Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHO TẬP HUẤN, BỒI DƯỠNG CHUYÊN MÔN, NGHIỆP VỤ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO SINH VIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 129 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHO TẬP HUẤN, BỒI
DƯỠNG CHUYÊN MÔN, NGHIỆP VỤ GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO SINH VIÊN
(Dành cho cán bộ quản lý, giảng viên cơ sở giáo dục đại học)

Hà Nội, tháng 7 năm 2019


TS. Phùng Khắc Bình (Chủ biên), TS. Nguyễn Nho Huy, TS. Nguyễn Ngọc Liên,
TS. Hoàng Thị Kim Huệ, PGS.TS Nguyễn Văn Biên, TS.Tưởng Duy Hải

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHO TẬP HUẤN, BỒI DƯỠNG CHUYÊN
MÔN,NGHIỆP VỤ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO SINH VIÊN
(dành cho cán bộ quản lý, giảng viên cơ sở giáo dục đại học)

Hà Nội, tháng 7 năm 2019
2


LỜI NÓI ĐẦU
Mục tiêu của giáo dục đại học là “Đào tạo người học có phẩm chất chính trị,
đạo đức; có kiến thức, kỹ năng thực hành nghề nghiệp,... ; có khả năng sáng tạo và
trách nhiệm nghề nghiệp, thích nghi với mơi trường làm việc; có ý thức phục vụ nhân
dân.” (Điều 5, Luật Giáo dục đại học năm 2012, 2018). Tuy nhiên, hiện nay “chất
lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học,
giáo dục nghề nghiệp ...” (Nghị quyết số 29/NQ-TW, ngày 04/11/2013 về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế).
Nguyên nhân khách quan của tình trạng trên là do mặt trái của kinh tế thị trường, hội


nhập quốc tế, sự phát triển của công nghệ thông tin, thực tiễn xã hội tác động. Một
trong những nguyên nhân chủ quan từ phía nhà trường là “chưa chú trọng đúng mức
việc giáo dục đạo đức, lối sống” (Nghị quyết số 29/NQ-TW, nêu trên).
Vấn đề giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho thanh niên, thiếu
niên, nhi đồng giai đoạn 2015 – 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Giáo
dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan và các địa phương tổ
chức thực hiện (Quyết định 1501/QĐ-TTg, ngày 28/8/2015). Đồng thời, cần phải “xây
dựng văn hóa ứng xử trong trường học nhằm tạo chuyển biến căn bản về ứng xử văn
hóa của cán bộ quản lý, nhà giáo, nhân viên, học sinh, sinh viên để phát triển năng lực,
hồn thiện nhân cách, lối sống văn hóa”(Quyết định số 1299/QĐ-TTg, ngày
03/10/2018 phê duyệt Đề án “Xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học giai đoạn
2018 - 2025”).
Để tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên trong trường
học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hướng dẫn đẩy mạnh xây dựng môi trường văn hóa
trong trường học (Cơng văn số 282/BGDĐT-CTHSSV ngày 25/01/2017); ban hành
quy định Quy tắc ứng xử trong cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, cơ
sở giáo dục thường xuyên (Thông tư số 06/2019/TT-BGDĐT, ngày 12/4/2019). Hàng
năm, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức các hội thảo, tập huấn về các nội dung giáo
dục đạo đức, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa học đường; hướng dẫn tuyên
truyền, giáo dục trên môi trường mạng và sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình, xã
hội trong thực hiện cơng tác này. Tuy nhiên, vấn đề tổ chức giáo dục đạo đức, lối sống,
xây dựng mơi trường văn hóa học đường trong cơ sở giáo dục đại học ở nhiều nơi còn
chưa được chú trọng và cụ thể hóa, cịn nhiều lúng túng.
Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên tập một số chuyên đề để dùng làm tài liệu
tham khảo cho tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, giảng viên về
công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên (gọi chung là sinh viên)
trong cơ sở giáo dục đại học, sư phạm.

3



Nhóm tác giả đã biên tập 06 chuyên đề (đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo thẩm
định, cho phép lưu hành), cụ thể như sau:
Các chuyên đề chính:
- Chuyên đề 1. Tổ chức giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên
- Chuyên đề 2. Tổ chức giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên
- Chuyên đề 3. Xây dựng mơi trường văn hóa trong cơ sở giáo dục đại học
Các chuyên đề bổ trợ:
- Chuyên đề 4. Thực trạng cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho học sinh,
sinh viên hiện nay
- Chuyên đề 5. Một số vấn đề tuyên truyền, giáo dục học sinh, sinh viên trên
môi trường mạng
- Chuyên đề 6. Tổng quan về phối hợp nhà trường, gia đình, xã hội trong giáo
dục đạo đức, lối sống cho sinh viên và một số kinh nghiệm thực tiễn tại Việt Nam
Nhóm tác giả biên tập đã cố gắng sưu tầm, cập nhật thông tin, biên tập theo
những vấn đề đang triển khai thực hiện, nhưng sẽ cịn những vấn đề đã trình bày trong
các chuyên đề trên cần được trao đổi, góp ý để hồn thiện tốt hơn.
Rất mong Q độc giả đóng góp ý kiến (nếu có) và gửi về Vụ Giáo dục Chính
trị và Cơng tác học sinh, sinh viên, Bộ Giáo dục và Đào tạo (35 Đại Cồ Việt, quận Hai
Bà Trưng, Hà Nội) để tiếp thu.
Trân trọng cám ơn sự quan tâm của Quý độc giả!
NHÓM TÁC GIẢ BIÊN TẬP

4


MỤC LỤC
- Lời nói đầu
- Chuyên đề 1. Tổ chức giáo dục chính trị tư tường cho sinh viên
- Chuyên đề 2. Tổ chức giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên

- Chuyên đề 3. Xây dựng môi trường văn hóa trong cơ sở giáo dục đại học
- Chuyên đề 4. Thực trạng cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho học
sinh, sinh viên hiện nay
- Chuyên đề 5. Một số vấn đề tuyên truyền, giáo dục học sinh, sinh viên
trên môi trường mạng
- Chuyên đề 6. Tổng quan về phối hợp nhà trường, gia đình, xã hội trong
giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên và một số kinh nghiệm thực tiễn tại
Việt Nam

5


CÁC CHỮ VIẾT TẮT
-

cán bộ, giảng viên
: CBGV
cha mẹ học sinh
: CMHS
cộng đồng
: CĐ
đại học
: ĐH
giáo dục đạo đức, lối sống
: GD ĐĐLS
giáo dục và đào tạo
: GDĐT
học sinh, sinh viên
: HSSV
mạng xã hội

: MXH
nhà trường, gia đình và xã hội: NT GĐ XH
trung học cơ sở
: THCS
trung học phổ thông
: THPT

6


CHUYÊN ĐỀ 1
TỔ CHỨC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG CHO SINH VIÊN

Mục tiêu của giáo dục đại học đã được khẳng định: “Đào tạo người học có
phẩm chất chính trị, đạo đức; có kiến thức, kỹ năng thực hành nghề nghiệp, năng lực
nghiên cứu và phát triển ứng dụng khoa học và cơng nghệ tương xứng với trình độ đào
tạo; có sức khỏe; có khả năng sáng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp, thích nghi với mơi
trường làm việc; có ý thức phục vụ Nhân dân” (Luật Giáo dục đại học, năm 2018).
Trong mục tiêu đó, phẩm chất chính trị được được xác định là yêu cầu đầu tiên, có vai
trị đặc biệt quan trong trong việc củng cố và phát triển nhân cách của người học ở mỗi
cơ sở giáo dục đại học (sau đây gọi là trường đại học). Khái niệm phẩm chất chính trị
có mối liên quan mật thiết với tư tưởng chính trị. Tư tưởng chính trị định hướng cho
phẩm chất chính trị của mỗi người. Do đó, để giáo dục phẩm chất chính trị, trước tiên,
cần phải xem xét tư tưởng chính trị là gì và làm thế nào để thực hiện được giáo dục
chính trị tư tưởng.
I. KHÁI NIỆM
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra (năm 1956): “Lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh
đạo tư tưởng, phải hiểu tư tưởng của mỗi cán bộ để giúp đỡ thiết thực trong cơng tác;
vì tư tưởng thơng suốt thì làm tốt, tư tưởng nhùng nhằng thì khơng làm được việc”.
Trong tài liệu này sẽ làm rõ khái niệm, nội dung, giải pháp của công tác giáo dục chính

trị tư tưởng cho học sinh, sinh viên (gọi chung là sinh viên) trong trường đại học. Để
hiểu rõ về tư tưởng chính trị, cần phải hiểu các khái niệm có liên quan như tư tưởng,
chính trị, mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế, hệ tư tưởng.
1. Tư tưởng
Tư tưởng là ý nghĩ, phản ánh của tư duy con người trước sự vật, hiện tượng
khách quan. Đó là quan điểm, cách nhìn và ý nghĩ chung của con người đối với các
vấn đề về tự nhiên, xã hội và với chính bản thân.
Ý nghĩ ban đầu, bột phát, thoáng qua trước hiện thực khách quan mới chỉ đem
lại cho người ta cảm giác, chưa trở thành quan điểm, tư tưởng định hình chắc chắn.
Cảm giác là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi
chúng tác động trực tiếp vào giác quan của con người. Mỗi người có cảm nhận khác
nhau trước cùng một sự vật, hiện tượng ở cùng địa điểm, thời gian với hồn cảnh
giống nhau. Ví dụ, trong câu chuyện “Thầy bói xem voi”, mỗi người có phán đốn
khác nhau do có cảm giác ban đầu khác nhau khi sờ vào các bộ phận khác nhau của
con voi. Mỗi người chỉ tiếp cận thông tin ở một số điểm cụ thể, chưa có thơng tin đầy
đủ nên chưa có sự phản ánh chính xác. Cuộc tranh luận giữa các thầy bói khơng ngã
ngũ, khơng xác định được đây là gì vì ai cũng có cái lý của mình. Các hiện tượng, sự
7


vật tác động vào giác quan là thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, vị giác con
người gây nên cảm giác các cung bậc khác nhau của buồn - vui, lo lắng - hi vọng, bực
tức - thoải mái, nuối tiếc - thỏa mãn, đau khổ - sung sướng, …
Cảm giác được thể hiện thơng qua tiếng nói, chữ viết, cử chỉ cơ thể hoặc kí hiệu
khác. Dần dần cảm giác đó được bổ sung, hồn thiện thơng qua các tác động tiếp theo
của hiện thực khác quan thành các mức độ khác nhau của nhận thức cảm tính là tri
giác, biểu tượng. Các phản ánh này bởi các giác quan của chủ thể nhận thức, phản ánh
bề ngoài, cái tất nhiên, ngẫu nhiên, có cái bản chất và không bản chất lẫn lộn. Tiếp
theo của nhận thức cảm tính là giai đoạn nhận thức lý tính, phản ánh những mối liên
hệ bản chất của sự vật, hiện tượng một cách khái qt. Từ đó hình thành tư tưởng một

cách tương đối đầy đủ hơn.
Công tác tư tưởng là sự tác động của chủ thể của hệ tư tưởng đến tất cả các
thành viên xã hội trong một phạm vi xác định, nhằm hình thành, phát triển và truyền
bá hệ tư tưởng, làm cho hệ tư tưởng đó chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã
hội, động viên, thúc đẩy mọi người tích cực hành động để xây dựng và bảo vệ sự thể
hiện của nó trong thực tiễn xã hội (theo PGS.TS Lương Khắc Hiếu, Cơ sở lý luận công
tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, 2017).
Tư tưởng có vai trị định hướng cho cơng việc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra:
“Tư tưởng khơng đúng đắn thì cơng tác ắt sai lầm”.
2. Chính trị
Theo từ điển Tiếng Việt, “chính” là quan trọng hơn cả so với những cái cùng
loại, “trị” hiểu theo nghĩa cai trị. Chính trị là những vấn đề về tổ chức và điều hành bộ
máy nhà nước hoặc những hoạt động của một giai cấp, một chính đảng nhằm giành
hoặc duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà nước. Chính trị được hiểu là những hiểu
biết hoặc những hoạt động để nâng cao hiểu biết về mục đích, đường lối, nhiệm vụ đấu
tranh của một giai cấp, một chính đảng nhằm giành hoặc duy trì quyền điều khiển bộ
máy nhà nước.
Chính trị là “tồn bộ những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giữa
các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội, mà cốt lõi của nó là vấn đề giành
chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công việc của
nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước”
(Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam). Như vậy, trong xã hội có giai cấp, chính trị là
quan niệm của mỗi đảng phái, giai cấp, tầng lớp xã hội về các vấn đề của nhà nước.
Mỗi đảng phái, giai cấp, tầng lớp xã hội có quan niệm khác nhau về tổ chức, hoạt
động, thực thi quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, trong mỗi quốc gia dân tộc thì các đảng
phái, giai cấp, tầng lớp xã hội đều phải tuân theo cách thức tổ chức hoạt động của
chính đảng cầm quyền. Đó là cách thức giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà
nước; là sự tham gia của nhân dân vào công việc của nhà nước và xã hội; là hoạt động
thực tiễn của giai cấp, đảng phái chính trị, nhà nước nhằm tìm kiếm khả năng thực
hiện đường lối, mục tiêu đã đề ra để thỏa mãn lợi ích bản thân.

8


Chính trị theo nghĩa rộng hơn là hoạt động của con người nhằm làm ra, gìn giữ,
điều chỉnh và thực thi những luật lệ chung cuộc sống, kể cả khi xã hội khơng có giai
cấp. Những luật lệ chung này được mọi người ủng hộ, chấp nhận và thực thi để vận
hành được các hoạt động của xã hội. Ví dụ như cần phải có những quy định về giao
thơng, quy định về đảm bảo anh ninh, trật tự xã hội, quy định về đảm bảo môi trường
tự nhiên,... Trong tài liệu này, chính trị được đề cập đến là trong xã hội có giai cấp.
Trong mỗi nhà nước, chính trị là những vấn đề về tổ chức và điều hành bộ máy
nhà nước của một chính đảng, giai cấp đang cầm quyền. Thơng thường, chính đảng
cầm quyền phải chiếm đa số sự ủng hộ của nhân dân thông qua bầu cử và đưa ra tư
tưởng của chính đảng để lãnh đạo nhà nước. Mỗi giai cấp có thể có một chính đảng
duy nhất hoặc có nhiều đảng phái cùng đấu tranh cho lợi ích của giai cấp mình.
Chính đảng là tổ chức chính trị đại diện cho một giai cấp, một tầng lớp hoặc
một tập đoàn xã hội, đấu tranh cho quyền lợi của giai cấp, tầng lớp, tập đồn xã hội đó.
Trong xã hội có giai cấp, ở mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một giai cấp đại diện.
Trong chế độ tư bản, giai cấp tư sản giữ quyền quản lý, điều hành thông qua việc đảng
của giai cấp này cử đại diện của mình giữ cương vị cao nhất trong tổ chức quyền lực
nhà nước. Ở mỗi quốc gia khác nhau trong chế độ tư bản, người có thực quyền điều
hành đất nước cao nhất có thể là Tổng thống hoặc Thủ tướng, tùy theo hình thức tổ
chức bộ máy nhà nước của nước đó. Trong các nước đang đi theo con đường xây dựng
xã hội chủ nghĩa, đảng duy nhất lãnh đạo đất nước là Đảng Cộng sản, với các tên gọi
cụ thể có thể khác nhau ở mỗi nước.
Chính trị có mục tiêu là vì lợi ích, thể hiện qua mối quan hệ lợi ích trong xã hội.
Mỗi tổ chức, đảng phái chính trị, giai cấp đều đấu tranh vì mục tiêu, lợi ích của bản
thân, do đó suy cho cùng là vì lợi ích giai cấp. Tất cả các tổ chức, đảng phái chính trị
đều tồn tại trong một quốc gia, dân tộc cụ thể. Điều căn bản nhất của chính trị là việc
tổ chức quyền lực nhà nước. Việc tổ chức nhà nước phải thể hiện thể hiện mối quan hệ
lợi ích hài hịa của của các tổ chức, đảng phái chính trị, giai cấp để cùng nhau xây

dựng và phát triển. Mối quan hệ lợi ích được thực hiện thông qua sự tham gia vào
công việc nhà nước của mỗi tổ chức. Ở mỗi quốc gia, dân tộc trong mỗi giai đoạn lịch
sử nhất định, việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước đều theo định hướng của giai
cấp cầm quyền. Giai cấp cầm quyền định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội
dung, nhiệm vụ của nhà nước dựa trên mục tiêu của bản thân và sự cân đối hài hịa lợi
ích với các giai cấp, tổ chức khác.
Ở Việt Nam hiện nay, Đảng và Nhà nước ta xác định: “Đảng Cộng sản Việt
Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng gắn
bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách
nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng
9


viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. (Nguồn: Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2013).
Chính trị và kinh tế
Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết
định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị
thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội.
Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh
vực tư tưởng chính trị. Cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện
những đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng
như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo, v.v. đều trực tiếp hay gián tiếp phụ
thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, kinh tế là gốc, là thước đo tính
hợp lý của chính trị. Tương ứng với mức độ phát triển kinh tế, sẽ có mức độ tương ứng
nhất định về chính trị. Chính trị thể hiện ý chí, nguyện vọng của giai cấp lãnh đạo đất

nước được thể hiện qua sự phát triển, mức độ đạt được của kinh tế. Sự phát triển của
kinh tế là nguồn gốc sâu xa đảm bảo cho sự định hướng đúng đắn của đường lối chính
trị. Suy cho cùng, kinh tế là gốc, quyết định chính trị; chính trị chỉ là biểu hiện tập
trung của kinh tế. Cơ sở kinh tế - xã hội có vai trị quyết định đối với thượng tầng kiến
trúc, trong đó có chính trị.
Tuy nhiên, "Chính trị khơng thể không giữ địa vị hàng đầu so với kinh tế" và có
tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm kinh tế. Nếu định hướng chính trị đúng, sẽ tạo cơ chế,
điều kiện cho các cơ sở kinh tế phát triển tốt, đưa nền kinh tế tăng trưởng mạnh và bền
vững. Ngược lại, nếu định hướng sai, nền kinh tế sẽ khó phát triển, thậm chí đi xuống,
lâm vào khủng hoảng kinh tế, xã hội. Như vậy, "Chính trị là biểu hiện tập trung của
kinh tế. Chính trị khơng thể khơng chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế" (V.I. Lê-nin )
Giai cấp giữ địa vị thống trị đất nước giữ vị trí định hướng, điều hành đất nước
trước tiên là về kinh tế. Sự phát triển kinh tế là thước đo kết quả lãnh đạo, điều hành
đất nước và sẽ quyết định mức độ, năng lực cầm quyến và sự phát triển bền vững của
đảng chính trị đương thời. Do đó chính trị và kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
3. Tư tưởng chính trị
3.1. Tư tưởng chính trị
Tư tưởng chính trị là một hình thái của ý thức xã hội, thuộc thượng tầng kiến
trúc, được hình thành và phát triển trong lịch sử xã hội loài người kể từ khi xuất hiện
giai cấp và nhà nước. Đó là hệ thống những quan niệm, quan điểm phản ánh các mối
quan hệ chính trị đặc biệt giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia dân tộc xoay
quanh vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước diễn ra trong lịch sử, cũng như
thái độ của các giai cấp, các dân tộc đối với quyền lực chính trị mà tập trung ở quyền
lực nhà nước trong các thời đại lịch sử.
10


Tư tưởng chính trị là một khái niệm ghép, thể hiện tư tưởng về quyền lực nhà
nước. Tư tưởng chính trị là quan điểm của một giai cấp trong việc giành, xây dựng,
thực thi và bảo vệ quyền lực nhà nước. Tư tưởng chính trị khơng chỉ là sự phản ánh

hiện thực khách quan thành quan điểm của tư tưởng chính trị của giai cấp, mà cịn là
định hướng cho sự phát triển kinh tế- xã hội hiện tại. Người ta thường dùng thuật ngữ
“tư tưởng chính trị” trong các cụm từ như: Tình hình tư tưởng chính trị, suy thối tư
tưởng chính trị, tư tưởng chính chính trị vững vàng, khái niệm tư tưởng chính trị, đánh
giá tư tưởng chính trị, ... Tuy nhiên thuật ngữ “chính trị tư tưởng” lại được sử dụng
trong các cụm từ như: Giáo dục chính trị tư tưởng ,cơng tác giáo dục chính trị tư
tưởng, cơng tác chính trị tư tưởng, ... để đề cập đến nội dung, khía cạnh, phạm vi, vấn
đề chính trị trong tư tưởng (tư tưởng cịn bao gồm nhiều khía cạnh khác nữa).
Những tư tưởng chính trị khác nhau có tác động tới đời sống chính trị hiện thực
theo những khuynh hướng khác nhau. Tư tưởng chính trị có thể đóng vai trị tích cực,
cách mạng hay tiêu cực, phản động trong sự phát triển xã hội tùy thuộc vào việc nó
phản ánh lợi ích của giai cấp nào trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Tư
tưởng chính trị phản ánh đúng đắn thực tiễn, định hướng đúng sẽ thúc đẩy phát triển
xã hội. Đồng thời, qua quá trình phát triển xã hội, tư tưởng chính trị sẽ được củng cố,
phát triển hơn về lý luận, nhận thức. Ngược lại, tư tưởng chính trị khơng đúng hoặc
xuyên tạc thực tiễn xã hội sẽ tạo ra sự kìm hãm đối với sự phát triển xã hội. Trong thực
tiễn đời sống hàng ngày người ta thường nói “tư tưởng khơng thơng thì đeo bi đơng
cũng khơng nổi” để thấy rằng khi vướng mắc về tư tưởng thì làm việc gì cũng khó.
Ngược lại, khi có tư tưởng chính trị đúng đắn thì có thể sẵn sàng xả thân vì mục
tiêu, lý tưởng của mình. Nhiều tấm gương của các anh hùng liệt sĩ xả thân cứu nước
như Phan Đình Giót, Trừ Văn Thố đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai xả, Bế Văn Đàn
lấy thân làm giá súng, Tơ Vĩnh Diện lấy thân mình, chèn lưng cứu pháo, Ngô Mây ôm
bom ba càng tiêu diệt xe cơ giới của giặc, La Văn Cầu, Bùi Ngọc Dương đã chặt đứt
cánh tay bị thương để tiếp tục xông lên tiêu diệt quân giặc, ... Một minh chứng cho
điều đó là quân và dân ta đã biến “pháo đài không thể công phá” Điện Biên Phủ (theo
đánh giá của Bộ chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương, 1954) thành “chiến thắng Điện
Biên lừng lẫy địa cầu”, đã biến điều khơng thể thành có thể.

11



Cứ điểm cuối cùng trên Đồi A1,Điện Biên Phủ đã bị tiêu diệt bởi khối bộc phá (960kg), Ảnh: Sưu tầm

3.2. Hệ tư tưởng
Hệ tư tưởng là hệ thống quan điểm về các quan hệ của con người với tự nhiên,
giữa các con người với nhau và với chính bản thân mỗi con người theo tư tưởng của
một giai cấp, tập đồn người nhất định. Hệ tư tưởng mang tính giai cấp, phản ánh vai
trò của một giai cấp cụ thể trong xã hội và nguồn gốc lợi ích của chúng.
Từ các hoạt động thực tiễn của một giai cấp nhất định, xuất hiện các trạng thái
tâm lý xã hội. Ví dụ, ở nhiều nơi, người cơng nhân làm việc rất vất vả, cực khổ trong
các cơng trường, xí nghiệp, nhà máy của nhà tư bản, nhưng tiền công, đãi ngộ cho họ
là khơng tương xứng và gây bất bình trong rất nhiều người. Các nhà tư tưởng đã tổng
kết, khái quát từ hoạt động thực tiễn của giai cấp công nhân để rút ra những kết luận
và đúc rút thành tư tưởng phản ánh của giai cấp công nhân. Đó chính là hệ tư tưởng
của giai cấp cơng nhân. Các Mác là người đầu tiên khái quát và đưa ra hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (năm 1848). Như
vậy một giai cấp khơng tự nhiên có được hệ tư tưởng mà hệ tư tưởng được khái quát,
củng cố và phát triển từ hoạt động của giai cấp đó bởi các nhà tư tưởng.
Ở nước ta, Hồ Chí Minh là người khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hịa
đã thơng qua việc lãnh đạo nhân dân giành chính quyền từ thực dân Pháp, tuyên bố
thành lập nhà nước mới tại bản Tuyên ngôn độc lập vào ngày mùng 2 tháng 9 năm
1945. Người đã chỉ ra và lãnh đạo nhân dân đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. Đảng
ta xác định: Chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4. Giáo dục chính trị tư tưởng
4.1. Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng
Giáo dục là hình thức học tập theo đó kiến thức, kỹ năng, thói quen của một
nhóm người được trao từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo hay
12



nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác hay thông qua
tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể đến cách mà người ta suy nghĩ,
cảm nhận hay hành động đều có thể được xem là hoạt động giáo dục. (Nguồn: Bách
khoa tồn thư mở Wikipedia).
Mỗi người có ý nghĩ riêng, mang dấu ấn cá nhân về mỗi vấn đề của thực tiễn xã
hội và cần phải tôn trọng sự khác biệt đó. Tuy nhiên, nếu ý nghĩ phù hợp với sự phát
triển của xã hội thì sẽ giúp cho hành động của con người có kết quả tốt đẹp, đem lại lợi
ích cho bản thân và cả xã hội. Nhà trường cung cấp khơng chỉ kiến thức chun mơn
mà cịn hướng dẫn cả phương pháp tư duy, cách tiếp cận đúng hướng ở các khối kiến
thức và hoạt động giáo dục và đào tạo thông qua các môn học, hoạt động, nhất là các
vấn đề có tính phương pháp luận của các mơn lý luận chính trị. Điều cơ bản cần giáo
dục trong lĩnh vực tư tưởng là vấn đề định hướng chính trị cho sinh viên. Nói giáo dục
tư tưởng là bao hàm ý giáo dục lĩnh vực, góc độ chính trị của tư tưởng. Tư tưởng là
sản phẩm riêng có của mỗi người, nó bao gồm các mặt, khía cạnh, góc độ khác nhau
tùy theo cách phân loại trong mỗi cơng việc cụ thể. Tư tưởng chính trị chỉ là một mặt
của tư tưởng và nói giáo dục tư tưởng chính là giáo dục mặt chính trị của tư tưởng (gọi
là chính trị tư tưởng) của sinh viên để họ thấm nhuần, đồng điệu trong suy nghĩ và
hành động với tư tưởng của giai cấp lãnh đạo nhà nước, xã hội.
Chủ tịch Hồ chí Minh đã chỉ ra vị trí, vai trị của cơng tác giáo dục tư tường
chính trị là: Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu
nâng cao chất lượng văn hóa và chun mơn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do
cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa
học và kỹ thuật (Thư Bác gửi ngành Giáo dục, ngày 15/10/1968).
Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng (hay cịn gọi là cơng tác giáo dục chính trị
- tư tưởng) ở Việt Nam là các hoạt động giáo dục, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp
cơng nhân đến với quần chúng nhân dân. Đó là giáo dục, truyền bá chủ nghĩa Mác –
Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân (Theo Vũ Ngọc Am:
Đổi mới cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên cơ sở, Nxb Chính

trị quốc gia, H.2003).
Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên là công việc của nhà trường
để hướng dẫn, truyền bá cho người học về quan điểm của Đảng trong việc giành, xây
dựng, thực thi và bảo vệ quyền lực nhà nước thông qua giảng dạy, đào tạo hay tự
nghiên cứu. Để thực hiện công việc này, nhà trường căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ
của mình và theo sự chỉ đạo chuyên môn, nghiệp vụ về giáo dục chính trị tư tưởng cho
sinh viên của Bộ Giáo dục và Đào tạo, sự quản lý của đơn vị chủ quản, kết hợp với
Đoàn Thanh niên và địa phương nơi trường đóng để xây dựng kế hoạch và tổ chức
thực hiện hàng năm và tồn khóa học.
Mục tiêu cơ bản của cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên là:

13


Một là, nâng cao nhận thức để hình thành và phát triển thế giới quan cách
mạng, nhân sinh quan đúng đắn thông qua học tập, nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng.
Hai là, hiểu biết và tự giác thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế, quy định của nhà trường.
Ba là, hiểu biết và phát huy tinh thần yêu nước, giá trị, bản sắc văn hóa, truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại; bồi dưỡng tình cảm đúng đắn
đối với quê hương đất nước, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Bốn là, nhận biết được các quan điểm, hoạt động của các thế lực phản động, thù
địch và có ý thức đấu tranh chống các tư tưởng phản động, xuyên tạc quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, truyền thống tốt đẹp của dân
tộc.
Năm là, xác định lý tưởng cách mạng, xây dựng đạo đức, lối sống văn hóa cho
bản thân để định hướng phát triển nghề nghiệp và hoàn thiện dần nhân cách cá nhân,
góp phần xây dựng mơi trường văn hóa học đường, văn hóa doanh nghiệp và văn hóa
tại gia đình, cộng đồng.

Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên nhằm nâng cao nhận thức,
định hướng phát triển năng lực và phẩm chất của công dân - sinh viên, có vị trí quan
trọng trong giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ. Làm tốt cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng
để làm tiền đề cho việc học tập chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức, lối sống, kỹ năng
sống, kỹ năng nghề nghiệp.
4.2. Quan điểm của Đảng về đổi mới giáo dục và đào tạo
Quan điểm của Đảng về giáo dục là: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư
phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội. Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài.Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội
và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan.

Quan điểm này đã được thể hiện trong Luật Giáo dục đại học (năm 2018): “Phát
triển giáo dục đại học để đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước.”
Quan điểm của Đảng về đổi mới giáo dục và đào tạo
Quan điểm đổi mới đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo được thể
hiện ở các nội dung sau đây.
Một là, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sựnghiệp của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước
trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

14


Hai là, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề
lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương
pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục-đào tạo

và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất
cả các bậc học, ngành học.
Ba là, phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn
với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Bốn là, phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã
hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách
quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng
chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.
Năm là, đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thơng giữa
các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại
hóa giáo dục và đào tạo.
Sáu là, chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo.
Bảy là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo,
đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất
nước.(Nguồn: Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương
lần thứ 8, Khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế).
II. NỘI DUNG GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG
1. Giáo dục về chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1. Giáo dục về chủ nghĩa Mác - Lê nin
Chủ nghĩa Mác – Lê nin
Chủ nghĩa Mác - Lê nin gồm ba bộ phận cấu thành là triết học Mác - Lê nin,
kinh tế học chính trị Mác – Lê nin và chủ nghĩa xã hội khoa học. Chủ nghĩa Mác - Lê
nin được xác định là “hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học do C.Mác,
Ph.Ăngghen sáng lập và sự phát triển của V.I.Lênin, được hình thành và phát triển trên
cơ sở kế thừa những giá trị tư tưởng nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại; là thế giới

quan, phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là
khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vơ sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi
chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người”. (Nguồn: Giáo trình Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin của Bộ GD&ĐT, Nxb CTQG, HN,
2013).
15


Hiện nay ở các trường đại học, nội dung giáo dục về chủ nghĩa Mác - Lê nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh chủ yếu được thực hiện thơng qua các môn học: Những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vai trò của các môn học về chủ nghĩa Mác - Lê nin
Môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin bao gồm những
nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về: Thế giới quan và phương pháp
luận;phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; chủ nghĩa xã hội và khái quát chủ
nghĩa xã hội hiện thực, triển vọng. Môn học này sẽ giúp sinh viên hình thành và
ngày càng hồn thiện về thế giới quan và phương pháp luận để giải quyết các vấn đề
của thực tiễn.
Thế giới quan là quan niệm, cách nhìn nhận, quan điểm của con người về các
sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội. Thế giới quan được hình thành từ tri thức của
nhân loại thơng qua các tài liệu, tư liệu dưới nhiều hình thức và từ thực tiễn cuộc sống,
trong đó những tư tưởng triết học có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc hình thành
và hoàn thiện dần thế giới quan của con người. Thế giới quan sẽ định hướng nhận
thức cơ bản của một cá nhân hay xã hội.
Thế giới quan chỉ dẫn cách thức tư duy và hành động của con người. Với mỗi
tình huống, vấn đề cụ thể của thực tiễn, mỗi người có cách tiếp cận, nhìn nhận, phân
tích, đánh giá và đưa hành động xử lý khác nhau nếu có quan điểm khác nhau. Mỗi
quan điểm cá nhân đều có tính triết lý ở mức độ nhất định. Nếu được học tập, nghiên
cứu triết học một cách cơ bản thì người ta sẽ dễ dàng hơn trong việc cập nhật, bổ sung,

hoàn thiện dần vốn kiến thức triết học và vận dụng nó vào giải quyết các vấn đề của
cuộc sống tốt hơn, xử lý nhanh và đúng đắn hơn là tự tìm tịi từ thực tiễn.
Năng lực nhìn nhận sẽ ảnh hưởng đến cách nhìn nhận (nhân sinh quan) của mỗi
con người. Nhân sinh quan là cách nhìn nhận, quan niệm của con người về cách sống
và thế giới xung quanh. Cả thế giới quan và nhân sinh quan đều là cách nhìn nhận,
quan điểm của con người về thế giới và cuộc sống. Tuy nhiên, thế giới quan thiên về
đánh giá, nhận định về các vấn đề xã hội, chính trị nói chung. Trong khi đó, nhân sinh
quan lại thiên về các vấn đề đạo đức, lối sống, tình cảm, ... của con người.
Phương pháp luận được vận dụng vào thực hành ngay trong quá trình học tập,
rèn luyện tại nhà trường của sinh viên. Cách học tập ở đại học khác ở phổ thông là đề
cao vai trò tự học, giảng viên chỉ hướng dẫn những kiến thức cơ bản, sinh viên cần mở
rộng, liên hệ, kết nối với các nội dung khác thông qua tự tìm kiếm thơng tin trong tài
liệu ở thư viện, trên mạng, thực tiễn. Do đó, sinh cần phải có phương pháp học tập phù
hợp đối với các khối kiến thức cơ bản, cơ sở, chuyên ngành, thậm chí đối với từng
môn học, thực tập, hoạt động giáo dục và đào tạo của nhà trường. Đồng thời sinh viên
cần phải chủ động liên hệ, kết nối kiến thức đang học với các phần kiến thức khác, với
thực tiễn xã hội nói chung và với ngành nghề đào tạo nói riêng. Do đó, sinh viên cần
16


có sự chủ động, tích cực và tư duy độc lập cao với sự hướng dẫn của giảng viên để có
kế hoạch học tập từng mơn và tồn khóa cho phù hợp, hiệu quả.
1.2.Giáo dục về Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đảng ta đã xác định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn
diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người” (Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX của Đảng). Đó
là tư tưởng về các vấn đề: Dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; Chủ nghĩa xã hội
và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; Đảng Cộng sản Việt Nam; Đại

đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế; Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân;
Văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới. (Nguồn: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí
Minh, Bộ Giáo dục và Đào tạo)
Khái niệm "Tư tưởng" trong thuật ngữ “Tư tưởng Hồ Chí Minh” khơng cịn là
với nghĩa là tư tưởng của một cá nhân, mà là hệ thống các nhận định, quan niệm, luận
điểm, quan điểm tổng kết, khái quát thể hiện ý chí, nguyện vọng của giai cấp công
nhân và nhân dân Việt Nam. Tư tưởng này được hình thành và phản ánh thực tiễn đấu
tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước ta. Đồng thời tư tưởng này chỉ đạo thực
tiễn, làm cho cách mạng phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa
Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động. Dựa trên nền tảng tư tưởng của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Đảng ta xác định tư tưởng về quyền lực nhà nước là: Nhà nước ta là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước phục
vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân
dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ
chế và biện pháp kiểm sốt, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
vơ trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ
cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân
dân.(Nguồn: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Bổ sung, phát triển năm 2011 tại Đại hội lần thứ XI của Đảng)
1.3. Giáo dục về đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Mơn học này giúp cho sinh viên có được hiểu biết cơ bản về đường lối của
Đảng trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và trong xây dựng chủ nghĩa xã hội,
bao gồm: Sự ra đời của Đảng, đường lối đấu tranh giành chính quyền, kháng chiến cứu
nước, cơng nghiệp hóa, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng nền văn hóa và giải quyết các vấn đề xã hội, đối
ngoại.

17


Cả ba môn học học nêu trên đều giúp cho sinh viên tiếp thu và nâng cao các
kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng vào
việc học tập, rèn luyện ở trường và vận dụng vào mỗi ngành nghề đào tạo cũng như
trong công việc, cuộc sống của mỗi người.
Tùy theo mục đích, yêu cầu trong mỗi ngành nghề của mỗi nhà trường có thể
đưa vào chương trình đào tạo một số vấn đề như: Đạo đức, Văn hóa, Lối sống, Kỹ
năng sống, Kỹ năng nghề nghiệp, ... dưới các tên gọi cụ thể khác nhau. Thông qua học
tập và nghiên cứu các vấn đề này và các nội dung khác trong chương trình đào tạo sẽ
giúp sinh viên hình thành, nâng cao dần tư tưởng chính trị đúng đắn và vận dụng vào
thực tiễn và ngày càng trưởng thành trong sự nghiệp, cuộc sống.
2. Giáo dục về đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước
Nội dung của giáo dục trong lĩnh vực này bao gồm: Đường lối, chủ trương của
Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là các nội dung có liên quan về
giáo dục và đào tạo, ngành nghề được đào tạo và các quy định của nhà trường.
2.1. Đường lối và chủ trương của Đảng
Đường lối của Đảng là hệ thống quan điểm về mục tiêu, phương hướng, nhiệm
vụ và giải pháp của cách mạng Việt Nam. Đường lối xác định phương hướng cơ bản
để chỉ đạo lâu dài các hoạt động của Đảng được thể hiện qua cương lĩnh, nghị quyết,
chỉ thị,...
Đường lối của Đảng về giáo dục và đào tạo trong giai đoạn hiện nay là: “Giáo
dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài,... Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển” (Nguồn: Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bổ sung, phát triển
năm 2011 tại Đại hội lần thứ XI của Đảng).
Chủ trương của Đảng là ý định, quyết định về phương hướng hành động chung

trong một giai đoạn, công việc lớn của đất nước. Ví dụ, chủ trương đổi mới giáo dục
và đào tạo; chủ trương xóa đói giảm nghèo; chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước; ... Như vậy, nội hàm của đường lối là các vấn đề cơ bản, lâu dài hơn. Chủ trương
là các vấn đề tương đối cụ thể hơn về nội dung, thời gian thực hiện. Trong quá trình
đổi mới, Đảng ta chỉ đạo theo chủ trương: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu
từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi
đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động” (Nguồn: Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bổ sung, phát triển
năm 2011 tại Đại hội lần thứ XI của Đảng).
2.2. Chính sách, pháp luật của Nhà nước
18


Chính sách là hệ thống ngun tắc có chủ ý để hướng dẫn thực hiện các quyết
định và hướng tới các kết quả hợp lý của chính phủ, tổ chức, nhóm người, cá nhân. Ví
dụ: Chính sách thương binh liệt sĩ và người có cơng; chính sách tín dụng đối với học
sinh, sinh viên; chính sách tín dụng của Ngân hàng Nhà nước; chính sách kinh doanh
của một tập đồn, doanh nghiệp hoặc cá nhân; ...
Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự bắt buộc chung để làm căn cứ điều chỉnh
các mối quan hệ xã hội do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và tổ chức thực hiện, thể
hiện ý chí, lợi ích của giai cấp cầm quyền. Ví dụ, sống và làm việc theo pháp luật.
Pháp luật được hiểu ở đây là tổng thể các quy phạm pháp luật nói chung. Pháp luật thể
hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, song nó là hệ thống quy định chung mang tính bắt
buộc đối với tất cả mọi người của các giai cấp, tầng lớp, nhóm người, cộng đồng người
khác nhau của xã hội. Pháp luật được nhà nước ban hành và bảo vệ.
Luật pháp là quy tắc xử sự bắt buộc chung của nhà nước đối với mọi người
trong một phạm vi, lĩnh vực, giới hạn cụ thể, một luật hoặc Bộ luật cụ thể. Ví dụ, mọi
công dân đều phải tuân thủ theo luật pháp về trật tự, an toàn xã hội. Luật pháp ở đây
được hiểu là phạm vi đề cập đến chỉ trong lĩnh vực trật tự, an toàn xã hội. Như vậy

pháp luật là là nói đến cả hệ thống quy tắc xử sự của cơng dân do nhà nước quy định,
cịn luật pháp là đề cập đến các luật cụ thể của nhà nước.
Chính sách khác với các quy tắc hoặc luật pháp. Luật pháp có thể buộc hoặc
cấm hành vi đối với các đối tượng cụ thể. Ví dụ: Trong Luật Giáo dục (sửa đổi năm
2009) quy định các hành vi nhà giáo không được làm: Xúc phạm danh dự, nhân phẩm,
xâm phạm thân thể của người học; Gian lận trong tuyển sinh, thi cử, cố ý đánh giá sai
kết quả học tập, rèn luyện của người học; Xuyên tạc nội dung giáo dục; Ép buộc học
sinh học thêm để thu tiền. Trong khi đó, chính sách khơng u cầu có tính bắt buộc cụ
thể, chỉ là hướng dẫn hành động đối với những hành vi có nhiều khả năng đạt được kết
quả mong muốn nhất. (Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia). Ví dụ: Chính sách
thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ được
quy định tại Nghị định số 140/NĐ-CP của Chính phủ, có hiệu lực thi hành từ ngày 20
tháng 01 năm 2019.
Vai trị của chính sách, pháp luật
Chính sách, pháp luật là cơng cụ quản lý chủ yếu của nhà nước, bảo đảm cho sự
tồn tại, vận hành của xã hội; góp phần xây dựng trật tự, kỷ cương, bảo vệ và phát huy
các giá trị của chế độ xã hội. Chính sách, pháp luật gắn liền với sự tồn tại và phát triển
của nhà nước pháp quyền nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo quy tắc chung
nhất. Mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh tuân theo chính sách, pháp luật của nhà
nước để thực hiện cơng việc và sinh sống hàng ngày. Chính sách, pháp luật của mỗi
quốc gia đều thể hiện quyền lợi của giai cấp cầm quyền. Nếu giai cấp tiên tiến của thời
đại cầm quyền thì chính sách, pháp luật tạo điều kiện cho sự phát triển của xã hội.
Chính sách, pháp luật của Việt Nam là phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động nói chung. Nước ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng
19


đất nước trên cơ sở nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa nên việc xây
dựng ý thức tự giác tuân thủ chính sách, pháp luật càng có ý nghĩa quan trong trong
nâng cao nhận thức của cơng dân nói chung và trong giáo dục của thế hệ trẻ nói riêng.

Tùy theo ngành nghề đào tạo, trong chương trình đào tạo sẽ đưa nội dung giáo
dục phát luật vào các môn học pháp luật đại cương (môn cơ bản chung cho tất cả các
ngành nghề đào tạo) và pháp luật có liên quan trực tiếp đến chuyên ngành (môn cơ sở
đối với một số ngành nghề đào tạo có liên quan), hoặc các luật cụ thể (mơn chuyên
ngành đối với các chuyên ngành đào tạo của ngành luật). Các vấn đề cơ bản của pháp
luật sẽ được đề cập đến ở mức độ khác nhau tùy theo ngành đào tạo như: Nguồn gốc ra
đời, bản chất, vai trò, các kiểu của nhà nước và pháp luật. Sinh viên sẽ được giới thiệu
về hệ thống chính trị, bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp chế xã hội
chủ nghĩa và trách nhiệm pháp lý của người dân.
2.3. Quy định của nhà trường
Quy định của nhà trường bao gồm thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan đến cơng tác giáo dục, đào tạo của nhà trường và các văn bản do trường đại
học ban hành theo thẩm quyền.
Ví dụ, thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật như: Quy chế Công tác học
sinh, sinh viên của Bộ GDĐT (Thông tư số 10/2016/TT-BGDĐT, ngày 5/4/2016);
Thông tư liên tịch Bộ Giáo dục và Đào tạo - Bộ Tài chính - Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội số 09/2016/BGDDT-BTC-BLDTBXH, ngày 30/3/2016 về việc Hướng dẫn
thực hiện một số điều của Nghị định 86/2015/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ngày
02/10/2015 Quy định về cơ chế thu, quản lý học phí, đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ
thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ
năm học 2015 - 2016 đến năm học 2020 – 2021; Nghị định 86/2015/NĐ-CP của Thủ
tướng Chính phủ ngày 02/10/2015 Quy định về cơ chế thu, quản lý học phí, đối với cơ
sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ
chi phí học tập từ năm học 2015 - 2016 đến năm học 2020 – 2021...
Ví dụ về các văn bản quy định của trường ban hành dựa trên căn cứ các hướng
dẫn của các đơn vị quản lý nhà nước trong các lĩnh vực có liên quan đến giáo dục, đào
tạo; của đơn vị chủ quản và điều kiện thực tiễn nhà trường như: Quy định về Công tác
học sinh, sinh viên; Quy định về mức học phí cụ thể của các ngành đào tạo, trình độ
đào tạo, loại hình đào tạo; Quy định về học bổng khuyến khích học tập; Quy định về
đào tạo đại học, sau đại học; Nội quy nhà trường; Nội quy Khu nội trú; ... Các hướng

dẫn, thông báo, quy định về thực hiện các cuộc vận động, phong trào, các hoạt động
văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, hoạt động xã hội, câu lạc bộ sinh viên; ...
3. Giáo dục tinh thần yêu nước, lý tưởng cách mạng, ý thức tham gia các
hoạt động chính trị, xã hội
3.1. Giáo dục tinh thần u nước
Trong Chương trình giáo dục phổ thơng mới sẽ hình thành và phát triển cho học
sinh 5 phẩm chất chủ yếu là: Yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm.
20


Yêu nước là tình cảm của con người đối với quê hương, đất nước, bao gồm thiên
nhiên, con người với ngơn ngữ, văn hóa, lịch sử và truyền thống tốt đẹp của xứ sở, dân
tộc. Tinh thần yêu nước được thể hiện qua tình cảm, thái độ, cách ứng xử của con
người trong các hoạt động để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dạy thế hệ trẻ là phải: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào” (Điều đầu tiên trong 5 điều Bác
Hồ dạy). Các phẩm chất này sẽ được tiếp tục phát triển, hoàn thiện dần ở bậc đại học.
Người có tinh thần yêu nước ln có có thái độ, hành vi tích cực trong khi tham
gia các vấn đề của quá trình phát triển đất nước. Dân tộc Việt Nam có tinh thần yêu
nước từ khi dựng nước và được vun đắp, phát triển trong suốt quá trình gìn giữ và xây
dựng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy các chiến sĩ, cũng như đối với thế hệ trẻ tại
Đền Hùng (Phú Thọ): Các vua Hùng đã có cơng dựng nước, bác cháu ta phải cùng
nhau giữ lấy nước”.

Bác Hồ nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 308 tại Đền Hùng, ngày 19/9/1954.
(Ảnh sưu tầm)

Yêu nước là tình cảm thiêng liêng, được thể hiện qua sự dũng cảm, xả thân cứu
nước của các thế hệ, quyết tâm góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển,
phồn vinh. Tinh thần yêu nước là cội nguồn của sự đoàn kết, gắn bó của mọi người
dân trong q trình giữ nước và xây dựng, phát triển, nhất là khi Tổ quốc lâm nguy cần

mọi người chung tay xả thân vì nước. Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc để hướng tới thực
hiện được lý tưởng cách mạng Việt Nam.
3.2. Giáo dục lý tưởng cách mạng
Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thì nhiệm vụ chủ yếu là
giành chính quyền, độc lập dân tộc để hướng tới mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu để tập hợp quần chúng, chống lại và lật
đổ chế độ áp bức của thực dân phong kiến trong cách mạng Tháng Tám (năm 1945).
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhiệm vụ chủ yếu là đưa miền Bắc xây dựng
21


theo con đường xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Khi nước ta đã được thống nhất, non sông thu về một mối, nhiệm vụ
chủ yếu là xây dựng đất nước tiến theo con đường xã hội chủ nghĩa, đồng thời bảo vệ
sự toàn vẹn và thống nhất của Tổ quốc. Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đổi mới, dựa
trên nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa để phát triển đất nước. Đồng
thời đấu tranh với các âm mưu, hành động của các thế lực đang muốn phá hoại sự toàn
vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc của Việt Nam.
Như vậy, trong bất kỳ thời kỳ nào của cách mạng Việt Nam, hai nhiệm vụ
giành, giữ độc lập dân tộc và xây dựng đất nước tiến theo con đường xã hội chủ nghĩa
đều gắn liền với nhau, làm tiền đề, hỗ trợ cho nhau cùng phát triển.Lý tưởng cách
mạng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó vừa là mục tiêu, vừa là
nguyên tắc trong giành, giữ và xây dựng, phát triển đất nước trong tất cả các giai đoạn
của cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân, sự lựa chọn đúng đắn của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển lịch sử. Đó là xã hội:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ. Để thực
hiện được lý tưởng đó thì độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập
dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ
sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ

quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau
(Nguồn: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bổ
sung, phát triển năm 2011 tại Đại hội lần thứ XI của Đảng).
Giáo dục lý tưởng cách mạng cho sinh viên là tổ chức học tập, rèn luyện và hỗ
trợ sinh viên trong việc nhận thức được lý tưởng cách mạng, xây dựng và nâng cao
bản lĩnh chính trị của sinh viên. Từ đó xây dựng và nâng cao bản lĩnh chính trị của
sinh viên.
Bản lĩnh chính trị
Bản lĩnh là tư tưởng vững vàng, kiên định, dám chịu trách nhiệm được thể hiện
qua hành động trước thực tiễn, nhất trong hồn cảnh khó khăn, thử thách. Bản lĩnh
chính trị là tư tưởng vững vàng, kiên định với mục tiêu, lý tưởng của giai cấp cầm
quyền đang lãnh đạo đất nước.
Bản lĩnh chính trị của Đảng ta là kiên định mục tiêu, lý tưởng của cách mạng,
trung thành với lợi ích của giai cấp, dân tộc và nhân dân. Hiện nay, bản lĩnh chính trị
đó là sự kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng; dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác
- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định đường lối đổi mới của Đảng.
Bản lĩnh chính trị của Đảng cịn được thể hiện trong hành động của đội ngũ cán
bộ, đảng viên; sự vững vàng, kiên định, khơng dao động trước mọi tình huống, sự
quyết tâm phấn đấu, vượt mọi khó khăn gian khổ để hồn thành tốt nhiệm vụ, vì lợi
ích của Đảng và của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu và hoạt
22


động chống phá chế độ ta của các thế lực thù địch; đấu tranh chống lại các quan điểm
sai trái; đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Giáo dục bản lĩnh chính trị
Giáo dục bản lĩnh chính trị cho sinh viên tổ chức học tập, rèn luyện, hỗ trợ cho
sinh viên trong việc tiếp tục xây dựng và hồn thiện dần tư tưởng chính trị, tạo niềm
tin và sự kiên định với lý tưởng cách mạng của Đảng thông qua giảng dạy, đào tạo và
nghiên cứu. Bản lĩnh chính trị của con người khơng phải tự nhiên mà có. Nó phải qua

giáo dục, học tập và rèn luyện trong thực tiễn mới có thể có được. Bản lĩnh chính trị
được thể hiện qua thái độ chính trị và ý thức tham gia hoạt động chính trị, xã hội. Q
trình xây dựng và hồn thiện dần bản lĩnh chính trị cũng chính là q trình tạo và nâng
cao niềm tin vào chủ trương, đường lối của Đảng.
Sinh viên có thế mạnh là đang phát triển cả về thể chất và tinh thần; hăng hái,
giàu ước mơ, hồi bão, có ý chí vươn lên; dễ tiếp thu cái mới, dễ tiếp cận thông tin,
nhất là qua môi trường mạng. Tuy nhiên, có lúc, có nơi, có người có những hạn chế
nhất thời trong phân biệt, lựa chọn đúng - sai trong các mối quan hệ xã hội; chưa có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có khi dễ bị dao động, bị lôi kéo vào lối suy nghĩ khơng
tích cực và có thể dẫn đến hành vi xấu, thậm chí vi phạm pháp luật một cách tương đối
hồn nhiên. Bản lĩnh chính trị được thể hiện qua thái độ chính trị trong các hoạt động,
tình huống cụ thể.
Thái độ chính trị
Thái độ chính trị là những biểu hiện của ý nghĩ, tình cảm được thể hiện qua nét
mặt, cử chỉ, lời nói, hành động của mỗi người hoặc nhóm người trước thơng tin về
tình hình chính trị hoặc có liên quan đến chính trị trong nước và quốc tế. Đó là cách
nhìn, suy nghĩ, hành động, mức độ quan tâm theo một hướng nào đó của cá nhân hoặc
một nhóm người trước thơng tin có được qua nhìn, nghe, truyền đạt lại và sự trao đổi,
bàn bạc, tranh luận về các thơng tin đó với người khác bằng các cách khác nhau. Thái
độ chính trị là một bộ phận của tư tưởng chính trị, đồng thời nó cịn là tiền đề cho hành
vi của con người.
Ý thức tham gia hoạt động chính trị, xã hội
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và
được cải tạo lại, sáng tạo lại, mang dấu ấn cá nhân. Ý thức tham gia hoạt động chính
trị, xã hội là sự nhận thức của mỗi sinh viên trong việc tham gia các hoạt động chính
trị, xã hội do nhà trường hoặc địa phương tổ chức. Ý thức đó được thể hiện qua việc:
Nhận biết, phân biệt, đánh giá các sự kiện chính trị, xã hội; Nhận ra và phê phán
những âm mưu, thủ đoạn chính trị của các thế lực thù địch; Tích cực, chủ động tham
gia các hoạt động chính trị, xã hội do nhà trường, Đoàn Thanh niên tổ chức hoặc phối
hợp hoạt động với địa phương, đơn vị, tổ chức khác.

Giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên là q trình giảng dạy, hướng dẫn, giải
thích, tuyên truyền, hỗ trợ sinh viên trong nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
23


nước, tinh thần yêu nước, lý tưởng cách mạng để họ có niềm tin vào đường lối cách
mạng Việt Nam.
III. GIẢI PHÁP
1. Tổ chức học tập lý luận chính trị
Các môn học về chủ nghĩa Mác - Lê nin, tưởng Hồ Chí Minh sẽ cung cấp các
kiến thức cơ bản, nền tảng cho việc nhận thức thế giới khách quan và rèn luyện kỹ
năng nghề nghiệp; chỉ ra phương pháp luận trong việc giải quyết các vấn đề của học
tập, nghề nghiệp và cuộc sống. Việc học tập của sinh viên thông qua hướng dẫn, hỗ trợ
của giảng viên hoặc tự nghiên cứu và tham gia các hoạt động của nhà trường và xã
hội. Sinh viên tham dự các tiết học trên giảng đường về các môn học này, tự tìm tài
liệu để hiểu sâu, rộng kiến thức có liên quan, hoặc tham gia các cuộc thi, phong trào có
liên quan đến lý luận chính trị. Cùng với các hoạt động trên, sinh viên được học pháp
luật, đạo đức, đạo đức nghề nghiệp, lối sống văn hóa, kỹ năng sống, kỹ năng nghề (tùy
theo chương trình của mỗi trường) thơng qua các mơn học trực tiếp hoặc có liên quan
đến các nội dung này. Sinh viên không chỉ tiếp thu kiến thức, rèn luyện thơng qua giờ
lên lớp, mà cịn thể hiện trong tự nghiên cứu, tham gia các hoạt động, cuộc thi, phong
trào có liên quan đến các nội dung nêu trên.
Vào thời điểm đầu năm học, khóa học, cuối khóa học, sinh viên tiếp thu lý luận
chính trị thông qua các giờ lên lớp, thảo luận, tự nghiên cứu, viết thu hoạch theo
chương trình Tuần giáo dục cơng dân – học sinh, sinh viên của mỗi nhà trường. Các
hoạt động này dần trở thành nền nếp của mỗi nhà trường và hiệu quả của hoạt động
này phụ thuộc vào việc lựa chọn chuyên đề cụ thể, sát với ngành nghề đào tạo, khóa
học và báo cáo viên có kiến thức và phương pháp trao đổi hấp dẫn, thu hút, truyền cảm
hứng cho người nghe.

2. Quán triệt, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, quy định của nhà trường
Việc quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, quy định của nhà trường thường được tập trung vào chương trình Tuần giáo dục
cơng dân – học sinh, sinh viên đầu khóa học, đầu năm học, cuối khóa học. Bộ Giáo
dục và Đào tạo có hướng dẫn hàng năm về các vấn đề chung và các nhà trường cụ thể
hóa các nội dung đó, kết hợp với yêu cầu của nhà trường để xây dựng kế hoạch và tổ
chức thực hiện. Thông thường, các trường tổ chức vào dịp đầu mỗi năm học cho các
khóa học với các nội dung phù hợp. Tuy nhiên, do thực tiễn nhà trường và yêu cầu đào
tạo, mỗi trường có thể bố trí lịch tổ chức tuần giáo dục cơng dân – học sinh, sinh viên
một cách linh hoạt.
Thơng thường, đầu khóa học, sinh viên được quán triệt các nội dung chung nhất
về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của
nhà trường để tạo điều kiện cho việc tiếp thu các kiển thức của các môn học, tham gia
hoạt động theo quy định chung, xây dựng kế hoạch học tập tồn khóa học của cá nhân.
Nội dung tuần Giáo dục công dân – học sinh, sinh viên, tập trung nghiên cứu các vấn
24


đề pháp luật sát với chuyên ngành hẹp, kinh nghiệm hành nghề, các vấn đề đang gặp
phải của nghề nghiệp, khởi nghiệp, ...
Việc quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, quy định của nhà trường còn được thực hiện trong các đợt khi cần cập nhật các
nội dung mới có liên quan. Tuy nhiên, các văn bản có tính quy phạm pháp luật, các
chính sách, luật pháp cụ thể thường tính đến đặc thù hoạt động theo năm học, do đó,
có thể quán triệt vào đầu năm học, trừ trường hợp đặc biệt.
Các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy
định của nhà trường được tích hợp trong hoạt động giảng dạy các môn, chuyên đề
chuyên ngành, hoạt động thực hành, thực tập, làm việc bán thời gian của sinh viên.
Mức độ tích hợp tùy thuộc vào yêu cầu hoạt động. Các nội dung được tích hợp được

coi là các kiến thức cơ sở để thực hiện các hoạt động chuyên ngành.
3. Tổ chức các câu lạc bộ, phong trào, cuộc thi, hoạt động
3.1. Câu lạc bộ
Tổ chức các câu lạc bộ, phong trào, cuộc thi, hoạt động là tạo cơ hội, môi
trường để rèn luyện cho cơng tác giáo dục tư tưởng chính trị nói riêng và cơng tác giáo
dục nói chung. Các hoạt động đó là: Các câu lạc bộ học tập, sở thích; các cuộc thi,
cuộc vận động, phong trào; các hoạt động của Đồn Thanh niên; các hoạt động trên
mơi trường mạng; ...
Câu lạc bộ sinh viên là tổ chức tự nguyện của những sinh viên có cùng sở thích,
đam mê, nhu cầu, mục đích trong hỗ trợ cho học tập, rèn luyện trong trường được
thành lập bởi sinh viên đang theo học hoặc cựu sinh viên nhà trường. Tham gia hoạt
động câu lạc bộ là để có cơ hội thực hành, kiểm nghiệm, tạo động lực phát triển năng
lực cá nhân. Khi mới tham gia câu lạc bộ, có những sinh viên có trình độ cịn rất hạn
chế về lĩnh vực u thích, nhưng sau một thời gian họ tiến bộ rất nhiều nhờ học hỏi
bạn bè trong câu lạc bộ. Tham gia câu lạc bộ còn là rèn luyện về các kỹ năng mềm do
học hỏi được từ người cùng trang lứa. Đó là mơi trường giúp sinh viên thử nghiệm
năng lực, rèn luyện kỹ năng, tạo sự tự tin, hoàn thiện dần bản thân. Trong trường học,
không chỉ học ở người thầy mà còn học hỏi từ bạn bè, người khác. “Học thày không
tày học bạn” là đúng với phương pháp học tập tại các câu lạc bộ.
Trong các trường, hiện nay có các loại hình câu lạc bộ với các tên gọi khác
nhau. Có các nhóm câu lạc bộ về học tập như câu lạc bộ: Tiếng Anh, Nghiên cứu khoa
học, Đọc sách, Khởi nghiệp, hướng nghiệp, ... Các câu lạc bộ về văn hóa văn nghệ, thể
dục thể thao như các câu lạc bộ: Văn nghệ (hát, múa, nhạc, thơ văn, nghệ thuật, ...),
cầu lơng, bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ, võ (theo mơn võ), ... Các câu lạc bộ tình
nguyện, vì cộng đồng như các câu lạc bộ: Tình nguyện, hiến màu nhân đạo, mơi
trường, vì người nghèo, ... Các câu lạc bộ hỗ trợ công tác quản lý như các câu lạc bộ:
Lớp trưởng, Bí thư Đoàn Thanh niên, Nhà lãnh đạo trẻ, Doanh nghiệp trẻ, ... Các câu
lạc bộ dưới hình thức các tổ, nhóm, đội như: Đội thanh niên/sinh viên xung kích, tổ tự
quản sinh viên giảng đường/khu nội trú; nhóm/tổ SV hỗ trợ mùa thi, nhập trường, ...
25



×