Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

CƠ sở lý LUẬN về GIÁO dục bản sắc văn hóa dân tộc dựa vào CỘNG ĐỒNG CHO học SINH TRƯỜNG PHỔ THÔNG dân tộc nội TRÚ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.22 KB, 56 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC BẢN SẮC
VĂN HÓA DÂN TỘC DỰA VÀO CỘNG
ĐỒNG CHO HỌC SINH TRƯỜNG PHỔ
THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ


- Tông quan nghiên cứu vấn đề
-. Nghiên cứu về giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc ở nước
ngoài
Giữ gìn bản sắc văn hóa của mõi dân tộc là nội dung
quan trọng nên các nước, các dân tộc trên thế giới đều quan
tâm đến vấn đề này. Chương trình giáo dục phổ thông các
nước đều có các nội dung giáo dục các thành phần của bản
sắc văn hóa như ngôn ngữ, các truyền thống, các giá trị văn
hóa.
Các nước châu Âu đều coi trọng môn Lịch sử mà trong
đó có các nội dung về bản sắc văn hóa dân tộc và đưa môn
Lịch sử vào hệ thống các môn bắt buộc như Nga, Đức và một
số nước châu Âu khác.
Ở Singapore, mặc dù tiếng Anh trở thành Quốc ngữ
nhưng trong chương trình giáo dục phổ thông ở các cấp học
đều có thời lượng nhất định cho học sinh học tiếng Mẹ đẻ.
Các công trình nghiên cứu về dân tộc học thì đã có rất
nhiều, nhưng các công trình nghiên cứu về giáo dục bản sắc
văn hóa dân tộc được dịch sang tiếng Việt thì còn hạn chế nên


nghiên cứu về vấn đề này chưa được kế thừa nhiều từ các tác
giả nước ngoài. Chủ yếu vẫn là các công trình nghiên cứu
trong nước.
-Nghiên cứu về giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc ở Việt


Nam
Vấn đề giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc cho học sinh
đang được Đảng và Nhà nước quan tâm sâu sắc nên các
nghiên cứu về vấn đề này cũng rất phong phú. Từ cấp độ
Luận văn Thạc sĩ đến Luận án Tiến sĩ và các cấp đề tài khoa
học được công bố khá nhiều. Từ những năm đầu khi Đảng
Cộng sản Việt Nam mới ra đời cho đến nay, trong các chủ
trương, định hướng phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt
Nam đều lấy việc phát triển con người theo định hướng văn
minh, tiến bộ làm mục tiêu chủ chốt. Nghị quyết Ban chấp
hành Trung ương lần thứ 5 khoá VIII đã chỉ rõ: "Xây dựng và
phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.!" [9]. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định con
ngưởi vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh
tế - xã hội. Trong đó, Giáo dục và Đào tạo cùng với Khoa học
Công nghệ được coi là khâu đột phá cho sự phát triển. Giáo
dục và Đào tạo chuẩn bị nguồn lực người cho sự phát triển


Kinh tế- Xã hội. Do đó, giáo dục con người phát triển toàn
diện là mối quan tâm của toàn dân tộc. Tháng 4 năm 2001, Bộ
Giáo dục và Đào tạo và, Bộ Văn hoá- Thể thao và Du lịch đã
ký kết chương trình liên Bộ thực hiện cuộc vận động "Toàn
dân đoàn kết, xây dựng đời sông văn hoá" trong các trường
học. Điều đó đã chứng tỏ hoạt động giáo dục văn hoá gắn chặt
với giáo dục con người trong nhà trường đã trở thành yếu tố
quyết định trong chiến lược phát triển xã hội. [26]
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về Giáo dục bản sắc
văn hóa cho học sinh, sinh viên. Nhưng giáo dục bản sắc văn
hóa trong nhà trường có thể kể đến công trình của Phạm Hồng

Quang: “Giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho sinh viên sư
phạm”[27]. Trong đó, tác giả đã phân tích khá đầy đủ về các
khái niệm Văn hóa, bản sắc văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc
và lý giải tại sao phải giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho
sinh viên sư phạm. Đồng thời tác giả cũng nêu rõ được các
nội dung, biện pháp giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho sinh
viên sư phạm- những thày cô giáo tương lai. Những người sau
này sẽ có nhiệm vụ giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc cho học
sinh của mình ở trường phổ thông để thực hiện chiến lược
phát triển một nền giáo dục tiên tiên, đậm đà bản sắc dân tộc.


Cùng với các công trình nghiên cứu của tác giả Phạm
Hồng Quang về Giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho sinh
viên sư phạm, cũng có thể kể đến luận án tiến sĩ của tác giả
Trần Thị Minh Huế về đề tài: “Giáo dục bản sắc văn hóa dân
tộc cho sinh viên sư phạm miền núi Đông Bắc Việt Nam thông
qua tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp”.[15].
Trong đó, tác giả nêu rất rõ về khái niệm bản sắc văn hóa dân
tộc, tại sao cần giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho sinh viên
sư phạm. Với yêu cầu của một luận án án tiến sĩ, tác giả đã
nêu rõ thực trạng giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho sinh
viên sư phạm hiện nay. Trên cơ sở đó xác định rõ mục đích,
yêu cầu nội dung giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho sinh
viên sư phạm. Đồng thời chỉ ra các biện pháp giáo dục nội
dung này qua con đường tổ chức hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp cho sinh viên.
Hai công trình nêu trên đã làm rõ được khái niệm bản
sắc văn hóa dân tộc, các thành tố của bản sắc văn hóa dân tộc,
các nội dung, con đường và biện pháp giáo dục bản sắc văn

hóa dân tộc cho sinh viên sư phạm. Tuy nhiên, các công trình
lại không đi sâu vào bản sắc văn hóa dân tộc của một dân tộc
cụ thể nào. Hơn nữa, các tác giả dừng lại ở việc tổ chức giáo


dục bản sắc văn hóa dân tộc cho sinh viên sư phạm, chưa đề
cập đến giáo dục nội dung này cho học sinh.
Tác giảPhạm Thị Thảo, trong luận văn Thạc sĩ Triết học
của mình về đề tài: “Vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn
hoá của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay”[31] đã nêu rất rõ
thế nào là bản sắc văn hóa dân tộc Thái và làm thế nào để giữ
gìn, phát huy được bản sắc văn hóa dân tộc Thái. Dưới góc độ
Triết học, tác giả đã phân tích và đánh giá rất rõ các giá trị cơ
bản của văn hóa dân tộc Thái, lấy thực tế người Thái ở Sơn La
làm minh chứng cho các nhận xét, đánh giá của mình về bản
sắc văn hóa của dân tộc Thái. Có thể thấy, đay là một công
trình nghiên cứu có nhiều đóng góp là sáng tỏ các thành tố,
giá trị của văn hóa dân tộc Thái, khẳng định bản sắc của dân
tộc Thái và những biện pháp phát huy các bản sắc đó. Tuy
nhiên, tác giả nêu các giải pháp chung chứ không đi sâu vào
các nội dung giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc Thái cho học
sinh
Trong cuốn: “Sổ tay các dân tộc Việt Nam” các tác giả
cũng nêu nhiều đặc điểm văn hóa của người Thái, sự phân bố
người Thái trên lãnh thổ Việt Nam cùng các dân tộc thiểu số
khác. Trong một số khóa luận tốt nghiệp đại học của các


chuyên ngành văn hóa cũng có một số đề tài nghiên cứu về
dân tộc Thái với các góc độ khác nhau. Đây cũng là nguồn tư

liệu cho các nghiên cứu về dân tộc Thái rất đáng quan tâm.
Tuy nhiên, nghiên cứu về giáo dục bản sắc văn hóa một
dân tộc cụ thể cho học sinh thì còn chưa được quán tâm thỏa
đáng. Đặc biệt, nghiên cứu giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc
Thái dựa vào cộng đồng dưới góc độ Giáo dục cộng đồng thì
còn chưa được quan tâm
- Bản sắc văn hóa và giáo dục bản sắc văn hóa
- Văn hóa và bản sắc văn hóa
- Văn hóa
Văn hóalà khái niệm được sử dụng phổ biến trong đời
sống xã hội, thuật ngữ này không những có nhiều nghĩa trong
ngôn ngữ hàng ngày mà cả trong các lĩnh vực khoa học khác
nhau. Tuy nhiên, việc xác định nội hàm của khái niệm văn
hóa cũng còn nhiều ý kiến. Vì thế, hiện nay có hàng trăm khái
niệm khác nhau về văn hóa. Song, về cơ bản các quan niệm
đều thống nhất coi văn hóa là những gì mà con người sáng tạo
để hình thành nên các giá trị, các chuẩn mực xã hội trong quá


trình lao động, hoạt động thực tiễn. Các giá trị chuẩn mực đó
tác động, chi phối, điều chỉnh đời sống tâm lý, hành vi, đạo
đức và các hoạt động trên mọi lĩnh vực của con người. Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người đã sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở, mặc và các phương
thức sử dụng, toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm

thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn
[42, tr 41].
Nghiên cứu về văn hóa các nhà văn hóa Việt Nam cũng
đưa nhiều định nghĩa khác nhau: “Văn hóa là tất cả những sản
phẩm vật chất và không vật chất của hoạt động con người, là
giá trị và phương thức xử thế được công nhận, đã khách thể
hóa và thừa nhận trong một cộng đồng truyền lại cho một
cộng đồng khác và cho các thế hệ mai sau” [43, tr.11]. Định
nghĩa này nhấn mạnh trong văn hóa bao gồm các sản phẩm
vật chất và các hệ thống giá trị các mẫu mực xử thế và các hệ


thống hành vi. Vấn đề cần được nhấn mạnh ở đây là trong
khái niệm văn hóa, điều quan trọng là phải được thừa nhận
hoặc có nhiều khả năng được thừa nhận trong một nhóm xã
hội, và được truyền bá cho các cá thể hoặc các nhóm trong
cộng đồng.
“Văn hóa là khái niệm dùng để chỉ tổng thể những năng
lực bản chất người trong tất cả các dạng hoạt động của họ, là
tổng thể các hệ thống giá trị - cả giá trị vật chất và giá trị tinh
thần do con người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn và
lịch sử xã hội của mình.” [25, tr.13-14]
Như vậy, nói đến văn hóa là nói đến con người. Lịch sử
văn hóa là lịch sử của con người và loài người: Con người tạo
ra văn hóa và văn hóa làm cho con người trở thành người.
Điều đó có nghĩa là tất cả những gì liên quan đến con người,
đến mọi cách thức tồn tại của con người đều mang trong nó
cái gọi là văn hóa. Có thể nói, văn hóa là sự phát triển lực
lượng vật chất và tinh thần, là sự thể hiện những lực lượng đó
trong lĩnh vực sản xuất vật chất và lĩnh vực sản xuất tinh thần

của con người. Từ đó, văn hóa được chia làm hai lĩnh vực cơ
bản: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tuy nhiên, sự
phân chia này chỉ có tính chất tương đối, bởi cái gọi là “văn


hóa vật chất” về thực chất cũng chỉ là sự “vật chất hóa” các
giá trị tinh thần, và các giá trị văn hóa tinh thần không phải
bao giờ cũng tồn tại một cách thuần túy tinh thần, mà thường
được “vật thể hóa” trong các dạng tồn tại vật chất.
Ở Việt Nam, khi luận bàn về văn hóa của dân tộc thường
được hiểu theo hai nghĩa, hai cấp độ khác nhau: Ở phạm vi
hẹp, văn hóa dân tộc đồng nghĩa với văn hóa của một tộc
người, văn hóa dân tộc hoặc văn hóa tộc người + tộc danh, là
một chi tiết của văn hóa nói chung.
Văn hóa tộc người là toàn bộ những giá trị vật chất và
tinh thần, cũng như những quan hệ xã hội được sáng tạo trong
điều kiện môi trường sinh tụ của một tộc người, phản ánh
những nhận thức, tâm lýý, tình cảm, tập quán riêng biệt được
hình thành trong lịch sử của tộc người đó. Ở các quốc gia đa
dân tộc, văn hóa của các tộc người đan xen, hấp thụ lẫn nhau
tạo nên nét chung của văn hóa quốc gia, của cả cộng đồng dân
tộc, và mỗi nền văn hóa đều có những giá trị riêng của nó.
Giá trị văn hóa: “là cái dùng để căn cứ vào đó mà xem
xét, đánh giá, so sánh nền văn hóa của dân tộc này với nền
văn hóa của dân tộc khác, là cái để xác định bản sắc văn hóa


của một dân tộc, những nét đặc thù về truyền thống, phong
tục, tập quán, lối sống của một dân tộc trên nền tảng các giá
trị chân, thiện, ích, mỹ” [42, tr.19]

Bản chất đặc trưng của văn hóa là chiều cạnh trí tuệ,
năng lực sáng tạo, khát vọng nhân văn biểu hiện ở hoạt động
sống của mỗi cá nhân, cộng đồng, dân tộc. Mục đích của giá
trị văn hóa là nhằm hướng tới các giá trị nhân bản, hướng tới
sự hoàn thiện của mỗi cá nhân và của cộng đồng, dân tộc.
Mặc dù, tiêu chuẩn của các giá trị văn hóa của các cộng đồng,
dân tộc là không như nhau. Giá trị văn hóa còn mang tính
khách quan, không phụ thuộc vào bất cứ cái gì từ bên ngoài
áp đặt vào để trở thành văn hóa của một cộng đồng, một dân
tộc. Không thể căn cứ vào văn hóa của một dân tộc nào đó để
làm tiêu chí xem xét, đánh giá nền văn hóa của các dân tộc
còn lại là cao hay thấp, phát triển hay không…điều đó sẽ rơi
vào bệnh chủ quan, tạo nên sự nô dịch hay sự áp đặt về văn
hóa.
Có thể nói, giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng, dân tộc
như là “mật mã di truyền xã hội” của tất cả các thành viên
sống trong cộng đồng, dân tộc đó, đã được tích lũy lắng đọng
trong quá trình hoạt động của mình. Chính quá trình đó đã


hình thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc họ. Cộng
đồng sẽ bền vững khi nó trở thành dân tộc. Yếu tố dân tộc là
yếu tố quyết định nhất của một nền văn hóa, bởi: “Nói đến
văn hóa là nói đến dân tộc; một dân tộc đánh mất truyền
thống văn hóa và bản sắc dân tộc thì dân tộc ấy sẽ mất tất cả”
[25, tr.13]. Một dân tộc đánh mất bản sắc văn hóa, dân tộc ấy
đã đánh mất chính mình, một nền văn hóa có tính dân tộc, là
nền văn hóa mang đầy đủ bản sắc của dân tộc. Chính vì vậy,
việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa tạo nên bản sắc
văn hóa của dân tộc, là vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn lao đối

với sự tồn vong của mỗi dân tộc.
Vì vậy giáo dục văn hoá, giáo dục bản sắc văn hoá cho
học sinh là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, được xem là mũi
nhọn của chiến lược giáo dục. Học sinh là thế hệ trẻvới chức
năng truyền bá phát triển, sáng tạo các giá trị văn hoá dân tộc,
đồng thời có nhiệm vụ lưu giữ các giá trị, hoàn thiện và phát
triển chúng qua các thời đại. Chính họ sẽ đảm nhận trọng
trách nặng nề trước nhân dân về việc duy trì và phát triển các
giá trị văn hoá dân tộc. Chức năng quan trọng này đã đặt ra
các nhiệm vụ mới cho các trường học phải xem đây là một
khâu đột phá, then chốt trong công tác giáo dục học sinh.


- Bản sắc văn hoá dân tộc
Theo từ điển Tiếng Việt, bản sắc chỉ tính chất, mầu sắc
riêng, tạo thành phẩm cách đặc biệt của một vật.
Bản sắc văn hóa có thể hiểu là cái cốt lõi, nội dung, bản
chất của một nền văn hóa cụ thể nào đó, là những nét văn hóa
riêng có của nền văn hóa một dân tộc. Những nét riêng ấy
thường được biểu hiện qua các giá trị văn hóa vật chất và tinh
thần, vật thể và phi vật thể. Các giá trị văn hóa này ra đời gắn
với chính điều kiện môi sinh mà dân tộc ấy thích nghi và phát
triển qua các giai đoạn phát triển khác nhau của một dân tộc.
Những giá trị văn hóa ấy, cho dù có trải qua những thăng
trầm, biến cố của lịch sử nó không những không mất đi, mà
cùng với thời gian, nó còn tiếp nhận những cái hay, cái đẹp,
cái phù hợp của văn hóa các dân tộc khác làm phong phú, đặc
sắc hơn cho văn hóa dân tộc mình, làm cho nó là nó chứ
không phải là cái khác. Khi nói đến một trong những nét đặc
trưng văn hóa ấy, người ta có thể dễ dàng nhận ra đó là dân

tộc nào mà không cần phải gọi tên.
Bản sắc văn hóa là một sức mạnh, là sức mạnh nội tại
của dân tộc. Nó là hạt nhân năng động nhất trong toàn bộ tinh


thần sáng tạo truyền từ đời này qua đời khác. Bản sắc văn hóa
làm cho một dân tộc luôn là chính mình:
Một dân tộc qua các biến cố lịch sử một lúc nào đó, một
thời đại nào đó có thể mất độc lập, bị người ngoài đô hộ
nhưng nếu dân tộc ấy vẫn giữ được tiếng nói của mình, vẫn
giữ được vốn văn nghệ dân gian, vẫn giữ và phát triển được
bản sắc văn hóa của mình, thì dân tộc ấy vẫn nắm chắc trong
tay chìa khóa của sự giải phóng, chìa khóa của tự do, độc lập
[7, tr. 48].
Bản sắc văn hóa còn là mối liên hệ thường xuyên, có
định hướng của cái riêng (văn hóa dân tộc) và cái chung (văn
hóa nhân loại). Mỗi dân tộc trong quá trình giao lưu văn hóa,
sẽ cống hiến những gì đặc sắc của mình vào kho tàng văn hóa
chung. Đồng thời tiếp nhận có lựa chọn, nhào nặn thành giá
trị của mình, tạo ra sự khác biệt trong cái đồng nhất đó chính
là bản sắc văn hóa của một dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc
không phải là một biểu hiện nhất thời, nó có mối liên hệ lâu
dài, sâu sắc và bền vững trong lịch sử và đời sống văn hóa
dân tộc.


Bản sắc dân tộc gắn liền với văn hóa và thường được
biểu hiện thông qua văn hóa. Vì vậy, có thể coi bản sắc dân
tộc của văn hóa hoặc bản sắc văn hóa dân tộc: “Bản sắc chính
là văn hóa, song không phải bất cứ yếu tố văn hóa nào cũng

được xếp vào bản sắc. Người ta chỉ coi những yếu tố văn hóa
nào giúp phân biệt một cộng đồng văn hóa này với một cộng
đồng văn hóa khác là bản sắc” [42, tr.13].
“Bản sắc văn hóa dân tộc” là tổng hòa những khuynh
hướng cơ bản trong sáng tạo văn hóa của một dân tộc, vốn
được hình thành trong mối liên hệ thường xuyên với điều kiện
kinh tế, môi trường tự nhiên, các thể chế, các hệ tư tưởng…
trong quá trình vận động không ngừng của dân tộc đó” [27, tr
37].
Khi nói tới bản sắc văn hóa của một dân tộc, cũng có
nghĩa là nói tới bản sắc riêng của dân tộc ấy, hay nói cách
khác bản sắc văn hóa là cái cốt lõi của bản sắc dân tộc. Bởi
bản sắc của dân tộc không thể biểu hiện ở đâu đầy đủ và rõ
nét hơn ở văn hóa. Sức sống trường tồn của một nền văn hóa
khẳng định sự tồn tại của một dân tộc, khẳng định bản sắc và
bản lĩnh của dân tộc ấy.


Bản sắc văn hóa dân tộc có hai mặt giá trị. Giá trị tinh
thần bên trong và biểu hiện bên ngoài của bản sắc dân tộc có
mối quan hệ khăng khít củng cố thúc đẩy nhau phát triển. Văn
hóa không được rèn đúc trong lòng dân tộc để có bản lĩnh, trở
thành sức mạnh tiềm tàng bền vững thì bản sắc dân tộc của
văn hóa sẽ mờ phai. Ngược lại, nếu văn hóa tự mình làm mất
đi những màu sắc riêng biệt, độc đáo của mình, sẽ làm vơi
chất keo gắn kết tạo thành sức mạnh bản lĩnh của văn hóa.
Nguồn gốc tạo thành bản sắc văn hóa dân tộc có thể do
nhiều yếu tố như: hoàn cảnh địa lý, nguồn gốc chủng tộc, đặc
trưng tâm lý, phương thức hoạt động kinh tế. Nhưng bản sắc
văn hóa dân tộc, không thể không xuất phát từ những yếu tố

tạo thành dân tộc. Vì thế hiểu khái niệm bản sắc văn hóa dân
tộc phải hiểu theo khái niệm phát triển, khái niệm mở. Nó
không chỉ là hình thức mà còn là nội dung đời sống cộng
đồng, gắn với bản lĩnh các thế hệ các dân tộc Việt Nam. Nghị
quyết hội nghị BCH TW lần thứ V khóa VIII của Đảng đã chỉ
rõ:
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những
tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp
nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ


nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc,
tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân- gia
đình- làng xã- Tổ quốc…Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét
trong cả hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo [9].
Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị tiêu biểu, bền
vững, phản ánh sức sống của từng dân tộc, nó thể hiện tập
trung ở truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là các giá
trị do lịch sử để lại được thế hệ sau tiếp nối, khai thác và phát
huy trong thời đại của họ để tạo nên dòng chảy liên tục của
lịch sử văn hóa các dân tộc. Khi đã được hình thành, truyền
thống mang tính bền vững và có chức năng định hướng, đánh
giá, điều chỉnh hành vi của cá nhân và cộng đồng. Tuy nhiên,
khái niệm bản sắc văn hóa không phải là sự bất biến, cố định
hoặc khép kín mà nó luôn vận động mang tính lịch sử cụ thể.
Trong quá trình này nó luôn đào thải những yếu tố bảo thủ,
lạc hậu và tạo lập những yếu tố mới để thích nghi với đòi hỏi
của thời đại. Truyền thống cũng không phải chỉ bao hàm các
giá trị do dân tộc sáng tạo nên, mà còn bao hàm cả các giá trị
từ bên ngoài được tiếp nhận một cách sáng tạo và đồng hóa

nó, biến nó thành nguồn lực nội sinh của dân tộc.


Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số gồm nhiều
loại hình, nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều sắc màu, nhiều mức độ
và quy mô khác nhau, tạo nên giá trị to lớn là nền tảng bền
vững của bản sắc dân tộc. Nguồn nuôi dưỡng vô tận tâm hồn
và đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc. Đây là kho
của cải vô giá, di sản vô cùng quý báu của văn hóa Việt Nam.
Việc nhận diện đúng về bản sắc văn hóa mỗi dân tộc và các
dân tộc thành viên là việc làm hết sức có ý nghĩa.
Từ việc nghiên cứu hệ thống hoá các quan niệm của các
tác giả đi trước, có thể quan niệm: “Bản sắc văn hoá” là
những đặc điểm riêng biệt, có giá trị cao, gồm những giá trị
vật chất và tinh thần được tích luỹ và phát triển trong tiến
trình đi lên của một dân tộc, nó quy định vị trí riêng biệt về
mặt xã hội của một dân tộc. Những giá trị đó có thể có ở mọi
dân tộc, song ở dân tộc có bản sắc văn hoá được biểu hiện
đậm nét, sâu sắc và đặc biệt hơn.
Bản sắc văn hoá dân tộc là hệ thống giá trị bền vững
mang tính truyền thống và hiện đại, gồm các giá trị tinh hoa
của dân tộc được vun đắp nên qua hàng nghìn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước; là quá trình tiếp nhận, bổ sung, hoàn
thiện những giá trị mới, đồng thời là gạt bỏ những giá trị lạc


hậu, lỗi thời, để những giá trị bền vững luôn sống động với
thực tiễn xã hội.
Bản sắc văn hoá trong quan hệ với lịch sử dân tộc với
truyền thống là sự kế thừa chắt lọc, trong quá trình này phải

nhìn nhận theo quan điểm phát triển. Quá trình phát triển
chính là quá trình gạn lọc và bổ sung các giá trị tốt đẹp được
lưu giữ trong tiến trình lịch sử của dân tộc và của nhân loại.
Đồng thời với sự tiếp nhận các giá trị tốt đẹp của văn hoá
nước ngoài là có sự tiếp thu có chọn lọc.
Tóm lại, nói đến đặc trưng là nói đến cái nổi bật so với
các tập hợp cùng loại, nhưng bản sắc là cái riêng, chỉ có thể
biểu hiện đặc sắc ở một đối tượng này mà ít thấy ở nhiều đối
tượng khác, nó được xem như yếu tố xuyên suốt quá trình
phát triển của đối tượng và nhờ đó để phân biệt giữa đối
tượng này với đối tượng khác, tất nhiên không phải chỉ là
phân biệt về mặt hình thức. Về mặt ý nghĩa, bản sắc văn hoá
dân tộc cũng chính là một tiêu chí quan trọng quyết định đến
sự tồn vong của dân tộc này hay dân tộc khác.
- Giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh


Giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc cho học sinh là một
nhiệm vụ quan trọng của các nhà trường. Nhiệm vụ này được
xác định rõ trong mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, các
hình thức tổ chức giáo dục, nó phản ánh một yêu cầu tất yếu
của xã hội đối với nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ.
Nghiên cứu giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc nhằm giữ
gìn, phát triển các giá trị văn hoá các dân tộc cho học sinh
thực chất là giáo dục lối sống có văn hoá cho họ. Như đã trình
bày ở trên, bản sắc văn hoá dân tộc không phải là cái riêng,
đặc thù chỉ có ở dân tộc này, không có ở dân tộc khác. Theo
nghĩa đó, việc nghiên cứu tìm hiếu bản sắc văn hoá dân tộc
trên đối tượng học sinh không phải chỉ là việc tìm ra cái riêng,
cái độc đáo của dân tộc này so với dân tộc khác. Xuất phát từ

quan điểm cho rằng: Một dân tộc muốn phát triển (đặc biệt
trong bối cảnh hội nhập hiện nay) một mặt là phải biết tự bảo
vệ mình bằng các khả năng tự đề kháng và mặt khác, quan
trọng hơn là biết thích nghi với hoàn cảnh.
Một nền văn hoá dân tộc muốn có thế đứng vững phải kế
thừa và phát triển tinh hoa dân tộc mình, đồng thời tiếp thu
cái hay cái đẹp của dân tộc khác. Chính sự thích nghi này sẽ
tạo ra sức mạnh, tạo ra bản sắc dân tộc luôn mang đậm nét


hiện đại, phát triển, nhưChủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Tây
Phương và Đông Phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra
một nền văn hoá Việt Nam...”
Với ý tưởng trên, nghiên cứu bản sắc văn hoá dân tộc
trên đối tượng học sinh trong nhà trường hiện nay, bên cạnh
việc tìm hiểu các nét, các đặc điểm tốt đẹp của các dân tộc
còn lưu giữ ở học sinh, còn cần phải xem xét khả năng thích
nghi với hoàn cảnh, tính linh hoạt biểu hiện trong lối sống có
văn hoá của học sinh. Do đó giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc
cho học sinh là hình thành cho học sinh khả năng lựa chọn,
sàng lọc, tiếp thu, có phê phán đối với quá trình ảnh hưởng
của nhiều cách sống, nhiều kiểu sống, lối sống khác nhau, để
lựa chọn các yếu tố tiến bộ hơn, văn minh hơn là một điều
kiện quan trọng trong giáo dục lối sống học sinh.
Ở một khía cạnh khác, việc giáo dục bản sắc văn hóa
cho sinh viên còn là quá trình giúp họ vượt qua các "rào cản"
của của hủ tục, phong tục lạc hậu, các quan niệm cũ đang kìm
hãm, để tìm đến các trào lưu tiến bộ, văn minh, văn hoá hơn.



Với mục đích giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc một cách
có hiệu quả cho học sinh các trường phổ thông hiện nay, cần
chú ý các đặc điểm sau:
- Sự lựa chọn các nội dung có tính khả thi;
- Phương thức tích hợp, lồng ghép theo chương trình;
- Bám sát hoạt động chủ động là hoạt động học tập;
- Phù hợp với môi trường giáo dục, đặc điểm lứa tuổi.
Giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc không có nghĩa là chỉ
dừng trong nhận thức, dạy cho học sinh phải biết những ai,
những gì. Mà điều quan trọng là phải giáo dục cho cả thế hệ
một niềm tin vững chắc, niềm tin ấy phải trở thành máu thịt
của họ. Trong nhà trường, việc xây dựng nội dung giáo dục
bản sắc văn hoá cần làm có hệ thống, có bài bản, tránh tình
trạng khi cảm thấy thiếu thì bổ sung, khi cần thì đưa vào,
thiếu một tầm chiến lược trong giáo dục thế hệ trẻ.
Nói đến văn hoá tức là nói đến con người, con người có
văn hóa. Bộ mặt nhân cách con người được thể hiện trong lối
sống, trong hoạt động, trong giao lưu. Do đó, các giá trị văn
hoá, bản sắc vàn hoá cần giữ gìn được hiểu như là sự tồn tại


hay không tồn tại, được biểu hiện trong lối sống của con
người thông qua nếp sống, thói quen, ngôn ngữ, hành vi, giao
tiếp của họ.
- Một số đặc trưng văn hóa của dân tộc Thái
-Khái quát chung về dân tộc Thái
Dân tộc Thái là một trong 53 dân tộc thiểu số ở nước ta,
nhưng cho đến nay với nền văn hóa riêng có của mình, đã
chứng tỏ Thái là một dân tộc có bản lĩnh và bản sắc - một
cộng đồng tộc người có nền văn hóa. Với chính sách phát

triển vùng dân tộc và miền núi của Đảng, chúng ta cần phải
bảo lưu, khai thác cả cái cũ và mới trong những vùng dân cư
mới để biến Tây Bắc thành vùng giàu mạnh của đất nước với
một bản sắc văn hóa đa dạng và độc đáo trong sự thống nhất
của nền văn hóa Việt Nam.
Dân tộc Thái có dân số khá đông đảo, theo con số thống
kê năm 1999, dân số của người Thái có khoảng 1.328.725
người sống trải khắp vùng miền Tây, Tây Bắc và Nam Trung
bộ Việt Nam.


Trải qua hàng ngàn năm sinh sống trên các địa bàn trên
lãnh thổ Việt Nam, dân tộc Thái đã cùng các dân tộc anh em
khác, tham gia dựng nước và giữ nước. Đây cũng chính là quá
trình hình thành tộc người để phát triển đến ngày nay. Hiện
nay, chưa có cách nào khác để tìm ra cội nguồn của văn hoá
lịch sử tộc người Thái, ngoài việc rút ra và đúc kết những hiểu
biết mới về đời sống tâm linh của họ. Từ đó, đưa ra những kết
luận về nguồn gốc hình thành của dân tộc này.
Người Thái ở Việt Nam không theo một tôn giáo chính
thống nào trên thế giới mà theo một trong những tập tục có
nghi thức thờ Nước (nặm) và Đất gọi là Cạn (bốc). Nước có
biểu tượng Thần chủ là con Rồng (Tô Luông) mang tên chủ
nước (chảu nặm). Và đất có biểu tượng thần chủ là loài Chim
ở núi mang tên chủ đất (chảu đin). Hai biểu tượng thần chủ
Rồng, Chim cũng là Mẹ, Cha của Mường và tục thờ này nằm
trong toàn bộ nghi lễ cúng Mường (xên Mương).
Theo truyền thống, Thái Đen và Thái Trắng có tục thờ
Mẹ- Cha gắn với biểu tượng thần linh Rồng- nước và Chimcạn trong cúng Mường chéo ngược như sau: Mường Thái Đen
thờ: Mẹ - Rồng - nước >< Cha - Chim - Cạn; Mường Thái

Trắng thờ: Mẹ - Chim - Cạn >< Cha - Rồng - Nước


Điều này cho thấy mối liên hệ giữa văn hóa biểu tượng
cội nguồn giữa người Thái với truyền thuyết thủy tổ người
Việt : “Mẹ thủy tổ người Việt là bà Âu Cơ thuộc giống Tiên
(Chim lạc) ở đất, và Cha thủy tổ là Lạc Long Quân thuộc loài
Rồng- nước (Thủy tộc (biển). Bà Âu Cơ sinh ra một bọc trăm
trứng, nở ra trăm con trai, khi khôn lớn thì năm mươi con trai
theo cha xuống biển và năm mươi con trai theo mẹ về núi”
[43, tr. 23]. Từ đây, ta có thể hình dung được bức tranh có thể
có về sự hình thành, và phát triển văn hóa cội nguồn của hai
ngành Người thuộc nhóm nói tiếng Thái có liên hệ với Người
Việt trong lịch sử hàng ngàn năm hình thành và phát triển:
Người Thái ở Tây Bắc là bộ phận tiêu biểu của người
Thái. Mặc dù có những đặc trưng cơ bản, nhưng người Thái ở
Tây Bắc vẫn chia hai ngành: Thái Trắng và Thái Đen.
Thái Đen có những đặc trưng của một nhóm địa phương
tương đối thuần nhất. Hiện phân bố ở các huyện Văn Chấn,
Than Uyên (Yên Bái); Mường La, Thuận Châu, Mai Sơn,
Sông Mã (Sơn La); Tuần Giáo, Điện Biên. Ngoài ra, còn có
một phần phân bố ở các huyện Phong Thổ, Sình Hồ, Quỳnh
Nhai. Một nhóm Thái Đen có hơi khác một số điểm về tập


×