bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên cho hoạt động sản xuất nông
nghiệp. Một số quan điểm khác cho rằng nông thôn là nơi có mật độ dân số
thấp hơn so với thành thị. Vùng nông thôn là vùng có dân cư làm nông
nghiệp là chủ yếu, nguồn sinh kế chính của cư dân trong vùng là sản xuất
nông nghiệp.
Quan điểm khác lại cho rằng nên dựa vào chỉ tiêu trình độ tiếp cận thị
trường, phát triển hàng hóa để xác định vùng nông thôn vì cho rằng vùng
nông thôn có trình độ sản xuất hàng hóa và tiếp cận thị trường thấp hơn so với
thành thị. Hay dựa vào chỉ tiêu trình độ phát triển cơ sở hạ tầng, nghĩa là cơ
sở hạ tầng của vùng nông thôn không phát triển bằng đô thị.
Như vậy khái niệm nông thôn chỉ có tính chất tương đối, nó thay đổi
theo thời gian và tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trên thế
giới. Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam chúng ta có thể hiểu: Nông thôn
là vùng sinh sống của tập hợp cư dân, trong đó có nhiều nông dân. Tập hợp cư
dân này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường
trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ chức khác.
Nông nghiệp là quá trình sản xuất ra lương thực, thực phẩm cung cấp
cho con người và tạo ra của cải cho xã hội.
Nông dân là những người lao động cư trú ở nông thôn, tham gia sản

xuất nông nghiệp, sống chủ yếu
* Thanh niên
Thanh niên: Là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi
tuổi. (Theo quy định của Luật Thanh niên năm 2005). Biểu hiện về tính cách
của Thanh niên có nhiều tính tích cực: Thanh niên có tính tình nguyện, tính tự
giác trong mọi hoạt động. Tính tự trọng, độc lập phát triển mạnh mẽ. Thanh
niên luôn tự chủ trong mọi hoạt động của mình (học tập, lao động và hoạt
động xã hội). Họ có tinh thần vượt khó, cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ.


Tuổi Thanh niên có tính năng động, tính tích cực, rất nhạy bén với sự biến
động của xã hội. Thanh niên ngày nay không thụ động, không trông chờ ỷ lại
vào người khác mà tự mình giải quyết những vấn đề của bản thân. Thanh niên
thường giàu lòng quả cảm, gan dạ, dũng cảm và giàu đức hy sinh. Ở họ có
tinh thần đổi mới, nhanh chóng tiếp thu cái mới. Trong học tập, lao động và
hoạt động xã hội , Thanh niên còn thể hiện tính tổ chức, tính kỷ luật rõ rệt.
Nhưng do tính tự trọng, tự chủ phát triển mạnh nên Thanh niên dễ có
tính chủ quan, tự phụ đánh giá quá cao về bản thân mình. Thanh niên còn có
tính nóng vội, muốn đốt cháy giai đoạn, thiếu cặn kẽ, dễ đưa đến thất bại.
Thanh niên có tính gan dạ, dũng cảm cao nhưng đôi khi hành động liều lĩnh
mạo hiểm. Ở Thanh niên khi không thành công ở một vài việc nào đó thì
thường dễ chán nản, bi quan với những công việc khác. Từ đó Thanh niên dễ
tự ti, thụ động, sống khép kín ít tích cực tham gia hoạt động. Thanh niên có
tinh thần đổi mới, nhạy bén, tiếp thu nhanh cái mới song thanh niên cũng dễ
phủ nhận quá khứ, phủ nhận những thành quả của thế hệ đi trước, phủ nhận “
sạch trơn”, dễ có thiên hướng chuộng hình thức, đánh giá sự việc qua hình
thức bề ngoài.
Tuy vậy, nhìn chung có thể khẳng định thanh niên là nhóm người ở
tuổi đã trưởng thành, có đầy đủ tố chất của người lớn, là thời kỳ dồi dào về trí
lực và thể lực . Họ có đầy đủ những điều kiện cần thiết để tham gia hoạt động

học tập, lao động, hoạt động chính trị xã hội đạt hiệu quả cao, có khả năng
đóng góp cống hiến thể lực và trí lực cho công cuộc đổi mới đất nước.
* Thanh niên nông thôn
Căn cứ vào Luật Thanh niên, Điều lệ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, Điều lệ Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam, khái niệm về Thanh
niên nông thôn được hiểu: Thanh niên nông thôn là một bộ phận quan trọng
của Thanh niên Việt Nam; là những người trẻ tuổi, có độ tuổi đủ từ 16 đến 30
tuổi, sinh sống ở nông thôn và làm nghề nông nghiệp (nông nghiệp, lâm
nghiệp, thủy sản, dịch vụ nông nghiệp).


Thanh niên nông thôn là nguồn nhân lực quan trọng trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. Phần lớn Thanh niên nông thông hiện nay trình độ
học vấn còn thấp, thiếu việc làm, ít có cơ hội được đào tạo nghề nghiệp. Thực
tế này đặt ra nhiệm vụ quan trọng của tổ chức Đoàn trong việc tập hợp và giải
quyết việc làm cho Thanh niên nông thôn. Tình trạng không đủ việc làm, việc
làm không ổn định, thu nhập thấp đã tác động rất lớn đến Thanh niên nông
thôn, ảnh hưởng đến công tác đoàn kết, tập hợp Thanh niên nông thôn và phát
triển kinh tế xã hội tại địa phương.
1.1.2. Truyền thông hướng nghiệp
* Truyền thông
Truyền thông là một kiểu tương tác xã hội. Ở dạng đơn giản, thông tin
được truyền từ người gửi tới người nhận. Ở dạng phức tạp hơn, các thông tin
trao đổi liên kết người gửi và người nhận.
Truyền thông thường gồm ba phần chính: nội dung, hình thức, và mục
tiêu. Nội dung truyền thông bao gồm các hành động trình bày kinh nghiệm,
hiểu biết, đưa ra lời khuyên hay mệnh lệnh, hoặc câu hỏi. Các hành động này
được thể hiện qua nhiều hình thức như động tác, bài phát biểu, bài viết, hay
bản tin truyền hình. Mục tiêu có thể là cá nhân khác hay tổ chức khác, thậm
chí là chính người/tổ chức gửi đi thông tin.

* Truyền thông Hướng nghiệp
Truyền thông Hướng nghiệp là quá trình liên tục chia sẻ thông tin kiến
thức, thái độ, tình cảm và kỹ năng thuộc lĩnh vực thông tin nghề nghiệp cho
Thanh niên nhằm tạo sự hiểu lẫn nhau giữa bên truyền thông và bên nhận. Kết
quả của quá trình này là dẫn tới những thay đổi về nhận thức và trong hành
động, tác động vào việc đưa ra quyết định đúng trong lựa chọn nghề nghiệp
phù hợp với năng lực và nhu cầu nghề nghiệp cho Thanh niên.
Truyền thông Hướng nghiệp xây dựng trên nền tảng sự liên kết nội
dung nghề nghiệp, mà ở đó diễn ra một quá trình đối thoại từ nhiều phía tác


động đến suy nghĩ của mỗi cá nhân. Tuy quá trình truyền thông cần nhiều
thời gian vì hiệu quả chiến dịch được tích lũy theo thời gian nhưng ở đó
thông tin nghề nghiệp, tư vấn nghề nghiệp, định hướng nghề nghiệp sẽ
được giới thiệu và phát tán tới cộng đồng Thanh niên nông thôn như một
con virus tạo sự ảnh hưởng, lan tỏa trong cộng đồng Thanh niên nông thôn.
Thông qua các hình thức giới thiệu, tư vấn nghề đã giúp Thanh niên
hiểu rõ hơn về các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, pháp luật lao động; Hướng
nghiệp cho lao động trẻ cách thức tìm việc làm phù hợp với trình độ, khả
năng chuyên môn, trang bị cho họ những kiến thức ban đầu trên con đường
lập thân, lập nghiệp.
Với thông điệp “ khi chọn nghề nghiệp hãy hiểu đúng mình và chọn
đúng nghề”, thông qua truyền thông nhằm xóa bỏ tư tưởng, quan niệm lạc hậu
về việc chọn nghề, cập nhật thông tin nghề nghiệp cho cá nhân để kích thích
niềm say mê yêu thích nghề nghiệp tương lai, từ đó có sự đầu tư, quan tâm và chú
trọng cho mỗi cá nhân trong lựa chọn nghề nghiệp của mình.
Truyền thông Hướng nghiệp là hệ thống các kênh thông tin nhằm
chuẩn bị cho cá nhân về tư tưởng, tâm lý, tri thức, kỹ năng….để họ sẵn dàng
đi vào nghành nghề, vào lao động sản xuất và cuộc sống. Truyền thông
Hướng nghiệp góp phần phát huy năng lực, sở trường của từng người, đồng

thời cũng góp phần điều chỉnh nguyện vọng của cá nhân sao cho phù hợp với
nhu cầu nghề nghiệp. Như vậy, truyền thông Hướng nghiệp được hiểu là mối
liên quan đến sự phát triển kiến thức, kỹ năng và thái độ thông qua một
chương trình hoạch định sẵn, tác động đến nhận thức của cá nhân dẫn đến
hành động ra quyết định về sự lựa chọn nghề.
1.2. Chính sách của Đảng và Nhà nước về hướng nghiệp cho TNNT
1.2.1.Toàn cảnh về TNNT
Nước ta được đánh giá là có cơ cấu “dân số vàng”. Tính đến thời điểm
1-10-2012, cả nước có 53,1 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao


động. Số liệu điều tra xã hội học về lao động và việc làm với đối tượng là lao
động thanh niên ở nông thôn thì số người không được đào tạo nghề chiếm
68,4%, số người không có đất để sản xuất - kinh doanh là 53,1%, loại khó
khăn tiếp cận các nguồn vốn là 22,3%, thiếu kinh nghiệm sản xuất là 26,5%,
thiếu thông tin về thị trường lao động là 23,3%.
Năm 2014, Bộ Lao động và Thương binh xã hội đã tổng hợp và đưa ra
con số có tới 72 nghìn cử nhân, thạc sĩ bị thất nghiệp. Tình trạng thừa thầy,
thiếu thợ tràn lan. Trong đó có số lượng không nhỏ là thanh niên nông thôn.
Một bộ phận lớn thanh niên nông thôn không có khả năng tìm kiếm việc làm
mới, không chuyển đổi được nghề nên đời sống khó khăn, làm nảy sinh nhiều
vấn đề tiêu cực cho xã hội. Thiếu việc làm, không ít thanh niên nông thôn
chơi bời, lêu lổng sa vào cờ bạc, rượu chè, nghiện hút và các tệ nạn xã hội
khác. Đây là nhóm người được đánh giá là có nguy cơ cao về các tệ nạn xã
hội. Trước những khó khăn về việc làm, nhiều người đã ra thành phố, đến các
khu đô thị, khu công nghiệp để tìm kế mưu sinh. Tuy nhiên, đại đa số việc
làm không ổn định, thu nhập bấp bênh, bởi trình độ học vấn thấp, quan hệ xã
hội hạn hẹp, ít có điều kiện tiếp cận và sử dụng các tư liệu lao động hiện đại
nên họ chỉ có thể làm được những công việc giản đơn theo vụ việc với mức
lương thấp, đời sống khó khăn, tạm bợ...

Còn riêng so sánh về dân trí và nhân lực giữa lao động là thanh niên ở
nông thôn và thanh thị, nhiều công trình nghiên cứu cho thấy: ở nông thôn
dân trí thấp hơn 2 lần, nhân tài thấp hơn 8,6 lần; đào tạo nghề, thấp hơn 10 lần
so với thành thị. Điều này lý giải một phần tại sao thanh niên nông thôn
thường mang mặc cảm thiếu tự tin vào bản thân, thiếu đi sự năng động để
quyết định con đường riêng cho tương lai một cách rõ ràng. Bên cạnh đó, đa
số thanh niên nông thôn chưa có khát vọng làm giàu, bởi hai lý do chủ yếu:
Một là họ chưa có động lực từ chính bản thân và gia đình. Phần lớn cha mẹ ở
các gia đình nông thôn điều muốn con mình đi làm thuê kiếm tiền nhiều hơn


là lập nghiệp thành công và giàu có, vì cả đời họ cũng vậy. Nên họ rất sợ con
mình thất bại. Chính vì vậy mà nhiều thanh niên nông thôn thiếu động lực về
khát vọng làm giàu cho bản thân và gia đình. Hai là cũng có thanh niên có
khát vọng làm giàu, nhưng họ không biết bắt đầu từ đâu? Có khi suy nghĩ
được rồi thì không biết lấy đâu ra tiền để đầu tư? Rồi thị trường tiêu thụ như
thế nào… rất nhiều trăn trở mà họ không biết hướng đi, không có người hỗ trợ
tư vấn đã làm cản trở ước vọng làm giàu trong thanh niên ngày nay.
Cộng thêm một thực tế là các doanh nghiệp chưa coi thanh niên nông
thôn là lực lượng lao động chủ chốt nên chưa nhiệt tình và tin cậy để hỗ trợ
tài chính cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh. Số thanh niên được vay
vốn để phát triển sản xuất chưa nhiều. Việc phổ biến nghề mới, đào tạo nghề,
tư vấn nghề và hỗ trợ các kỹ năng nghề cũng như hỗ trợ, khuyến khích đầu tư
vào khu vực nông thôn còn rất hạn chế.
Một bất cập khác cần quan tâm là trình độ học vấn, nhận thức, năng
lực quản lý, trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền và Đoàn Thanh niên
ở cơ sở nông thôn còn hạn chế, dẫn đến tình trạng thiếu khả năng tìm cách
giải quyết việc làm cho thanh niên, thậm chí trong quá trình thực thi làm
chính sách, pháp luật còn có sai lệch, tiêu cực, như cục bộ, bảo thủ, lạc
hậu, chậm đổi mới, không thu hút và giữ chân được lực lượng lao động trẻ

đã qua đào tạo có năng lực làm việc tại địa phương. Nhưng thực tế cho thấy
ở nông thôn hiện nay, thanh niên vẫn đang là một lực lượng đông đảo và họ
là nhóm đặc thù đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã
hội của nông thôn.
1.2.2. Thực trạng thiếu việc làm của TNNT
Nông thôn Việt Nam có nguồn lao động dồi dào và tiềm năng, là nơi
cung cấp và hậu thuẫn đắc lực cho các khu đô thị và khu công nghiệp. Tại địa
phương, thị trường lao động này lại chưa phát triển nên dẫn đến thực trạng là
nơi thừa, nơi thiếu lao động. Thêm vào đó, hầu hết các thị trường lao động


vẫn chỉ tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành phố có nhiều khu công nghiệp, khu
chế xuất và ở ba vùng kinh tế trọng điểm. Tỷ lệ thất nghiệp từ độ tuổi 15-29 ở
nông thôn lên tới 77%.
Bảng 1.1: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên theo
giới tính và khu vực thành thị - nông thôn

ĐVT: %
Quý I

Quý II

Quý

Quý

III
IV
Chung
77,3

77,5
77,9
77,5
Nam
81,9
81,7
27,2
27
Nữ
73,1
73,6
73,5
73,3
Thành thị
70,3
70,2
70,6
70,6
Nông thôn
80,8
81,1
81,5
81,5
Nguồn: Tổng Cục thống kê (năm 2013), số liệu điều tra LĐ-VL hàng quý
Những năm gần đây, đất nông nghiệp thuộc diện thu hồi để xây dựng
các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị, và các công trình công cộng,
… tăng mạnh; tình trạng chuyển đổi đất nông nghiệp sang sản xuất công
nghiệp và xây dựng các công trình công cộng khiến tỷ lệ lao động không có
việc làm có xu hướng tăng cao. Điều đáng nói là, đất bị thu hồi đưa vào dự án
nhưng không được triển khai kịp thời, đất bị bỏ hoang trong nhiều năm nên

“kỳ vọng” của những lao động bị đưa ra khỏi mảnh đất của họ để sau đó sẽ
được thu hút vào làm việc tại các khu công nghiệp như lời hứa của các doanh
nghiệp bị rơi vào im lặng. Công tác bồi thường, đào tạo chuyển đổi nghề, hỗ
trợ giải quyết việc làm, tái định cư,… cũng có nhiều bất cập. Hệ lụy là thanh
niên nông thôn vẫn không có việc làm hoặc có việc làm nhưng thu nhập
không ổn định bởi công tác đào tạo nghề chưa được đáp ứng đủ để thanh
niên có đất bị thu hồi chuyển đổi nghề nghiệp phù hợp....Nên nhìn chung
thanh niên nông thôn càng thêm thiếu việc làm.
Bảng 1.2: Tỷ lệ thất nghiệp năm 2013
ĐVT: %


Quý I Quý II Quý III Quý IV
Theo
Nam
2,23
2,14
2,25
1,85
2,31
2,21
2,4
1,95
giới tính Nữ
Theo
Thành thị
1,58
1,49
1,74
1,30

3,80
3,66
3,59
3,19
khu vực Nông thôn
Theo
Không có CMKT
1,89
1,76
1,8
1,39
Sơ cấp
2,85
2,4
2,07
2,26
chuyên
Trung cấp
3,82
4,73
3,19
2,6
môn kỹ Cao đẳng
8,09
6,44
7,45
7,68
Đại học/Trên đại học
3,50
3,65

4,36
4,25
thuật
Nguồn: Tổng Cục thống kê (năm 2013), số liệu điều tra LĐ-VL hàng quý
Biểu đồ 1.1: Số lượng và tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động

Nguồn: Tổng Cục thống kê (năm 2013), số liệu điều tra LĐ-VL hàng quý
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng của mỗi
quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Thất
nghiệp, thiếu việc làm, hoặc việc làm với năng suất và thu nhập thấp sẽ không
đáp ứng được cuộc sống và phát triển bền vững của Thanh niên. Đối với


Thanh niên nông thôn, việc làm liên quan đến nhận thức, kỹ năng nghề
nghiệp, các nhân tố đất đai, tư liệu lao động, công cụ lao động, vốn sản xuất.
Các nhân tố trên kết hợp thành một chỉnh thể giải quyết việc làm cho Thanh
niên nông thôn.
Vấn đề về việc làm cho thanh niên nông thôn vẫn còn khó khăn, từ
những thông số đã nói ở trên cho thấy tỷ lệ thất nghiệp có chiều hướng gia
tăng, số thanh niên thiếu việc làm còn lớn, trong đó phần lớn chưa qua đào tạo
nghề, thu nhập bình quân từ lao động các ngành nghề tại nông thông thường
thấp hơn so với thành thị, cơ hội chuyển đổi việc làm, nghề nghiệp cũng khó
hơn, điều kiện văn hóa, xã hội cũng chậm phát triển hơn. Cùng với tư tưởng
“thích làm thầy, ngại làm thợ” đã làm mất cân đối cung – cầu trong thị trường
lao động, làm mất cân bằng cơ cấu giữa đại học và học nghề. Mặt khác, một
bộ phận sinh viên sau khi tốt nghiệp đại học, cao đẳng không muốn về nông
thôn làm việc mà muốn làm tại thành thị, chưa thiết tha với sản xuất, công tác
tại nông thôn và tham gia học nghề.
Trước những khó khăn về việc làm, Thanh niên nông thôn đã ra thành
phố, đến các khu đô thị, khu công nghiệp để mưu sinh. Từ đó, dẫn đến thiếu

hụt một lực lượng thanh thiếu niên có trình độ tại các vùng nông thôn để tham
gia các hoạt động sản xuất kinh doanh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, truyền thống văn hóa làng quê nông thôn Việt Nam. Như vậy, vấn
đề Hướng nghiệp và giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn đang là vấn
đề lớn hiện nay.
1.2.3.Các chính sách lớn về hướng nghiệp, tạo việc làm cho TNNT
Nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn đáp ứng cho công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) và hội nhập sâu vào nền kinh tế
thế giới, Việt Nam đã đề ra hàng loạt chủ trương lớn, cho đến các chính sách
cụ thể:
Trước hết là việc ban hành hàng loạt các văn bản pháp qui về dạy nghề:


Từ các nghị quyết, luật, đến hàng loạt các quyết định, thông tư…Các quy định
pháp luật cũng như các chính sách này có tác dụng bước đầu tạo môi trường,
hành lang pháp lý và chính sách thuận lợi để phát triển mạnh công cuộc dạy
nghề cho người lao động, nâng cao khả năng tạo việc làm, thúc đẩy chuyển
dịch lao động nông nghiệp, nông thôn.
Chính phủ đã giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì xây dựng Đề án “Tăng cường
phát triển dạy nghề cho lao động nông thôn, cho xuất khẩu lao động” nhằm
đào tạo nguồn nhân lực nông thôn chất lượng cao phục vụ cho mục tiêu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là một trong những chủ trương rất
đúng đắn phù hợp với yêu cầu của bối cảnh mới khi Việt Nam bắt đầu tham
gia vào quá trình hội nhập quốc tế vừa đào tạo phát triển nguồn nhân lực vừa
thu ngoại tệ.
Từ đại hội Đảng lần thứ X đã xác định rõ quan điểm: Việt Nam tiếp tục
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn;
chuyển dịch và phân bố lại lực lượng lao động trong nông nghiệp và nông thôn
theo hướng tăng tỷ trọng lao động trong công nghiệp, ngành nghề thủ công

nghiệp, dịch vụ nông thôn. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành một số chủ
trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua việc thực thi các
biện pháp toàn diện để phát triển nguồn nhân lực nông thôn, phát triển các loại
hình trường lớp dạy nghề cho nhân dân nông thôn đồng thời khuyến khích phát
triển ngành nghề nông thôn, trong đó yêu cầu đẩy mạnh “đào tạo, bồi dưỡng,
dạy nghề và nghiệp vụ kinh doanh cho các cơ sở ngành nghề nông thôn”.
Gần đây nhất, Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban chấp hành Trung
ương ĐCSVN, đã yêu cầu tăng ngân sách cho nghiên cứu, chuyển giao khoa
học công nghệ để nông nghiệp sớm đạt trình độ tương đương với các nước
tiên tiến trong khu vực; Đồng thời tăng cường đào tạo bồi dưỡng kiến thức
khoa học kĩ thuật sản xuất nông nghiệp tiên tiến, hiện đại cho nông dân, đào


tạo nghề cho bộ phận con em nông dân để chuyển nghề, xuất khẩu lao động;
tập trung đào tạo nâng cao kiến thức cho cán bộ quản lí, cán bộ cơ sở. Nghị
quyết TW cũng đã nhấn mạnh sự cần thiết của việc hình thành “Chương trình
mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực”, đảm bảo hàng
năm đào tạo 01 triệu lao động nông thôn, thực hiện tốt việc xã hội hóa công
tác đào tạo nghề. Chủ trương, đường lối của Đảng thể hiện trong Nghị quyết
này đang là kim chỉ nam cho tất cả các hoạt động phát triển nông nghiệpnông thôn trong đó bao gồm cả phát triển nguồn nhân lực nông thôn mà đào
tạo nghề là một hợp phần quan trọng. Trong thời gian tới, công tác đào tạo
nghề theo tinh thần của Nghị quyết này sẽ tiếp tục được đẩy mạnh góp phần
vào mục tiêu phát triển nguồn nhân lực nông thôn theo hướng công nghiệp và
hiện đại.
Với định hướng đó, các chương trình sẽ tiếp tục được xây dựng liên
quan đến tất cả các khâu của công tác đào tạo nghề từ đầu tư phát triển cơ sở
hạ tầng đến nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề, cải tiến giáo
trình và phương pháp dạy nghề… nhằm đảm bảo cung cấp được lực lượng lao
động nông thôn có trình độ chuyên môn tốt, tay nghề cao đáp ứng được các
yêu cầu của cả sản xuất nông nghiệp hiện đại và chuyển sang phục vụ phát

triển công nghiệp.
Nhà nước đã ban hành các chính sách nhằm thúc đẩy dạy nghề và tạo
việc làm cho Thanh niên. Luật dạy nghề ban hành ngày 29/11/2006, tại điều 7
quy định " ...đầu tư mở rộng các cơ sở dạy nghề, nâng cao chất lượng dạy
nghề góp phần bảo đảm cơ cấu nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; góp phần thực hiện phân luồng học sinh tốt
nghiệp THCS và THPT; tạo điều kiện phổ cập nghề cho Thanh niên..." Luật
Thanh niên ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005, tại điều 18 quy định: " Nhà
nước có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân giải quyết việc làm cho
Thanh niên; ưu đãi thuế, tín dụng, đất đai để phát triển giáo dục nghề nghiệp


đáp ứng nhu cầu đa dạng về học nghề cho Thanh niên; Phát triển hệ thống
các cơ sở dịch vụ tư vấn giúp Thanh niên tiếp cận thị trường. Năm 2008 Thủ
tướng Chính phủ đã bàn hành Quyết định 103/2008/QĐ-TTg phê duyệt Đề án
“Hỗ trợ Thanh niên học nghề và tạo việc làm giai đoạn 2008 - 2015” .
Điều này đã cho thấy, những năm qua, công tác giải quyết việc làm và
phát triển thị trường lao động nông thôn đã đạt được kết quả bước đầu rất
quan trọng. Cơ chế, chính sách về lao động, việc làm được chú trọng, phù hợp
với cơ chế thị trường và từng bước hội nhập với thị trường lao động quốc tế.
Hệ thống văn bản quản lý nhà nước về lao động, việc làm được bổ sung ngày
càng hoàn thiện. Nhiều luật mới ra đời và đi vào thực tiễn đời sống như Bộ
luật Lao động, Luật Dạy nghề, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài,… và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành
đã tạo ra hành lang pháp lý về giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn.
Cùng với cơ chế, chính sách và hệ thống văn bản pháp luật là các
chương trình mục tiêu: Chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn;
Chương trình phát triển công nghiệp, dịch vụ; Chương trình xây dựng và phát
triển các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao và các
chương trình, dự án trọng điểm kinh tế - xã hội được thực hiện, góp phần giải

quyết việc làm, từng bước nâng cao đời sống của người lao động. Hằng năm,
các chương trình mục tiêu này đã giải quyết việc làm cho 1,1 đến 1,2 triệu lao
động, trong số đó đa số là thanh niên nông thôn.
Đặc biệt, thực hiện Chương trình về việc làm, Nhà nước thông qua các
chính sách, nguồn lực hỗ trợ có sự lồng ghép với các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội khác như Chương trình 134, Chương trình 135, phát triển kết
cấu hạ tầng về đường giao thông, thủy lợi, điện, nước sạch, trạm xá, trường
học, công trình văn hóa,… phục vụ cho phát triển nông nghiệp xây dựng nông
thôn mới và cải thiện đời sống cho nông dân. Ngoài ra, Nhà nước còn thực
hiện các dự án về tín dụng việc làm với lãi suất ưu đãi từ Quỹ quốc gia về


việc làm, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động, gắn dạy
nghề với tạo việc làm và tự tạo việc làm cho thanh niên. Trung bình hằng năm
các dự án này đã tạo ra việc làm cho 300.000 đến 350.000 lao động, chủ yếu
là lao động thanh niên nông thôn; góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta từ
60% đầu những năm 1990 xuống còn 9,6% năm 2012. Ngày 27-11-2009 Thủ
tướng Chính phủ đã ký quyết định số 1956 phê duyệt đề án đào tạo nghề cho
lao động nông thôn. Mục tiêu đặt ra là đến năm 2020, sẽ có khoảng trên 10
triệu lao động nông thôn được đào tạo, và tối thiểu 70% trong số đó có việc
làm. Đề án có tổng kinh phí dự kiến hơn 20 nghìn tỷ đồng, và thời gian thực
hiện là 10 năm (2010 đến 2020).
Có thể nói hơn lúc nào hết vấn đề Hướng nghiệp và giải quyết việc làm
cho Thanh niên nói chung và thanh niên nông thôn nói riêng đang là vấn đề
xã hội bức xúc hiện nay và trong nhiều năm tới. Việc giải quyết được vấn đề
này luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và nhà nước ta cùng với sự cố gắng nỗ
lực của bản thân người lao động nói chung trong đó có Thanh niên nông thôn để
tự tìm kiếm việc làm phù hợp với bản thân mình.
1.3.Các phương pháp truyền thông hướng nghiệp hiện nay cho TNNT
1.3.1. Phương pháp truyền thông trực tiếp

Là kênh truyền thông được thực hiện trực diện giữa người với người.
Đối tượng của truyền thông trực tiếp có thể là một hay một nhóm người. Ví
dụ: Tổ chức các buổi nói chuyện, tư vấn về chủ đề hướng nghiệp thông qua
họp Thôn, họp Đoàn thanh niên, nói chuyện tại trường học; hay thảo luận
nhóm; đến thăm hộ gia đình tại địa phương. Ngoài ra, tổ chức cho những
người thành đạt, các doanh nhân nói chuyện chuyên đề với Thanh niên, học
sinh về nghề nghiệp và việc làm...
Với phương pháp này người truyền thông có thể biết được kiến thức,
thái độ của đối tượng về vấn đề hướng nghiệp và nhu cầu tìm việc làm cũng
như hành vi của thanh niên nông thôn trong việc tìm kiếm việc làm như thế


nào. Nhờ vậy có thể điều chỉnh nội dung, cách truyền đạt hoặc có biện pháp
tác động thích hợp với từng đối tượng để thay đổi hành vi. Đồng thời cũng
người truyền thông có thể nhận được thông tin phản hồi từ đối tượng, nhờ đó
hiểu được tâm tư, tình cảm, hoàn cảnh, khó khăn của đối tượng và dễ dàng
đánh giá được hiệu quả truyền thông.
Đánh giá theo điều kiện thực tế ở nông thôn Việt Nam, truyền thông trực tiếp
cũng được xem là kênh truyền thông có hiệu quả nhất. Nó quyết định đến sự
thay đổi hành vi của đối tượng một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, phương
pháp truyền thông trực tiếp chỉ tiếp cận đến một nhóm đối tượng hạn chế, vì
vậy khó có đủ nhân lực làm công tác truyền thông. Người truyền thông phải
có kiến thức, kỹ năng cần thiết để đáp ứng với nhu cầu của mọi người dân.
Hiệu quả truyền thông phụ thuộc vào khả năng của truyền thông viên.
1.3.2. Phương pháp truyền thông gián tiếp
Là kênh truyền thông được thực hiện qua các phương tiện thông tin đại
chúng như vô tuyến, đài phát thanh, loa truyền thanh, báo, tạp chí, bản tin
v.v. và các loại tài liệu truyền thông như áp phích, tờ rơi, tờ gấp v.v.
Với phương pháp truyền thông gián tiếp, nội dung truyền thông mang tính
thống nhất, tin cậy và có thể phát đi phát lại nhiều lần, có khả năng truyền tin

nhanh, đến được nhiều người và nhiều nhóm đối tượng cùng một lúc. Ưu
điểm lớn nhất là tạo ra được dư luận và môi trường xã hội thuận lợi cho việc
thay đổi thái độ và hành vi của đối tượng.
Hoạt động truyền thông gián tiếp thông qua tổ chức các hoạt động tư
vấn, định hướng nghề nghiệp cho Thanh niên trên các phương tiện thông tin
đại chúng như các chương trình trên truyền hình, bài viết trên báo phát thanh,
báo in ...nhất là báo chí của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; các
hình thức hỏi đáp, trả lời thư bạn đọc, xuất bản các ấn phẩm giới thiệu về
nghề nghiệp và lựa chọn nghề nghiệp. Xây dựng các chuyên mục về Hướng
nghiệp, học nghề - lập nghiệp trên các báo, website của Đoàn. Phối hợp xây


dựng chương trình Hướng nghiệp phát hàng ngày trên báo chí như mục Tìm
việc làm, Tư vấn tuyển sinh, Thông tin nghề nghiệp trên các báo Thanh niên,
Sinh viên Việt Nam..; chương trình Hãy nói với chúng tôi, Diễn đàn các vấn đề
xã hội, Tư vấn hướng nghiệp – việc làm... trên VOV, chương trình Hãy hỏi để
biết (VTC16), Sinh ra từ làng, Lựa chọn của tôi (VTV6)... và nhiều chương
trình khác trên các kênh truyền hình.
Tổ chức các hoạt động Hướng nghiệp trong các trường phổ thông, kết
hợp Hướng nghiệp với dạy nghề trong các cơ sở đào tạo. Nâng cao vai trò của
đội ngũ cán bộ Đoàn, Hội, Tổng phụ trách Đội trong định hướng nghề nghiệp
cho học sinh phổ thông. Xây dựng các chuyên mục phổ biến kiến thức, giới
thiệu chuyên sâu về các ngành nghề trong xã hội, thông tin “Người tìm việc,
việc tìm người”, “Tư vấn mùa thi”…Phối hợp với ngành Lao động, thương
binh & Xã hội và các tổ chức kinh tế, xã hội tổ chức các“Ngày hội tư vấn
nghề nghiệp”, “Hội chợ việc làm”; gặp gỡ, trao đổi giữa Thanh niên với
người sử dụng lao động... để cung cấp cho Thanh niên thông tin về tình hình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương, thông tin về thị trường
lao động. Đồng thời đa dạng hóa các hình thức tư vấn, hỗ trợ Thanh niên
trong việc lựa chọn việc làm, hướng dẫn học nghề, kỹ năng chuẩn bị hồ sơ, trả

lời phỏng vấn, kiến thức lập dự án tạo việc làm, tư vấn pháp luật lao động liên
quan đến việc làm… cho Thanh niên nông thôn tại các hoạt động này.
Ngoài ra, để tăng hiệu quả truyền thông và lưu lại thông tin cần thiết
cho thanh niên nông thôn, các tài liệu tuyên truyền về nghề nghiệp và việc
làm qua bản tin “Học nghề - Lập nghiệp”, "Cẩm nang tuyển sinh học nghề",
"Cẩm nang việc làm cho lao động trẻ" hay tờ rơi, tờ gấp cũng được tiến hành
biên soạn và phát hành rộng rãi. Băng rôn, áp phích thường xuyên được treo
phục vụ hoạt động, sinh hoạt chi đoàn, Đoàn cơ sở…Tại nhiều địa phương,
các cuộc thi tay nghề, thi thợ giỏi được tổ chứ định kỳ nhằm nâng cao chất
lượng nhân lực, kỹ năng nghề nghiệp cho thanh niên. Các hoạt động biểu


dương, tôn vinh người thợ trẻ giỏi, công nhân trẻ giỏi, chuyên gia trẻ giỏi; các
cơ sở đào tạo nghề, doanh nghiệp tiêu biểu trong công tác dạy nghề và giải
quyết việc làm cho Thanh niên, được coi là gương điển hình trở thành động
lực giúp thanh niên nông thôn vững tâm hơn trong mỗi quyết định lập nghiệp
của mình.
Phương pháp truyền thông gián tiếp có ưu điểm lớn là thông tin đại
chúng nhưng chỉ dừng ở khả năng cung cấp kiến thức: nếu chỉ thực hiện riêng
truyền thông gián tiếp sẽ khó làm thay đổi hành vi của đối tượng, khó thu
được thông tin phản hồi do đó khó đánh giá được hiệu quả truyền thông.
Thêm vào đó, phương pháp này đòi hỏi phải có những phương tiện, trang
thiết bị phục vụ quá trình truyền và nhận tin như đài phát thanh, vô tuyến, đài
thu thanh… điều này cũng làm hạn chế việc tiếp cận thông tin truyền thông
của thanh niên nông thôn.
Do đó sự phân chia thành hai kênh truyền thông trực tiếp và gián tiếp
chỉ là tương đối. Đôi khi hai kênh này có sự đan xen lẫn nhau. Ví dụ: trong
các buổi thảo luận nhóm, nói chuyện với cộng đồng, vẫn kết hợp phát các tài
liệu truyền thông hoặc trong các buổi tọa đàm trên truyền hình vẫn có các
đường dây nóng để có thể giao lưu trực tiếp với khán giả… Vì vậy, phối hợp

cả hai phương pháp là cách tốt nhất và hiệu quả nhất.
* Truyền thông hướng nghiệp trên quan điểm báo chí
Báo chí với vai trò là diễn đàn của nhân dân nên thông qua các chương
trình truyền hình phần nào phản ánh những tâm tư, nguyện vọng của thanh
niên nông thôn trong vấn đề hướng nghiệp. Thông tin trên báo chí đã tạo nên
bức tranh thông tin đa chiều, đồng thời phát huy vai trò khách quan của báo
chí. Nhờ đó thông tin hướng nghiệp cũng mang tính hai chiều, không áp đặt,
không đóng khung cho một đối tượng cụ thể mà mở ra nhiều hướng đi thích
hợp cho nhiều đối tượng khác nhau tham khảo, lựa chọn.


×