Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Đổi mới mô hình quản lý tòa án ở việt nam hiện nay nhằm đảm bảo thực hiện quyền tư pháp của tòa án và sự độc lập của hoạt động xét xử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (738.36 KB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THÙY

ĐỔI MỚI MÔ HÌNH QUẢN LÝ TÒA ÁN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN
QUYỀN TƯ PHÁP CỦA TÒA ÁN VÀ SỰ ĐỘC LẬP
CỦA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THÙY

ĐỔI MỚI MÔ HÌNH QUẢN LÝ TÒA ÁN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN
QUYỀN TƯ PHÁP CỦA TÒA ÁN VÀ SỰ ĐỘC LẬP
CỦA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số:

60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN QUÂN

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên

Nguyễn Thị Thùy


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỂ CHUNG VỀ MÔ HÌNH QUẢN LÝ TÒA ÁN 7
1.1. Sự hình thành Tòa án và mô hình quản lý Toà án ............................ 7
1.1.2. Sự hình thành Toà án .................................................................... 7
1.1.2. Vị trí, vai trò của Tòa án ở Việt Nam ............................................ 7
1.2. Khái quát mô hình quản lý Toà án của Việt Nam giai đoạn 1945 - 2002 8
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 .......................................... 8
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980 .......................................... 9

1.2.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992 ........................................ 10
1.2.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002 ........................................ 12
1.3. Các điểm kế thừa từ mô hình quản lý Toà án trong giai đoạn 1945 - 200213
1.4. Mô hình quản lý Tòa án ở một số quốc gia trên thế giới ................. 15
1.4.1. Mô hình do Bộ Tư pháp quản lý tại Cộng hòa liên bang Đức ..... 16
1.4.2. Mô hình tự quản do một đơn vị “trực thuộc Tòa án” độc lập với
cơ quan lập pháp, hành pháp quản lý ................................................... 16
1.4.3. Mô hình kết hợp do đơn vi tự quản độc lập của Tòa án và Bộ Tư
pháp cùng thực hiện ở Cộng hòa Pháp ................................................. 28
1.4.4. Mô hình Tòa án phối hợp cùng cơ quan Đảng, chính quyền địa
phương cùng thực hiện ở Trung Quốc .................................................. 31
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1............................................................................. 33
Chương 2: MÔ HÌNH QUẢN LÝ TÒA ÁN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
VỚI YÊU CẦU ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP CỦA TÒA
ÁN VÀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ .............................. 34
2.1. Mô hình quản lý Toà án của Việt Nam hiện nay ............................. 34
2.1.1. Hệ thống tòa án nhân dân theo pháp luật hiện hành ......................... 34


2.1.2. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án ở nước ta hiện nay . 38
2.1.3. Sự cần thiết đổi mới mô hình quản lý Toà án ở Việt Nam ........... 40
2.2. Đánh giá mô hình quản lý Toà án hiện nay với yêu cầu đảm bảo thực
hiện quyền tư pháp của Toà án và sự độc lập của hoạt động xét xử ........ 44
2.2.1. Bảo đảm thực hiện quyền tư pháp và sự độc lập trong xét xử ..... 46
2.2.2. Các điểm đã đạt được và các điểm bất cập ................................. 54
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2............................................................................. 66
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN LÝ
TÒA ÁN NHÂN DÂN NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN TƯ
PHÁP CỦA TÒA ÁN VÀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ . 67
3.1. Hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Toà án theo các cấp

xét xử ....................................................................................................... 67
3.2. Hoàn thiện các quy định về địa vị pháp lý của các chức danh tư pháp70
3.3. Đổi mới chế định Hội thẩm .............................................................. 72
3.4. Đổi mới công tác quản lý cán bộ ...................................................... 73
3.4.1. Tiếp tục đổi mới cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán .......... 75
3.4.2. Về chế độ khen thưởng và kỷ luật................................................ 78
3.4.3. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức ngành Tòa án 78
3.4.4. Đổi mới chế độ đãi ngộ ............................................................... 79
3.5. Đổi mới hệ thống các cơ quan xét xử gắn liền với việc đổi mới một số
cơ quan tiến hành tố tụng khác............................................................... 81
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3............................................................................. 83
KẾT LUẬN ................................................................................................. 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 86


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Tòa án là một cơ quan thực thi pháp
luật quan trọng, đồng thời là một phương thức giải quyết tranh chấp. Từ sau
khi Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 có hiệu lực, cơ cấu tổ chức hệ
thống Tòa án Việt Nam đã có nhiều thay đổi cũng như về quyền hạn, trách
nhiệm của mỗi cấp Tòa án. Hiện nay, hệ thống Toà án nhân dân nước ta
gồm Toà án nhân dân tối cao, Tóa án nhân dân cấp cao, Toà án nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi tắt là Toà án nhân dân cấp tỉnh)
và Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi tắt là
Toà án nhân dân cấp huyện). Bên cạnh những ưu điểm vốn có như gần dân,
sát với chính quyền và các cấp uỷ Đảng ở cơ sở thì hệ thống Toà án ở nước
ta cũng bộc lộ những bất cập về tổ chức và hoạt động. Nhìn chung, tổ chức
và hoạt động của các Toà án chưa theo kịp với sự phát triển và đòi hỏi của
đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. Toà án các cấp nhiều đầu mối; nguồn

nhân lực, cơ sở vật chất của các Tòa án còn thiếu hụt, chưa tương xứng với
yêu cầu nhiệm vụ, vị trí, vai trò của Tòa án. Bên cạnh đó, trong tình hình
hiện nay, hoạt động xét xử của Toà án đang đứng trước nhiều thách thức.
Đó là, tình hình phạm tội diễn biến phức tạp, với tính chất và hậu quả ngày
càng nghiêm trọng; các khiếu kiện hành chính, các tranh chấp dân sự, kinh
tế, lao động, các loại khiếu kiện và tranh chấp có yếu tố nước ngoài có
chiều hướng tăng về số lượng và phức tạp, đa dạng hơn về tính chất và
hình thức biểu hiện. Với việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hội nhập quốc tế thì đòi hỏi của Nhà
nước và nhân dân đối với cơ quan Toà án ngày càng cao.

1


Mặt khác, Hiến pháp 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa
án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.
Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” (Điều 102). Để thực hiện tốt nhiệm
vụ của cơ quan thực hiện quyền tư pháp, một trong những yêu cầu quan trọng
đặt ra là cần tạo tạo cơ chế vận hành hệ thống tòa án một cách thông suốt, hợp
lý, trước hết là cơ chế quản lý tổ chức, con người với những nguyên tắc chung
về quản lý nhà nước và những nội dung, cách thức đặc thù phù hợp với tính
chất của cơ quan xét xử.
Trong nhà nước pháp quyền, tính độc lập của tư pháp là một trong những
đặc trưng cơ bản. Xét theo chiều ngang, đó là sự độc lập của quyền tư pháp
với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Xét theo chiều dọc, đó là sự độc lập
giữa các cấp tòa án khác, độc lập trong nội bộ một cấp tòa án. Mối quan hệ
giữa cơ quan lập pháp với cơ quan tư pháp chủ yếu thông qua việc ban hành

các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức, hoạt động tư pháp và
giám sát đối với hoạt động xét xử. Mối quan hệ giữa cơ quan hành pháp với
cơ quan tư pháp thông qua việc bảo đảm các điều kiện về nguồn lực cho tòa
án thực hiện tốt quyền tư pháp. Sự độc lập của tòa án theo chiều dọc được thế
hiện ở hai yếu tố: độc lập của các cấp tòa án, độc lập trong nội bộ một cấp tòa
án và độc lập của thẩm phán, hội thẩm trong hội đồng xét xử. Để độc lập, tòa
án phải được tổ chức theo cấp xét xử, quan hệ giữa các cấp tòa án là quan hệ
tố tụng, không phải quan hệ mệnh lệnh, hành chính. Do đặc thù của đối tượng
quản lý (cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp), quản lý tòa án là một lĩnh
vực quản lý đặc thù ở đa số các nước, tòa án không tổ chức và quản lý giống
như cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
2


Ở nước ta, vấn đề quản lý các tòa án từ lâu là một nội dung gây tranh
luận kéo dài trong khoa học cũng như trong thực tiễn. Nhiều năm qua, Nhà
nước ta đã cố gắng tìm tòi và áp dụng nhiều mô hình quản lý tòa án nhưng
thực tiễn quản lý cho thấy các mô hình này đều chưa thật hoàn thiện.
Vì vậy, nhằm góp phần vào việc đổi mới hệ thống Toà án nhân dân
theo theo đúng tinh thần cải cách tư pháp đã được đề ra trong các Nghị
quyết của Đảng, học viên lựa chọn nghiên cứu Đề tài: “Đổi mới mô hình
quản lý Tòa án ở Việt Nam hiện nay nhằm đảm bảo thực hiện quyền tư
pháp của Tòa án và sự độc lập của hoạt động xét xử”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhằm góp phần hoàn thiện các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp, thời gian qua Tòa án nhân dân tối cao đã
có nhiều chương trình trao đổi và hợp tác với các cơ quan ở các nước Pháp,
Đức, Thụy Điển, Nhật Bản, Trung Quốc, Canada... và các tổ chức quốc tế như
SIDA, JICA, UNDP... về hoạt động tư pháp. Trong đó có nhiều Hội nghị, Hội
thảo, Tọa đàm... trong và ngoài nước đã cho chúng ta một bức tranh nhiều

màu sắc về tổ chức và hoạt động hệ thống cơ quan tư pháp của các nước.
Những định hướng lớn về cải cách tư pháp nói riêng và cải cách bộ máy nhà
nước nói chung liên tục được đề cập qua các kỳ Đại hội Đảng VI, VII, VIII và
IX là nền tảng tư tưởng vững chắc cho công cuộc đổi mới tổ chức và hoạt
động của hệ thống cơ quan tư pháp nước ta. Trong những năm gần đây đã có
một số công trình khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, các luận án tiến sĩ, sách
chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tư pháp Việt Nam có liên quan đến cải
cách tư pháp như: Luận án Tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội: Đổi mới tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước
pháp quyền của tác giả Trần Huy Liệu năm 2003; Cơ sở lý luận và thực tiễn
đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp (góp phần sửa đổi Hiến
3


pháp năm 1992), Đề tài cấp Bộ, Chủ nhiệm đề tài: Hoàng Thế Liên; Sách
chuyên khảo Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của GS.TSKH. Đào Trí Úc, NXB Tư pháp năm 2006;
Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy Nhà nước của GS.TS. Nguyễn Đăng
Dung, NXB Giao thông vận tải năm 2002; Hệ thống tư pháp và cải cách tư
pháp ở Việt Nam hiện nay của tập thể các tác giả do GS.TS. Đào Trí Úc chủ
biên, NXB Khoa học xã hội năm 2002; Những công trình khoa học nghiên
cứu về Tòa án nhân dân ở những góc độ khác nhau... Các công trình khoa học
nêu trên đã góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận và thực tiễn về mô hình tổ
chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp nước ta, phúc đáp những yêu
cầu bức xúc của cuộc sống. Tuy nhiên, vì các lý do khác nhau nên những
công trình nghiên cứu trên chưa giải quyết một cách đầy đủ, Toàn diện các
vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp
nói chung và Tòa án nhân dân nói riêng trong điều kiện cải cách tư pháp.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận và thực tiễn mô hình quản lý Tòa án ở Việt Nam,

chỉ ra những kết quả đã đạt được, những bất cập, tồn tại và nguyên nhân của
những bất cập đó trong quản lý Tòa án của Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá mô hình quản lý Tòa án hiện nay với yêu cầu đảm bảo thực
hiện quyền tư pháp của Tòa án và sự độc lập của hoạt động xét xử, nhằm đưa
ra những đổi mới phù hợp thực trạng việc quản lý Tòa án ở Việt Nam hiện nay.
- Đề ra các giải pháp hoàn thiện quản lý Tòa án nhân dân nhằm đảm bảo
thực hiện quyền tư pháp của Tòa án và sự độc lập của hoạt động xét xử.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một đề tài luận văn thạc sỹ, học viên xác định đối
tượng và phạm vi của đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề chung về mô
hình quản lý Tòa án, đưa ra thực trạng mô hình quản lý Tòa án của Việt Nam
4


hiện nay với yêu cầu bảo đảm tính độc lập và thực hiện quyền tư pháp (những
kết quả đã đạt được, những bất cập, tồn tại và nguyên nhân của những bất cập
đó), trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp góp phần đổi mới, hoàn thiện quản
lý Tòa án nhân dân nhằm đảm bảo thực hiện quyền tư pháp của Tòa án và sự
độc lập của hoạt động xét xử.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật; Các quan điểm của Đảng về từng bước
hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân theo yêu cầu cải cách
tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân. Luận văn cũng được trình bày trên cơ sở nghiên cứu Hiến pháp, Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân, và các văn bản pháp luật khác quy định về tổ chức
và hoạt động của Tòa án.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể của luật học như phương

pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê xã hội học, phương pháp
luật học so sánh và khảo sát thực tế để làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên
cứu của luận văn.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và luận cứ khoa
học về mô hình quản lý Tòa án của Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, luận
văn đó đưa ra một số phương hướng và giải pháp khoa học, phù hợp với điều
kiện thực tiễn, góp phần đổi mới, hoàn thiện quản lý Tòa án nhân dân nhằm
đảm bảo thực hiện quyền tư pháp của Tòa án và sự độc lập của hoạt động xét
xử, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước
5


pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, hi vọng rằng luận văn có thể
được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa học, những người làm
thực tiễn và công tác nghiên cứu, giảng dạy.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
chia làm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về mô hình quản lý Tòa án
Chương 2: Mô hình quản lý Tòa án của Việt Nam với yêu cầu đảm bảo
thực hiện quyền tư pháp của Tòa án và sự độc lập của hoạt
động xét xử
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý Tòa án nhân
dân nhằm đảm bảo thực hiện quyền tư pháp của Tòa án và
sự độc lập của hoạt động xét xử

6



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỂ CHUNG VỀ MÔ HÌNH QUẢN LÝ TÒA ÁN
1.1. Sự hình thành Tòa án và mô hình quản lý Toà án
1.1.2. Sự hình thành Toà án
Nhà nước đã ban hành ra pháp luật thì phải có cơ chế để đảm bảo cho
pháp luật được thực thi, bởi lẽ pháp luật sẽ trở nên vô nghĩa, nếu nó không
được các giai cấp và tầng lớp khác tuân theo, pháp luật không đi vào đời
sống hàng ngày của dân cư. Mặt khác trong bất cứ xã hội nào, luôn luôn có
các cá nhân, tổ chức hoặc giai cấp đối lập tìm mọi cách để làm trái các điều
luật của nhà nước, đi ngược lại với lợi ích của giai cấp thống trị. Do vậy giai
cấp thống trị đã tổ chức ra một hệ thống các cơ quan chuyên làm nhiệm vụ
bảo vệ và bảo đảm cho pháp luật được thực thi như quân đội, cảnh sát...
Nhưng không thể sử dụng đội quân này có thể bắt bớ, giam cầm một cách
tùy tiện, bởi như thế sẽ tạo nên sự hỗn loạn trong xã hội. Bởi lẽ đó cần có
một cơ quan được lập ra để đảm nhiệm chức năng xét xử, xem xét hành vi
nào là đúng, là sai. Cơ quan đó chính là tòa án, luôn tồn tại trong bất kỳ chế
độ nhà nước nào.
Theo V.I. Lênin "… Tòa án là cơ quan quyền lực nhà nước, hoạt động
của tòa án là hình thức hoạt động của nhà nước... " [13, tr.197].
1.1.2. Vị trí, vai trò của Tòa án ở Việt Nam
Tòa án là biểu hiện tập trung của quyền tư pháp, là cơ quan thực hiện chức
năng xét xử. Ngay từ buổi đầu của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tòa
án đã chiếm một vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong việc xét xử những
hành vi vi phạm pháp luật, chống phá nhà nước ta. Cùng với quá trình phát triển
của cách mạng, ở mỗi một giai đoạn khác nhau, do những yêu cầu đặt ra khác
nhau, tổ chức, hoạt động của tòa án nhân dân cũng có những nhiệm vụ và mục
7


tiêu khác nhau. Tuy nhiên nó cũng chiếm một vị trí và vai trò hết sức quan

trọng, "...là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam...
Trong phạm vi chức năng của mình có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân ; bảo vệ
tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của công dân…” [1,tr.71].
1.2. Khái quát mô hình quản lý Toà án của Việt Nam giai đoạn
1945 - 2002
Trong giai đoạn 1945 - 2002, mô hình quản lý Toà án nhân dân địa
phương được chia thành 4 giai đoạn tương ứng với các mô hình khác nhau, cụ
thể là:
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Ngay sau khi cách mạng tháng tám thành công, Nhà nước Việt nam dân
chủ cộng hoà đã quan tâm đến công tác xét xử và xây dựng hệ thống Toà án.
Ngày 13/9/1945, Chính phủ lâm thời đã ra Sắc lệnh số 33/SL về việc thiết lập
các Tòa án quân sự ở các địa phương khác nhau trong cả nước. Theo Sắc lệnh
này, ở nước ta sẽ thiết lập các Tòa án quân sự ở Hà Nội, Hải Phòng, Thái
Nguyên, Ninh Bình, Vinh, Huế, Quảng Ngãi, Sài Gòn, Mỹ Tho. Các Tòa án
quân sự đã được thành lập với thẩm quyền xét xử sơ thẩm, đồng thời chung
thẩm tất cả những người phạm vào một việc gì có phương hại cho nền độc lập
của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Để giữ vững kỷ luật trong quân đội,
ngày 23/8/1945 Chính phủ đã ra sắc lệnh số 163/SL về việc thành lập tòa án
xét xử các quân nhân, sĩ quan phạm tội. Đây là những văn bản pháp lý đầu
tiên, là cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của tòa án sau này.
Tuy nhiên, vì yêu cầu của cách mạng lúc bấy giờ, Nhà nước Việt nam
dân chủ cộng hoà mới chỉ thiết lập các Tòa án quân sự mà chưa tổ chức hệ
thống Tòa án các cấp và các Tòa án quân sự cũng chỉ xét xử các vụ án hình sự
8


mà không xét xử các vụ án dân sự.

Ngày 24/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 13 về tổ chức
Tòa án và ngạch Thẩm phán. Đây là Sắc lệnh đầu tiên quy định một cách đầy
đủ, cụ thể tiêu chuẩn nhiệm vụ và quyền hạn của các ngạch thẩm phán. Theo
đó, các Toà án sơ cấp, đệ nhị cấp, Toà thượng thẩm đã được thành lập, Thẩm
phán ở Toà án thượng thẩm và Toà án đệ nhị cấp do Chủ tịch nước bổ nhiệm,
còn thẩm phán ở Toà án sơ cấp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm.
Ngày 29/4/1958, Quốc hội quyết định thành lập Tòa án nhân dân tối cao
và Viện công tố nhân dân trung ương, trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Có thể
nói đây là một bước quá độ rất cần thiết làm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống
Tòa án nhân dân trong Bộ máy nhà nước một năm sau đó. Năm 1959, Hiến
pháp mới ban hành, Toà án tối cao, Viện công tố được thành lập lại thành Toà
án nhân dân tối cao và tách ra khỏi Chính phủ. Từ năm 1946 đến năm 1960 tất
cả các cơ quan Toà án đều đặt dưới sự quản lý của Bộ Tư pháp về mặt tài
chính, kinh phí, tổ chức chế độ làm việc và các công việc về nhân sự.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
Hiến pháp năm 1959 đã thể chế hoá các quan điểm của Nghị quyết Đại
hội lần thứ III của Đảng đã đề ra. Căn cứ vào các quy định của Hiến pháp
1959 về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, ngày 14/7/1960, Quốc hội
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khoá II, kỳ họp thứ nhất đã thông qua
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân. Tiếp đó, để kiện Toàn Tòa án nhân dân các
cấp, tăng cường tính nhân dân của Tòa án nhân dân và bảo đảm cho việc xét
xử được chính xác và đúng pháp luật. Ngày 23/3/1961 Uỷ ban thường vụ
Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức Tòa án nhân dân
tối cao và tổ chức của Tòa án nhân dân địa phương. Ngoài các quy định trên,
theo Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ nước Việt nam dân chủ cộng hoà năm
1960, Bộ Tư pháp giải thể.
Về quản lý các Toà án nhân dân địa phương, Điều 23 Luật Tổ chức Toà
9



án nhân dân quy định: “... Bộ máy làm việc và biên chế của các Toà án nhân
dân địa phương các cấp do Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện
theo quy định chung về bộ máy làm việc và biên chế của Cơ quan Nhà nước”
và Điều 14 Pháp lệnh ngày 23/3/1961 quy định: “Tổ chức cụ thể của bộ máy
làm việc và biên chế cụ thể của các Toà án nhân dân địa phương các cấp do
Chánh án Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện theo những quy định
chung về bộ máy làm việc và biên chế của các cơ quan nhà nước. Tổng biên
chế của các Toà án nhân dân địa phương các cấp do Chánh án Toà án nhân
dân tối cao định và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn”.
Tuy nhiên, trên thực tế, các Toà án nhân dân địa phương được xem là
đơn vị xét xử của đơn vị hành chính của từng cấp địa phương việc quản lý
Toà án nhân dân địa phương chủ yếu do chính quyền địa phương đảm nhiệm
(hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, bãi miễn Chánh án, Phó chánh án, Thẩm
phán; kinh phí và cơ sở vật chất cho hoạt động do Uỷ ban nhân dân địa
phương đảm nhiệm, chế độ tiền lương của cán bộ Toà án nhân dân các cấp do
Chính phủ đảm nhiệm.
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992
Ngày 13/12/1980, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá VI, kỳ họp thứ 7, đã thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam thống
nhất - Hiến pháp 1980. Nhìn chung, các quy định về Tòa án nhân dân trong
Hiến pháp 1980 kế thừa và phát triển các quy định của Hiến pháp 1959.
Trong Tờ trình trước Quốc hội về Dự thảo Luật tổ chức Toà án nhân dân
tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá VII (tháng 7/1981) do Toà án nhân dân tối
cao chuẩn bị trước Quốc hội có viết: “Để bảo đảm cho các Tòa án nhân dân
thực hiện được tốt công tác xét xử, việc quản lý về biên chế, tổ chức và cán
bộ của Tòa án nhân dân các cấp là rất quan trọng. Trước đây, khi giải thể Bộ
Tư pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 đã giao nhiệm vụ này cho
10



Tòa án nhân dân tối cao. Nay, nếu Bộ Tư pháp được thành lập, chúng tôi đề
nghị Tòa án nhân dân tối cao quản lý tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao và
Bộ Tư pháp quản lý về tổ chức của Tòa án nhân dân địa phương”.
Đồng thời trong Tờ trình thành lập lại Bộ Tư pháp, Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng đã báo cáo trường kỳ họp thứ 1 Quốc hội khoá VII đã khẳng định:
“Thực tiễn 20 năm qua (1960 - 1980) chứng minh rõ việc Hội đồng Chính
phủ, cơ quan chấp hành nhà nước cao nhất, cơ quan quản lý Toàn diện công
việc của Nhà nước không có Bộ Tư pháp là điều rất không hợp lý, Tòa án
nhân dân tối cao với tư cách là Toà án, một cơ quan xét xử của Hiến pháp lại
được giao chức năng, nhiệm vụ của Bộ, của Chính phủ mà theo pháp luật lại
không chịu trách nhiệm trước Chính phủ (chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc
hội), trong khi đó thì Hội đồng Chính phủ không nắm được tình hình thi hành
pháp luật, không gắn được việc chấp hành pháp luật trong việc xét xử với việc
điều hành công việc chung của chính phủ, từ đó không chỉ đạo được hoạt động
đấu tranh chống tội phạm loại trừ các nguyên nhân và điều kiện gây ra tội
phạm và các hành vi phạm pháp khác. Tình hình này kéo dài sẽ có hậu quả
không tốt. Hội đồng Chính phủ phải là người quản lý Toàn diện mọi hoạt động
của đời sống xã hội kể cả quản lý tư pháp. Hội đồng Chính phủ phải có Bộ Tư
pháp để giúp cho Hội đồng Chính phủ thống nhất quản lý công tác tư pháp”.
Chính vì vậy, theo Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 1980 (Điều 16) và
Nghị định số 143/HĐBT ngày 22/11/1981 về chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư
pháp thì “việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ
trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm. Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc thực hiện nhiệm vụ đó” (Điều
16) [3]. Về quản lý các Tòa án quân sự, thì Pháp lệnh năm 1985 đã giao “Bộ
trưởng Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc quản lý về mặt tổ chức các Tòa
11



án quân sự quân khu và cấp tương đương và các Tòa án quân sự khu vực”.
Về biên chế của các Tòa án nhân dân theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân
năm 1981 và Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 1985, thì biên chế của
Tòa án nhân dân tối cao do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định và trình
Hội đồng Nhà nước phê chuẩn. Tổng số biên chế của các Tòa án nhân dân địa
phương do Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định. Sau khi
đã được Hội đồng Bộ trưởng quyết định tổng số biên chế, việc quy định biên chế
cho từng Tòa án nhân dân địa phương đó Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định. Đối
với các Tòa án quân sự, thì bộ máy làm việc, biên chế của Tòa án quân sự cấp
cao do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định, sau khi đã thống nhất ý
kiến với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và trình Hội đồng Nhà nước phê chuẩn bộ
máy làm việc, biên chế của các Tòa án quân sự quân khu và cấp tương đương,
của các Tòa án quân sự khu vực do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định, sau khi
đã thống nhất ý kiến với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng. Về kinh phí, phương tiện hoạt động và trụ sở của các Tòa án quân
sự do Bộ Quốc phòng và các đơn vị quân đội bảo đảm.
Tóm lại, việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương trong giai đoạn
này do Bộ Tư pháp đảm nhiệm, nhưng chủ yếu là việc trình tổng số biên chế
và quy định biên chế cụ thể cho từng Tòa án nhân dân địa phương, còn về
kinh phí hoạt động vẫn do ngân sách địa phương cấp, về nhân sự như Chánh
án, Phó Chánh án, Thẩm phán do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu.
1.2.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002
Đường lối đổi mới được khởi xướng từ Đại hội lần thứ VI của Đảng năm
1986 và tiếp tục được khẳng định và phát triển trong Nghị quyết Đại hội lần
thứ VII của Đảng năm 1991 là cơ sở cho việc ban hành Hiến pháp năm 1992 Hiến pháp của thời kỳ đổi mới.
Trong quá trình xây dựng Hiến pháp 1992, Luật tổ chức Toà án nhân dân
12


năm 1992, Toà án nhân dân tối cao đã có văn bản đề nghị giao quản lý các

Toà án nhân địa phương về mặt tổ chức. Tuy nhiên, Hiến pháp 1992 cũng như
Luật tổ chức Tòa án nhân dân được ban hành tiếp tục kế thừa và phát triển các
quy định của Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981
theo đó, “Việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ
trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án
nhân dân tối cao. Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án
Toà án nhân dân tối cao trong việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương
về mặt tổ chức do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định”.
Xuất phát từ yêu cầu cải cách tư pháp, ngày 02/1/2002, Bộ Chính trị đã
ban hành Nghị quyết số 08 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới đã xác định Toà án nhân dân tối cao quản lý các Toà án địa
phương về mặt tổ chức. Thi hành Luật tổ chức Toà án nhân dân 2002, ngày
25/9/2002, tại Bộ Tư pháp, lễ bàn giao công tác quản lý Toà án nhân dân địa
phương, Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực
về mặt tổ chức từ Bộ Tư pháp sang Toà án nhân dân tối cao đã được tiến
hành.
1.3. Các điểm kế thừa từ mô hình quản lý Toà án trong giai đoạn
1945 - 2002
Một số điểm kế thừa từ các mô hình quản lý Toà án trong giai đoạn 1945
- 2002 như sau:
1) Tiếp tục thực hiện chế độ bổ nhiệm thẩm phán như đã được thực hiện từ
năm 1992 đến nay nhằm đảm bảo chọn được những người thực sự đủ tiêu chuẩn
làm thẩm phán và bảo đảm cho thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
2) Cần phải khẳng định Toà án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp,
không phải là cơ quan quản lý hành chính
13


Bởi lẽ, thứ nhất, xét về vi trí, vai trò của Toà án trong hệ thống tổ chức,
bộ máy Nhà nước thì Toà án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền xét xử, mà

không phải là cơ quan quản lý hành chính Nhà nước, cho nên trong cách thức
tổ chức các cơ quan xét xử có đặc thù riêng. Đó là, theo quy định của các Luật
tổ chức Toà án, thì các Toà án của nước ta được tổ chức theo địa giới hành
chính từ cấp huyện trở lên, hoạt động xét xử độc lập với nhau theo thẩm
quyền mà không thành một hệ thống như các cơ quan khác.
Hơn nữa, một trong những nguyên tắc quan trong trong hoạt động của
Toà án được ghi nhận trong tất cả các bản hiến pháp của nước ta đó là “khi
xét xử, thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Pháp luật
là mệnh lệnh tối cao đối với những người làm công tác xét xử. Muốn vậy, đối
với người Thẩm phán, đòi hỏi phải có điều kiện chủ quan và khách quan về
thực hiện quyền năng và nghĩa vụ của mình. Về chủ quan, muốn “độc lập” thì
người Thẩm phán phải nắm vững pháp luật, có bản lĩnh, đạo đức và như vậy
họ phải được đào tạo một cách chính quy, được bổ nhiệm theo các tiêu chuẩn
chặt chẽ và phải được hưởng chế độ lương bổng thoả đáng. Về khách quan,
để các Thẩm phán được “độc lập” trong hoạt động xét xử, cần thiết phải ngăn
chặn mọi sự can thiệp của cơ quan hoặc cá nhân vào việc xét xử các vụ án cụ
thể, ít nhiều ảnh hưởng đến sự nghiêm minh của pháp luật mà Thẩm phán là
người có sứ mệnh duy trì sự nghiêm minh đó. Do đó, trong cách thức tổ chức,
các Toà án cấp trên không có quan hệ hành chính, chỉ đạo điều hành Toà án
cấp dưới. Mối quan hệ giữa các Toà án này với nhau là quan hệ tố tụng theo
quy định của pháp luật. Việc quản lý hành chính có liên quan đến tổ chức, bộ
máy, đào tạo, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, bảo đảm trụ sở,
kinh phí phương tiện hoạt động của Toà án được giao cho cơ quan có chức
năng quản lý hành chính nằm ngoài tổ chức cơ quan xét xử nhằm tránh sự
điều hành, mệnh lệnh trong công tác xét xử.
14


3) Việc quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức nên do một
Hội đồng thuộc Chính phủ thực hiện.

Theo nguyên tắc tổ chức bộ máy của Nhà nước ta hiện nay thì quyền lực
Nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan lập pháp,
hành pháp, tư pháp, trong đó cơ quan hành pháp là cơ quan chấp hành, chịu
trách nhiệm thực hiện các vấn đề về quản lý hành chính Nhà nước và điều
hành đối với Toàn bộ hoạt động trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Do vậy,
việc quản lý hành chính có liên quan đến tổ chức, bộ máy, đào tạo, bổ nhiệm,
khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, bảo đảm trụ sở, kinh phí phương tiện
hoạt động của Toà án là thuộc hoạt động quản lý của cơ quan hành pháp. Tuy
nhiên, việc quản lý này không nên giao cho một Bộ phối hợp với Toà án nhân
dân tối cao thực hiện mà nên do một Hội đồng thực hiện để có thế có đủ tầm
giải quyết nhanh việc cải tiến công tác này phải bảo đảm nguyên tắc tập trung
dân chủ, thống nhất quyền lực, có sự phân công, phân cấp, đồng thời đảm bảo
sự chỉ đạo thống nhất của rung ương trong tổ chức và hoạt động của các cơ
quan quản lý Toà án; hạn chế sự tối đa sự tác động của chính quyền địa
phương đối với hoạt động của Toà án.
1.4. Mô hình quản lý Tòa án ở một số quốc gia trên thế giới
Qua việc nghiên cứu mô hình quản lý Toà án ở một số quốc gia trên thế
giới, có thể thấy có 4 mô hình quản lý Tòa án, cụ thể như sau:
- Mô hình do Bộ Tư pháp quản lý: Mô hình này được áp dụng ở Cộng
hòa liên bang Đức.
- Mô hình tự quản do một đơn vi “trực thuộc Tòa án” độc lập với cơ
quan lập pháp, hành pháp quản lý: Mô hình này được áp dụng ở Hoa Kỳ, Úc,
Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia, Liên bang Nga, Bungary,
Hungary…
- Mô hình kết hợp do đơn vị tự quản độc lập của Tòa án và Bộ Tư pháp
cùng thực hiện: Mô hình này được áp dụng ở Cộng hòa Pháp.
15


- Mô hình Tòa án phối hợp cùng cơ quan Đảng, chính quyền địa phương

cùng thực hiện: Mô hình này được áp dụng ở Trung Quốc.
1.4.1. Mô hình do Bộ Tư pháp quản lý tại Cộng hòa liên bang Đức
1.4.1.1. Quản lý Tòa án Hiến pháp liên bang
Độc lập trong vấn đề quản lý nhân sự và ngân sách. Hội đồng Thẩm
phán Tòa án Hiến pháp liên bang chuẩn bị dự thảo ngân sách hàng năm và
chuyển cho Hạ nghị viện liên bang xem xét phê chuẩn.
1.4.1.2. Quản lý các Tòa án không phải là Toà án Hiến pháp
Nhìn chung, việc quản lý các Tòa án (trừ Tòa án Hiến pháp) ở Cộng hoà
liên bang Đức do Bộ Tư pháp liên bang và các Bộ Tư pháp bang thực hiện.
Toàn bộ các Thư ký Tòa án cũng như nhân viên hành chính của các Tòa án
đều do Bộ Tư pháp đào tạo, bổ nhiệm và thuyên chuyển. Biên chế các Thẩm
phán cũng được quyết định bởi sự chấp thuận của Bộ Tư pháp. Việc lập ngân
sách và phân bồ ngân sách cho các Tòa án cũng do Bộ Tư pháp liên bang và
các Bộ Tư pháp bang đảm nhiệm.
Tuy nhiên, các Tòa án thượng thẩm, cấp cao của các bang được phân cấp
quản lý các Tòa án thuộc hệ thống trong phạm vi lãnh thổ bang. Do đó, các Tòa
án cấp cao nhất của bang đóng vai trò là cơ quan hành chính trung gian giữa
các bộ và các Tòa án cấp dưới cùng hệ thống trong phạm vi lãnh thổ bang.
1.4.2. Mô hình tự quản do một đơn vị “trực thuộc Tòa án” độc lập với
cơ quan lập pháp, hành pháp quản lý
Mô hình này được áp dụng ở Hoa Kỳ, Úc, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Thái Lan, Indonesia, Liên bang Nga, Bungary, Hungary...
1.4.2.1. Ở Nhật Bản
Việc quản lý Tòa án được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức Tòa
án. Theo những quy định này thì Tòa án tối cao có thẩm quyền cao nhất trong
quản lý Tòa án.
16


Tòa án tối cao giám sát nhân viên Tòa án tối cao và nhân viên Tòa án

cấp dưới; Tòa án cấp cao giám sát nhân viên Tòa án cấp cao đó và Tòa án cấp
dưới trong khu vực chủ quản và nhân viên của Tòa án đó; Toà án địa phương
cấp tỉnh giám sát nhân viên Tòa án địa phương cấp tỉnh đó và Tòa án đơn
giản trong khu vực chủ quản và nhân viên của Tòa án đó; các Tòa án gia đình
giám sát nhân viên của Tòa án gia đình đó; Thẩm phán Tòa án đơn giản giám
sát nhân viên không phải Thẩm phán của Tòa án gia đình đó.
Đối với ngân sách của ngành Tòa án, sau khi có Nghị quyết của Đại hội
đồng Thẩm phán (15 Thẩm phán Tòa án tối cao), Tòa án tối cao sẽ trình dự
toán ngân sách trực tiếp cho Nội các. Nếu Nội các cắt giảm dự toán của Tòa
án thì Tòa án tối cao có thể yêu cầu Nội các giữ nguyên. Nội các sẽ trình chi
tiết các khoản dự toán để Quốc hội xem xét quyết định.
Để thực hiện công việc quản lý hành chính, Tòa án tối cao có Tổng Ban
Thư ký là bộ phận nội bộ chịu trách nhiệm quản lý hành chính Tòa án. Các
cán bộ quan trọng của Tổng Ban Thư ký được chọn lựa từ các Thẩm phán
Tòa án cấp dưới, nếu họ đồng ý.
Như vậy, Tòa án tối cao quản lý Toàn bộ hệ thống Tòa án một cách độc
lập không có sự can thiệp của nhánh lập pháp hoặc hành pháp.
1.4.2.2. Ở Hàn Quốc
Bộ Quản lý hành chính Tòa án thuộc Tòa án tối cao Hàn Quốc chịu trách
nhiệm giúp Hội đồng Thẩm phán Tòa án tối cao quản lý hệ thống Tòa án về
tổ chức, nhân sự, ngân sách, cơ sở vật chất v.v…
Bộ trưởng Bộ Quản lý hành chính Tòa án do Chánh án Tòa án tối cao bổ
nhiệm trong sổ các Thẩm phán của Tòa án tối cao.
Bộ quản lý hành chính Tòa án bao gồm 05 Vụ, 04 Văn phòng và Tổng
Thanh tra: Vụ Kế hoạch và Điều phối có trách nhiệm lập kế hoạch và phối
hợp hoạt động với các Tòa án, xây dựng ngân sách tư pháp và quản lý ngân
sách, tiến hành các nghiên cứu về các văn bàn pháp luật và quy định pháp
17



luật, quản lý việc xử lý dữ liệu điện tử và mạng thông tin điện tử, và thống kê;
Vụ Nghiên cứu Chính sách Tư pháp tiến hành các nghiên cứu và tìm hiểu về
hệ thống và chính sách tư pháp, các vấn đề quốc tế; và Vụ Quản lý nhân sự
quản lý và đào tạo cán bộ, nhân viên tư pháp. Văn phòng Dịch vụ Tổng hợp
chịu trách nhiệm về các công việc lễ tân, quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật, và
kinh phí hoạt động; Văn phòng quản lý các vụ kiện có trách nhiệm tiếp nhận
các vụ án, quản lý hồ sơ Tòa án, tham gia vào các vụ kiện pháp lý, tiến hành
nghiên cứu và tìm hiểu các hệ thống/phương thức kiện tụng, và đưa ra các câu
trả lời cho các câu hỏi pháp lý của Tòa án các cấp; Văn phòng Đăng ký chịu
trách nhiệm ghi sổ đăng ký, đăng ký gia đình, và tiền gửi; Văn phòng Xây
dựng Tòa án chịu trách nhiệm xây dựng cơ sở vật chất Tòa án, quản lý việc sử
dụng và bảo dưỡng. Vụ Thông tin Công chúng có trách nhiệm quảng bá cho
hệ thống Tòa án; Tổng Thanh tra tiến hành kiểm tra và giám sát các công việc
của cán bộ tư pháp, cảnh sát trưởng và công chứng viên tư pháp; Vụ Kế hoạch
khẩn cấp tiến hành xây dựng các biện pháp ứng phó trong các trường hợp
khẩn cấp của quốc gia.
Về xây dựng ngân sách: Theo nguyên tắc, Tòa án tối cao xây dựng ngân
sách của hệ thống Tòa án sau khi tham khảo ý kiến của Chính phủ (Bộ Tài
chính và kinh tế), trình Quốc hội thông qua. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xây
dựng ngân sách của hệ thống Tòa án do Bộ Tài chính và kinh tế thực hiện trên
cơ sở số liệu thu chi ngân sách do Tòa án tối cao nộp. Nếu Chính phủ đề nghị
giảm mức ngân sách mà Tòa án tối cao đề xuất, Chính phủ phải trao đổi với
Tòa án tối cao.
1.4.2.3. Ở Thái Lan
Việc quản lý hệ thống Tòa án Công lý được thực hiện thông qua 3 Hội
đồng: Hội đồng Tư pháp, Hội đồng hành chính tư pháp và Hội đồng các vấn
đề công vụ tư pháp.
18



Hội đồng Tư pháp gồm 13 thành viên, Chánh án Tòa án tối cao là Chủ
tịch, các ủy viên Hội đồng được bầu trong số các Thẩm phán ở tất cả các cấp
của Tòa án Công lý, trong đó 4 thành viên được bầu trong số các Thẩm phán
Tòa án tối cao, 4 thành viên được bầu từ các Thẩm phán các Tòa phúc thẩm, 4
thành viên còn lại được bầu trong số 100 Thẩm phán bậc cao của các Tòa sơ
thẩm. Hội đồng thực hiện việc tuyền chọn Thẩm phán để Nhà Vua bổ nhiệm,
luân chuyển, đề bạt và kỷ luật các Thẩm phán.
Hội đồng các vấn đề công vụ tư pháp bao gồm Phó Chánh án lâu năm
nhất của Tòa án tối cao là Chủ tịch Hội đồng, các ủy viên Hội đồng do Hội
đồng Thẩm phán bầu trong số các Thẩm phán ở tất cả các cấp Tòa án và cả
các ủy viên Hội đồng được bầu trong số các cán bộ tư pháp cấp cao của Tòa
án. Hội đồng thực hiện việc bổ nhiệm, luân chuyển, đề bạt và kỷ luật các cán
bộ Tòa án.
Hội đồng hành chính tư pháp do Chánh án Tòa án tối cao làm Chủ tịch
và bao gồm các ủy viên Hội đồng được bầu trong số các Thẳm phán ở tất cả
các cấp của Tòa án Công lý. Hội đồng có trách nhiệm thông qua dự toán ngân
sách, quản lý tài chính, ban hành các quy định và thông báo liên quan đến
công việc hành chính và công việc Thư ký của Văn phòng Tòa án Công lý.
Luật pháp quy định mỗi Hội đồng phải có số lượng nhất định ủy viên
Hội đồng là những người có trình độ chuyên môn giỏi và không phải là Thẩm
phán nhằm đảm bảo tính giải trinh và minh bạch.
Văn phòng Toà án Công lý
Theo Hiến pháp năm 1997 và Hiến pháp hiện hành năm 2007, các Tòa
án Công lý có Văn phòng Tòa án Công lý do Chánh Văn phòng đứng đầu,
người sẽ báo cáo trực tiếp lên Chánh án Tòa án tối cao. Chánh Văn phòng
Tòa án Công lý được bổ nhiệm từ một Thẩm phán Tòa án tối cao. Việc bổ
nhiệm Chánh Văn phòng của Văn phòng Tòa án Công lý phải được sự chấp
thuận của Hội đồng Tư pháp. Chánh án Tòa án tối cao đệ trình lên Nhà Vua
19



bổ nhiệm. Văn phòng Tòa án Công lý có quyền tự chủ trong công tác nhân sự,
ngân sách và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật. Văn phòng Tòa
án Công lý có đội ngũ nhân viên riêng và được chia thành nhiều Vụ. Vụ Công
nghệ thông tin Vụ giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp thay thế, Vụ pháp
luật và tư pháp và Học viện đào tạo tư pháp. Vụ các vấn đề quốc tế thực hiện
các công việc liên quan đến hợp tác tư pháp quốc tế.
Theo Luật về Hành chính tư pháp của các Tòa án Công lý thì Văn phòng
Tòa án Công lý là một tổ chức hành chính độc lập có tư cách pháp nhân, có
các quyền và nghĩa vụ liên quan đến các công việc hành chính của các Tòa án
Công lý, các công việc tự pháp và các công việc kỹ thuật tư pháp để hỗ trợ và
tạo điều kiện để các Tòa án Công lý hoạt động thuận lợi, hiệu quả, nhanh
chóng. Văn phòng Tòa án công lý gồm:
Ở Trung ương: có 22 đơn vị. Những đơn vị này có nhiệm vụ phối hợp,
theo dõi, tham mưu, quyết định quy chế và các hướng dẫn thực tiễn.
Ở khu vực: có 9 đơn vị là các phòng là Văn phòng của Tòa án Công lý
của các Khu vực I - IX. Họ có nhiệm vụ hỗ trợ và thúc đẩy các công việc
hành chính và kỹ thuật tư pháp.
Có 265 Văn phòng hành chính của các Tòa án tỉnh và Văn phòng hành
chính khu vực của Tòa án Công lý. Các Văn phòng này có nhiệm vụ hỗ trợ
quá trình xét xử liên quan đến công việc hành chính, kỹ thuật tư pháp, trong
đó phối hợp với các cơ quan khác của Chính phủ.
1.4.2.4. Ở Hoa Kỳ
Tại Hoa Kỳ, tồn tại hai hệ thống Tòa án là Tòa án liên bang và Tòa án
bang. Mặc dù thẩm quyền của hai hệ thống Tòa án này là hoàn Toàn khác
nhau, nhưng mô hình tổ chức quản lý hành chính tư pháp lại có nhiều điểm
tương đồng. Thực chất, mô hình cơ quan quản lý hành chính Tòa án hiện tại
xuất phát từ những sáng kiến cài cách hành chính Tòa án trong hệ thống Tòa
20



×