Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Bai thi so 1 tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.11 KB, 35 trang )

PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Câu 1: Khái niệm, nguồn gốc quá trình hình thành TTHCM?
Trả lời:
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài, Người thầy vĩ đại của cách mạng
VN, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới đã để lại cho chúng
ta di sản tinh thần to lớn, những tư tưởng vô giá, những giá trị nhân văn cao cả. Cả
cuộc đời và sự nghiệp của Người là tấm hương sáng ngời cho toàn Đảng, toàn dân
ta nguyện phấn đấu suốt đời học tập và noi theo.
* Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
( bổ sung và phát triển) năm 2011 nêu lên khái niệm:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của
nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi
mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”
Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư
duy lý luận của Đảng ta.
- Nội hàm khái niệm đã khái quát ba vấn đề:
+ Nguồn gốc tư tưởng lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh
+ Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh: Đó là hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam
+ Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh: soi đường cho sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta giành thắng lợi
* Nguồn gốc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh
Một là, Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam
- Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng
nước và giữ nước


Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã hình thành cho Việt Nam
các giá trị truyền thống dân tộc phong phú, vững bền. Đó là ý thức chủ quyền quốc
gia dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, yêu nước, kiên cường, bất khuất... tạo thành
1


động lực mạnh mẽ của đất nước; là tinh thần tương thân, tương ái, nhân nghĩa, cố
kết cộng đồng dân tộc; thủy chung, khoan dung, độ lượng; là thông minh, sáng tạo,
quý trọng hiền tài, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm phong phú văn hóa
dân tộc... Trong nguồn giá trị tinh thần truyền thống đó, chủ nghĩa yêu nước là cốt
lõi, là dòng chảy chính của tư tưởng văn hóa truyền thống Việt Nam, xuyên suốt
trường kỳ lịch sử, là động lực mạnh mẽ cho sự trường tồn và phát triển của dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý
làm người, niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con
người Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã việt: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu
nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng, tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó vượt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm cả lũ bán nước và lũ
cướp nước".
- Thứ hai là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái
"lá lành đùm lá rách" trong hoạn nạ, khó khăn. Truyền thống này cũng được hình
thành cùng một lúc với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh
quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm.
- Thứ ba, dân tộc VN là dân tộc có truyền thống lạc quan yêu đời. Tinh thần
lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình, dân tộc mình, tin
vào sự thất thắng của chân lý, chính nghĩa. Hồ Chí Minh chính là hiện thân của
truyền thống lạc quan đó.
- Thứ tư, dân tộc Vn là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo
trong sản xuất và chiến đấu, đồng thời cũng là một dân tộc ham học hỏi, cầu tiến
bộ, không ngừng mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hoá nhân loại từ Nho, Phât,

Lão của phương Đông đến tư tưởng văn hoá hiện đại phương Tây. Trên cơ sở giữ
vững bản sắc của dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những cái
hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị của riêng mình. Hồ Chí Minh là
hình ảnh sinh động và trọn vẹn của truyền thống đó.
Chính sức mạnh truyền thống tư tưởng và văn hóa đó của dân tộc đã thúc
giục Hồ Chí Minh ra đi tìm tòi, học hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để
làm giàu cho tư tưởng cách mạng và văn hóa của Người. Đó là động lực chi phối
mọi suy nghĩ, hành động của Người trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng.
Đó chính là cơ sở tư tưởng dẫn dắt người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí
Minh viết: "Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng
sản đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba".
Hai là, Tinh hoa văn hóa nhân loại : phương Đông và phương Tây
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã biết làm giàu vốn văn hóa
của mình bằng cách học hỏi, tiếp thu tư tưởng văn hóa phương Đông và phương
Tây. Người đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn
2


hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây và cách mạng
Trung Quốc.
Về tư tưởng và văn hóa phương Đông:
Hồ Chí Minh đã tiếp thu những mặt tích cực của Nho giáo về triết lý hành
động, nhân nghĩa, ước vọng về một xã hội bình trị, hòa mục, thế giới đại đồng; về
một triết lý nhân sinh, tu thân, tề gia; đề cao văn hóa trung hiếu "dân vi quý, xã tắc
thứ chi, quân vi khinh".
Trong khi tiếp thu, vận dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo, Người
cũng đồng thời phê phán, loại bỏ những yếu tốt thủ cực, tiêu cực của nó. Người
nói: "Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều
điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học".
Về Phật giáo, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ,

cứu nạn; coi trọng tinh thần bình đẳng, chống phân biệt đẳng cấp, chăm lo điều
thiện, v.v.. Về chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh tìm thấy những
điều thích hợp với điều kiện nước ta, đó là dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân
sinh hạnh phúc.
Về tư tưởng và văn hóa phương Tây:
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tiếp thu tư tưởng văn hóa dân chủ và cách mạng
của cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ. Về tư tưởng dân chủ của cách mạng Pháp, Hồ
Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng của các nhà khai sáng: Vônte (Voltaire), Rútxô
(Rousso), Môngtexkiơ (Moutesquieu). Đặc biệt, Người chịu ảnh hưởng sâu sắc về
tư tưởng tự do, bình đẳng của Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của
Đại cách mạng Pháp. Về tư tưởng dân chủ của cách mạng Mỹ, Người đã tiếp thu
giá trị về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của Tuyên ngôn
độc lập năm 1776, quyền của nhân dân kiểm soát chính phủ. Người đã vận dụng và
phát triển các trào lưu tư tưởng, học thuyết ấy lên một trình độ mới phù hợp với
dân tộc và thời đại mới.
Ba là, Chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Leenin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất
TTHCM và tư tưởng của Người góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa M-L ở
thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập, tự do. CN M-L là nhân tố có
ảnh hưởng quyết định đến quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ một
người yêu nước trở thành người cộng sản là kết quả của sự tác động biện chứng
giữa mối quan hệ cá nhân với dân tộc và thời đại trong con người Hồ Chí Minh.
Đối với chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã nắm vững cái cốt lõi, linh
hồn sống của nó, là phương pháp biện chứng duy vật; học tập lập trường, quan
điểm, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lênin để giải quyết các vấn đề
thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Thế giới quan và phương pháp luận Mác 3


Lênin đã giúp HCM nhìn nhân, đánh giá, phân tích, tổng kết các học thuyết, tư
tưởng, đường lối các cuộc cách mạng một cách khoa học; cùng với kinh nghiệm

hoạt động thực tiễn của mình để đề ra con đường cách mạng giải phóng dân tộc
đúng đắn.
Chủ nghĩa Mác- Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất tư
tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh khẳng định: "Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta,
những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái "cẩm nang"
thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường
chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản".
Sự vận dụng và phát triển CM M-L ở HCM nổi lên một số điểm đáng chú ý:
Một là, HCM đã tiếp thu CN M-L như một lẽ tự nhiên "tất yếu khách quan
và hợp quy luật". CN M-L là bộ phận văn hóa đặc sắc nhất của nhân loại: tinh túy
nhất, cách mạng nhất, triệt để nhất, khoa học nhất.
Hai là, Nguyễn Ái Quốc đến với CN M-L là tìm con đường giải phóng dân
tộc.
Ba là, người vận dụng CN M-L theo phương pháp mác-xít và theo tinh thần
phương Đông, không sách vở, không kinh viện, không tìm kết luận có sẵn mà tự
tìm ra giải pháp riêng, cụ thể cho cách mạng VN.
Bốn là, Trí tuệ và khả năng hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hồ Chí
Minh
Lý luận tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, do con người
sáng tạo ra trên cơ sở nhận thức các nhân tố khách quan.
- Khả năng tư duy trí tuệ của HCM
Ngay từ khi còn trẻ, HCM đã có hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu
lòng nhân ái và sớm có chí cứu nước, tự tin vào mình. Tư chất thông minh, tư duy
độc lập, sáng tạo, tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới là những đức tính dễ
nhận thấy ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Phẩm chất đó được rèn luyện,
phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Chính quá trình hoạt
động thực tiễn của Hồ Chí Minh ở trong nước và khi còn bôn ba khắp thế giới để
học tập, nghiên cứu và hoạt động đã làm cho Người có một hiểu biết sâu sắc về dân
tộc và thời đại, nhất là thực tiễn phương Đông để xem xét, đánh giá và bổ sung cơ
sở triết lý phương Đông cho học thuyết Mác - Lênin.

- Nhân cách phẩm chất đạo đức
Nhân cách, phẩm chất, tài năng của Hồ Chí Minh đã tác động rất lớn đến sự
hình thành và phát triển tư tưởng của Người. Đó là một con người sống có hoài
bão, có lý tưởng, yêu nước, thương dân, có bản lĩnh kiên định, có lòng tin vào nhân
dân, khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi, nhạy bén với cái mới, thông minh, có hiểu
4


biết sâu rộng, có phương pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn, v.v.. Chính nhờ vậy,
Người đã khám phá sáng tạo về lý luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới,
xây dựng được một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc và sáng tạo về cách
mạng Việt Nam, đã vượt qua mọi thử thách, sóng gió trong hoạt động thực tiễn,
kiên trì chân lý, định ra các quyết sách đúng đắn và sáng tạo, biến tư tưởng thành
hiện thực cách mạng.
- Năng lực tổng kết thực tiễn
Từ hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã khám phá quy luật vận động xã hội,
đời sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể của các
quốc gia và thời đại mới để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động
thực tiễn, qua kiểm nghiệm của thực tiễn để hoàn thiện, làm cho lý luận có giá trị
khách quan, tính cách mạng và khoa học.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng hòa và phát triển
biện chứng tư tưởng văn hóa truyền thống của dân tộc, tinh hoa tư tưởng văn hóa
của phương Đông và phương Tây với chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng, cùng với
thực tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của Hồ Chí Minhmột con người có tư duy sáng tạo, có phương pháp biện chứng, có nhân cách, phẩm
chất cách mạng cao đẹp tạo nên.
Vận dụng quá trình học tập TTHCM trong thời kỳ đổi mới?
* TTHCM soi sáng con đường giải phóng và phát triển dân tộc
- Là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại, nó trường tồn, bất
diệt, là tài sản vô giá của dân tộc ta . Nhận thức của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh

được nêu tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục được làm rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là
một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa MácLênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô
cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
+ TTHCM đã đáp ứng nhiều vấn đề của thời đại, của sự nghiệp cách mạng
Việt Nam và thế giới đặt ra.
+ TTHCM thể hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênỉn
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
+ TTH.CM đã được kiểm nghìệm trong thực tiễn là cơ sở cho thắng Ịợi của
5


cách mạng Việt Nam.
+ Tư tưởng và tấm gương vì nước -quên thân, vì dân phục vụ của Hồ Chí
Minh là đức sáng ngời để mọi người học tập và làm theo
- Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt
Nam
+ TTHCM soi đường cho Đảng và nhân dân ta trên, con đường thực hiện mục
tiêu - dân giàu, nước mạnh, xãhộí công bằng, dân chủ văn minh.
+ TTHCM là nền tảng vững chắc để Đảng ta vạch ra đựờng lối. cách mạng
đúng đắn là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đi đến
thắng lợi.
Trong quá trình học tập cần phải:
- Nâng cao năng lực tư duy lý luận, và phương pháp công tác
+ Thông qua học tập chúng ta nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của
TTHCM đối với đời sống cách mạng Việt Nam, làm cho tư tưởng của Người ngày
càng giữa vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam.

+ Thông qua hộc tập, nghiên cứu TTHCM để bồi dưỡng, củng cố cho mỗi
chúng ta lập trường quan điểm cách mạng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin,
TTHCM; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tích
cực, chủ động đấu trarih phê phán những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác
- Lênin, TTHCM, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nựớc ta; biết vận dụng TTHCM vào giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống,
- Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng và rèn luyện bản lĩnh chính trị
+ Học tập TTHCM giúp chúng ta nâng cao lòng tự hào về Người, về Đảng
Cộng sản, về Tổ quốc Việt Nam, tự nguyện sống, chiến đấu, lao động và học tập
theo gương Bác Hồ vĩ đại:
+ Trên cơ sở kiến thức đã được học vận dụng vào cuộc sống, tu dựỡng, rèn
luyện bản thân, hoàn thành tốt chức trách của mình, đóng góp thiết thực và hiệu
qụả cho sự nghiệp cách mạng theo con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa
chọn.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là rộng lớn, bao la, không chỉ trong xây dựng
Đảng mà trên tất cả các lĩnh vực của đời sống văn hóa, tinh thần, xã hội, trong các
mối quan hệ... Vì vậy không thể một lúc, một thời gian ngắn mà chúng ta có thể
học được tât cả tư tưởng của Người. Thiết nghĩ, học tập tư tưởng đạo đức của Hồ
Chí Minh phải tự học, tự rèn luyện suốt đời, học mọi lúc, mọi nơi và trong mọi việc
làm của mình.
Câu 2: Đồng chí hãy phân tích nội dung Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối
6


quan hệ độc lập dân tộc gắn liền với CNXH? Liên hệ việc vận dụng nội dung
này trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước hiện nay?
Trả lời:
* Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
- Độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thực sự
Hồ Chí Minh khẳng định, nhân dân Việt Nam kiên quyết đấu tranh cho độc lập

thống nhất, chủ quyền, con người, toàn vẹn lãnh thổ. Theo Người, một dân tộc độc
lập thực sự, tức là các quyền dân tộc cơ bản phải được đảm bảo; dân tộc đó phải có
các quyền tự quyết trên tất cả các lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Nói tóm lại, Việt
Nam độc lập thật sự phải trên nguyên tắc nước Việt Nam của người Việt Nam.
- Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng của dân tộc
Hồ Chí Minh khẳng định, mỗi dân tộc trên thế giới đều có quyền được hưởng
độc lập, tự do. Mỗi công dân của một nước độc lập có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo
vệ quyên độc lập thiêng liêng của dân tộc. Bởi vậy, bất kể thé lực nào vi phạm
quyền độc lập thiêng liêng của Việt Nam đều bị đánh trả và bị quét sạch ra khỏi bờ
cõi Việt Nam. Bất kể người Việt Nam nào bán rẻ quyền độc lập thiêng liêng của
dân tộc đều bị trừng trị trước pháp luật.
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với hòa bình
Theo Hồ Chí Minh, chỉ có độc lập dân tộc thật sự mới có một nền hòa bình
chân chính; và chỉ có hòa bình chân chính mới có độc lập dân tộc hoàn toàn, không
thể có độc lập dân tộc thực sự, khi đất nước còn có sự lệ thuộc, hoặc có sự hiện
diện của quân đội nước ngoài.
Trong thực tiễn, Hồ Chí Minh luôn tiêu biểu cho ý chí độc lập, tự do, khát vọng
hòa bình của dân tộc. Người luôn tìm mọi cách để đẩy lùi chiến tranh, cứu văn hòa
bình, giữ gìn độc lập dân tộc.
- Độc lập dân tộc phải đi tới tự do hạnh phúc của nhân dân
Hồ Chí Minh đặt vấn đề, nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh
phúc tục do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Theo Người, dân chỉ biết rõ giá
trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Bởi vậy, khi nước Việt Nam
giành được độc lập từ tay đế quốc, Hồ Chí Minh đòi hỏi Chính phủ cách mạng phải
đi đến làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, được học hành. Người cho rằng, phải
thực hiện thành công bốn điều đó, để dân nước ta xứng đáng với tự do, độc lập và
giúp sức cho tự do, độc lập.
* Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
- Về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội
7



+ Về kinh tế: Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân
lao động.
+ Về chính trị: Là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước phải phát
huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của
nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nhĩa xã hội là công trình
tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Về văn hóa: là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, tron đó người
với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp
bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để
phát triển hết khả năng sẵn có của mình.
+ Về xã hội: là một xã hội công bằng hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, không làm thì không hưởng, các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được
giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi. Hoà bình, hữu nghị với các dân tộc trên thế giới.
- Về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
+ Là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội sau khi được nhận thức để đạt tới trong quá
trình xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội.
+ Theo Người: mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là:
Về chế độ chính trị, xây dựng chế độ do nhân dân là chủ và làm chủ. Nhân dân
thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
Về kinh tế: Xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông
nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến, được tạo lập trên cơ sở sở hữu công
cộng về tư liệu sản xuất. Nhưng ở thời kỳ quá độ vẫn tồn tại nhiều hình thức sở
hữu. Từ nông nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội thì tất yếu phải thực hiện công nghiệp
hóa.
Về văn hóa: phát triển văn hóa là mục tiêu quan trọng của chủ nghĩa xã hội,

thậm chí cần đi trước để dọn đường cho cách mạng công nghiệp. Bởi vậy, cán bọ
phải có văn hóa làm gốc, công nhân và nông dân phải biết văn hóa.
Về quan hệ xã hội: xây dựng cho được mối quan hệ tốt đẹp giữa người với
người. Hồ Chí Minh căn dặn: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa”. Thực hiện công bằng xã hội là tạo ra động lực
cho chủ nghĩa xã hội. Và để tạo động lực cho chủ nghĩa xã hội, còn cần phải sử
dụng vai trò điều chỉnh của các nhân tố về chính trị, văn hóa, đạo đức, pháp luật.
* Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội
- Độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội
8


Thứ nhất, độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết
Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng XHCN. Trong cách mạng dân tộc dân chủ
có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng
đầu, nhiệm vụ dân chủ được rải ra thực hiện từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải
phóng dân tộc. Vì thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là
mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách. Kết luận này được HCm rút ra từ sự phân
tích tình hình thực tế và những mâu thuẫn khách quan tồn tại của xã hội VN thuộc
địa nửa phong kiến.
Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân
chủ. Đó là nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập
giả hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập
phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; độc lập
dân tộc bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao
động. Theo Hồ Chí Minh, để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội,
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải được thực hiện một cách triệt để, "đến
nơi". Đó là một nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn không lệ thuộc vào bất cứ lực
lượng nào cả về đối nội, lẫn đối ngoại. Hồ Chí Minh nhiều lần phê phán sự lệ thuộc về

mọi mặt của những chính quyền do thực dân cũ và mới lập nên ở Việt Nam. Người
gọi đó là độc lập giả hiệu, độc lập kiểu Mỹ.
Cách mạng VN thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Điều đó quyết định vai trò
lãnh đạo cách mạng tất yếu thuộc về giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó
là ĐẢng Cộng sản VN. Lực lượng tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc là toàn
dân VN yêu nước mà nòng cốt là khối liên minh công - nông - trí thức. Những nhân
tố này lại quy định tính tất yếu dẫn đến phương hướng phát triển lên CNXH của
cách mạng giải phóng dân tộc. Rõ ràng định hướng đi lên CNXH của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở VN được chi phối và chế định bởi các nhân tố bên
trong của cuộc cách mạng đó.
Để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đối với Việt Nam, một đòi
hỏi có ý nghĩa sống còn là độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, Bắc
- Trung - Nam là một khối thống nhất không thể phân chia, đồng bào Kinh, Mường,
Thái, Êdê, Bana… đều là con dân nước Việt, là con Rồng cháu Tiên. Đó là quan điểm
nhất quán, mang tính nguyên tắc của Hồ Chí Minh. Không duy trì và phát triển được
khối thống nhất đó thì không thể có độc lập dân tộc, càng không thể nói đến việc tạo
cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Để tiến lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi độc lập dân tộc phải đi đôi với tự do hạnh
phúc của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh "nếu nước được độc lập mà người dân
không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì".
9


Thứ hai, độc lập dân tộc là tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi đó là
mục tiêu cuối cùng của cách mạng VN. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập
để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn với CNXH. Độc lập dân tộc là
mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết
của quá trình cách mạng VN do ĐẢng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện

hàng đầu, quyết định để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai
đoạn kế tiếp - cách mạng XHCN. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để
thì những điều kiện tiến lên CNXH càng được tạo ra đầy đủ. Tính chất tạo tiền đề
của cách mạng dân tộc dân chủ được thể hiện:
- Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do giai cấp
công nhân lãnh đạo.
- Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất xã hội
chủ nghĩa, từng bước cải thiện đời sống nhân.
- Về văn hoá, xã hội, đời sống tinh thần: trong cách mạng dân tộc dân chủ, khối
quần chúng công - nông - trí thức và các tầng lớp xã hội khác có ý thức giác ngộ,
đoàn kết trong một mặt trận dan tộc thống nhất; những nhân tố mới của văn hoá,
giáo dục đã được hình thành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Tóm lại, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết
định con đường đi tới CNXH, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Theo tư tưởng
Hồ Chí Minh, trong thời đại mới, chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu
của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Điều này làm cho con đường cứu nước,
giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh khác biệt về chất so với con đường cứu nước
những năm dầu thế kỷ ở nước ta và nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới.
- Chủ nghĩa xã hội với độc lập dân tộc:
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu của độc lập dân tộc
Cách mạng tháng Mười Nga mở ra thời đại mới, các nước đấu tranh giành độc
lập dân tộc thắng lợi có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là con đường
cách mạng triệt để nhất, hợp với xu thế thời đại, Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong
thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của
cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng giải phóng dân tộc phải
phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn
toàn”.
Chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất có thể giải phóng triệt để dân tộc khỏi
thân phận nô lệ, bất công xã hội, bất bình đẳng giai cấp, đói nghèo và ngu dốt, giải

phóng triệt để con người, đem lại tự do hạnh phúc cho toàn dân. Hồ Chí Minh đã
10


khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Thứ hai, CNXH là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng
dân tộc một cách hoàn toàn triệt để.
Về lý luận, độc lập dân tộc tiến lên CNXH thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu
trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn của một quá trình
cách mạng. Lôgíc lịch sử khách quan cho thấy: thực hiện mục tiêu trước mắt là
điều kiện tiên quyết để đi tới mục tiêu cuối cùng và chỉ thực hiện được mục tiêu
cuối cùng thì mục tiêu trước mắt mới củng cố vững chắc một cách hoàn toàn, triệt
để. Giữa hai giai đoạn cách mạng không có bức tường ngăn cách, cách mạng dân
tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề cho cách mạng XNCH, cách mạng XHCN khẳng
định và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no,
hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi
của cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không
rơi vào lệ thuộc, đói nghèo, lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên
CNXH. Do những đặc trưng nội tại của mình, CNXH sẽ củng cố những thành quả
đã giành được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để bảo đảm cho độc
lập và phát triển dân tộc.
Tư tưởng độc lập của Hồ Chí Minh mang một nội dung sâu sắc, triệt để: độc lập
tự do, ấm no, hạnh phúc. CNXH không chỉ củng cố những giá trị nêu trên, mà còn
làm phong phú thêm về mặt nội dung, xác lập các điều kiện để hiện thực hoá các
nội dung đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng XHCN mới
bảo đảm cho một nền độc lập thực sự, chân chính.
Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng, cả cách mạng giải phóng dân tộc và cách

mạng xã hội chủ nghĩa là việc khó, là cuộc đấu tranh gay go, ác liệt, lâu dài. Giành
độc lập dân tộc đã khó, xây dựng chủ nghĩa xã hội còn khó khăn hơn. Hồ Chí Minh
so sánh: thắng đế quốc phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng lạc hậu khó
khăn hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Đánh đổ giai cấp địch đã khó, đấu tranh xây
dựng chủ nghĩa xã hội còn gian khổ, khó khăn hơn nhiều". Từ những khó khăn gian
khổ ấy, Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân phải kiên trì
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
* Liên hệ việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐLDT gắn với CNXH
trong điều kiện hiện nay.
Độc lập dân tập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị
đúng đắn, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con đường cách mạng mà
Người đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng được yêu cầu của dân tộc và khát vọng của
11


quần chúng nhân dân là giành lấy độc lập, tự do, ấm no và hạnh phúc, giải phóng
cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế
quốc và bè lũ tay sai. Sự gắn kết giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng
chính là con đường tất yếu khách quan, hợp với quy luật phát triển của đất nước,
hợp lòng người. Đó là sự lựa chọn của Đảng, Bác Hồ và cũng chính là sự lựa chọn
của nhân dân, của lịch sử.
Sau 30 năm đổi mới đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định ” năm vững ngọn cờ
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là lựa chọn đúng dắn cho hôm nay và
mai sau. Đây là điều kiện kiên quyết cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Chúng ta biết hiện nay tình hình thế giới và trong nước đã có những điều
kiện mới vừa là cơ hội cũng là những thách thức to lớn với đất nước ta.
Trước hết về bối cảnh thế giới
- Sự phát triển mạnh mãnh của khoa học, công nghệ có thể điểm qua một

số thành tựu như
+ Trong lĩnh vực khoa học cơ bản đã đạt được những phát minh to lớn trong
Toán học, Vật lí, Hóa học và Sinh học. Dựa vào những phát minh to lớn của các
ngành khoa học cơ bản, con người đã ứng dụng vào kĩ thuật và sản xuất để phục
vụ cuộc sống của mình.
+ Những phát minh to lớn về những công cụ sản xuất mới, trong đó có ý nghĩa
quan trọng bậc nhất là sự ra đời của máy tính điện tử, máy tự động và hệ thống
máy tự động.
+ Trong tình trạng các nguồn năng lượng thiên nhiên đang ngày càng cạn kiệt,
con người đã tìm ra được những nguồn năng lượng mới như năng lượng nguyên
tử, năng lượng gió, năng lượng mặt trời,... trong đó năng lượng nguyên tử ngày
càng được phổ biến và được sử dụng rộng rãi.
+ Sáng chế ra những vật liệu mới trong tình hình các vật liệu tự nhiên đang cạn
dần trong thiên nhiên. Chất pô-li-me đang giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong đời
sống hàng ngày của con người cũng như trong các ngành công nghiệp.
- Xu thế quốc tế hóa ngày càng phát triển
+ Ngày nay, xu thế quốc tế hoá và toàn cầu hoá là xu thế chung của các nước,
các khu vực và toàn thế giới. Các nước ngày càng phát triển thì càng phụ thuộc lẫn
nhau nhiều hơn trên tinh thần hợp tác bình đẳng, tôn trọng chủ quyền và cùng có
lợi.
+ Xu thế quốc tế hóa các lĩnh vực khác như du lịch, giáo dục, y tế,.. có xu
hướng phát triển
- Chủ nghĩa tư bản tiếp tục điều chỉnh và ra sức chống phá chủ nghĩa, XH
12


+ Quan hệ sở hữu cũng có những thay đổi, biểu hiện nổi bật là sự phân tán
quyền nắm cổ phiếu tăng lên. Phân tán hóa quyền khống chế cổ phiếu có lợi cho cải
thiện quan hệ giữa chủ xí nghiệp và công nhân
+ Kết cấu giai cấp cũng đã có những biến đổi lớn, các giai cấp, tầng lớp,

đoàn thể xã hội và tập đoàn cùng tồn tại và tác động lẫn nhau. Nổi bật nhất là sự
xuất hiện của tầng lớp trung lưu (hay còn gọi là giai cấp trung sản), chiếm khoảng
40-50% dân số. Trên thực tế, phần lớn trong số này có cổ phiếu hoặc một phần vốn,
rất nhiều trong số họ là phần tử tri thức hoặc nhân viên chuyên ngành, có địa vị
nghề nghiệp khá tốt, đã không còn là giai cấp vô sản theo quan niệm truyền thống
nữa.
+ Cùng với sự tăng trưởng của sản xuất và sựđiều chỉnh về quan hệ sản xuất,
thu nhập bằng tiền lương của người lao động cũng có được mức tăng trưởng khá
lớn.
Tất cả những điều này cho thấy, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản chủ
nghĩa vẫn tồn tại nhưng nhờ những điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản về quan hệ sản
xuất, mà bắt nguồn từ những thay đổi trong quan hệ sở hữu khiến mâu thuẫn trong
chủ nghĩa tư bản bớt gay gắt…
Chống phá chủ nghĩa TB thể hiện:
Diễn biến hòa bình
+ Sử dụng mọi thủ đoạn phi quân sự, kết hợp với răn đe quân sự để ngầm
phá từ bên trong, tạo ra các lực lượng chính trị đối lập núp dưới chiêu bài tự do,
dân chủ, nhân quyền…….
+ Kích động các mâu thuẫn tôn giáo, dân tộc, sắc tộc. VD Thái Hà Hà Nội…
+ Triệt để khái thác và lợi dụng những khó khăn, sai sót của của một bộ
phận các bộ nhà nước, tạo nên sức ép ngày càng lớn buộc lãnh đạo nhà nước phải
từng bước chuyển hoá, thay đổi đường lối chính trị, nhường quyền lãnh đạo cho lực
lượng đối lập…
Trong nước:
- Chủ trương hội nhập quốc tế của Đảng ta.
Đảng ta khẳng định thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; là bạn, là đối tác tin cậy và
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà
bình, độc lập dân tộc...

-Những khó khăn tồn tại trong nước và sự chống phá của kẻ thù.
Vì vậy, vận dụng tư tưởng HCM về độc dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
13


hội trong sự nghiệp đổi mới hiện nay chúng ta cần phải.
- Kiên định giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
trong điều kiện mới và trong bất kỳ tình huống nào.
Đây là con đương duy nhất đúng đắn cả trên bình diện lý luận và thực tiễn,
phù hợp với thời đại
- Giữ vững định hướng, đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
- Tăng cường vai trò lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng. Kết hợp chặt
chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tình hình mới.
- Đấu tranh kiên quyết với nhũng quan điểm sai trái về vấn đề này.
Thực hiện tốt trách nhiệm cá nhân trong công tác, công việc, thực hiện phê và
tụ phê thường xuyên không ngừng đúc rút nâng cao trách nhiệm cùa cá nhân trong
công cuộc cách mạng hiện nay.
Câu 3: Phân tích quan điểm của HCM về phương pháp thực hiện đại đoàn
kết dân tộc? Liên hệ.
Trả lời:
Trình bày quan điểm cơ bản trong tư tưởng đại đoàn kết HCM?
Một là: Quan niệm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là một hệ thống các luận điểm về vị trí,
vai trò, nội dung, nguyên tắc, phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng cách mạng,
nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của dân tộc, của quốc tế trong sự
nghiệp đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Năm 1942, CTHCM đã đúc kết kinh nghiệm: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn
người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì
bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc

chắn thêm lên mãi dưới ngọn cờ Việt Minh để đánh đuổi Tây – Nhật, khôi phục lại
độc lập tự do”.
Hai là: Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của đại đoàn kết
trong cách mạng Việt Nam
Đại đoàn kết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là nhân tố cơ bản quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam
- Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh là một tư tưởng cơ bản, nhất quán,
xuyên suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam.
Với cương vị là lãnh tụ tối cao của Đảng và của dân tộc, đứng đầu Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 24 năm liền, Người đã tập hợp, quy tụ được các dân
14


tộc, các giai cấp, tầng lớp, đảng phái, tôn giáo, nhân sĩ trí thức yêu nước, đồng bào
trong nước và kiều bào ở nước ngoài, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong
suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người đã trở thành linh hồn của khối đại đoàn kết dân
tộc ngày càng rộng rãi và bền vững. Đại đoàn kết dân tộc rõ ràng là một nội dung
xuyên suốt trong tư tưởng cũng như trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã thể hiện tư tưởng đại đoàn kết
khá rõ nét, Người viết trong Thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp: “Đối với tôi
câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ,
đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”; 1924, Người
phát biểu: “chủ nghĩa dân tộc là một động lực của đất nước”, luận điểm này thể
hiện rõ nhận thức của Người về vai trò của khối đại đoàn kết dân tộc: “Chủ nghĩa
dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế
năm 1908, nó dạy cho những người culi biết phản đối, nó làm cho những người
“nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc
đã thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung
Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khoá, làm cho những nhà cách mạng trốn

sang Nhật Bản, làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917”. Năm 1925, tại
Quảng Châu, NAQ mở lớp huấn luyện chính trị, lập ra Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên, ra báo “Thanh niên” và xác định: “Cách mệnh là một công việc to.
Muốn thành đạt, người cách mạng phải đoàn kết lại!”. Trong tác phẩm “Đường
cách mệnh” (1927) và sau đó đến Chính cương, Sách lược vắn tắt và các văn kiện
của Hội nghị hợp nhất (1930), Người đều nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề đại
đoàn kết. Thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939), trong thư góp ý kiến với Đảng về
Mặt trận dân chủ, Người nhắc nhở việc phải thu hút tư sản dân tộc, các nhân sĩ dân
chủ, tiến bộ vào mặt trận, “tránh hết sức để họ ở ngoài mặt trận, vì như thế là đẩy
họ vào tay bọn phản động, là tăng them lực lượng cho chúng. Năm 1941, khi về
nước Người trực tiếp lãnh đạo cách mạng, thành lập Mặt trận Việt Minh, đề ra khẩu
hiệu đoàn kết toàn dân. Sau này có các mặt trận xuất hiện, như: Hội liên hiệp quốc
dân Việt Nam (1946), Mặt trận Liên Việt (1951), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
(1955) và các tổ chức mặt trận ở miền Nam Việt Nam, như: Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam (1960), Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và
hòa bình Nam Việt Nam.
- Đại đoàn kết luôn là vấn đề sống còn của cách mạng, là chiến lược bất di
bất dịch.
Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh là một phạm trù rất rộng, bao hàm
nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ khác nhau: từ nhỏ đến lớn, từ vi mô đến vĩ mô, từ thấp
đến cao, từ trong ra ngoài… Có thể tiếp cận, lý giải phạm trù đại đoàn kết Hồ Chí
Minh từ nhiều góc độ khác nhau: Từ cơ cấu lực lượng đại đoàn kết (giai tầng xã
hội- ngành- giới- lứa tuổi…, từ địa bàn đại đoàn kết (nông thôn – thành thị, miền
15


ngược – miền xuôi, xã – huyện – tỉnh – toàn quốc), từ phạm vi đại đoàn kết (gia
đình, tập thể, dân tộc, khu vực, quốc tế).
Thực tế cho thấy, cách mạng muốn thành công thì cần phải có lực lượng. Đó
là lực lượng của toàn thể giai tầng trong xã hội. Nếu không có được sức mạnh to

lớn của nhân dân thì cách mạng khó có thể thành công được.
Đại đoàn kết là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng cách mạng
- Đại đoàn kết là mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng cách mạng.
Các phong trào đấu tranh chống Pháp trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời đều thất bại; nguyên nhân thất bại là do các sĩ phu, văn thân lãnh đạo, thiếu
đường lối cứu nước, chưa có bộ chỉ huy thống nhất bị phân tán lực lượng chưa huy
động sức mạnh của toàn dân tộc.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng. Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là động lực của các cuộc
cách mạng xã hội. Đó là một chân lý. Hồ Chí Minh không những nhận thức sâu sắc
chân lý đó mà còn phát hiện ra rằng: sức mạnh của quần chúng chỉ có thể phát huy
đầy đủ, đúng đắn khi có sự lãnh đạo của một "đảng cách mạng" chân chính. Người
khẳng định: muốn làm cách mạng thì "Trước hết phải có Đảng cách mạng, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và
vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy".
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt
Nam ngày 3/3/1951, HCM thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: Mục
đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm 8 chữ là: đoàn kết toàn dân, phụng
sự tổ quốc.
Khi nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi về cách mạng XHCN, Người
chỉ rõ: Trước cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn
là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là
làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục
đích tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng CNXH. Ba là
đấu tranh thống nhất nước nhà.
Quan niệm này không chỉ có giá trị trong thời điểm của HCM mà quan niệm
này đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Có thể nói, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là
mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục đích nhiệm vụ hàng đầu của

dân tộc. Như vậy, đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản thân
quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, là sự nghiệp của quần
chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng
dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi
16


hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu
tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
- Nhiệm vụ đầu tiên của Đảng cách mạng là tập hợp, đoàn kết rộng rãi các
tầng lớp nhân dân, hình thành nên khối đại đoàn kết dân tộc to lớn, mạnh mẽ.
Nói về đoàn kết rộng rãi và lâu dài, Người khẳng định: Đoàn kết của ta
không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc,
không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và
độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức,
có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
Đánh giá về Mặt trận dân tộc thống nhất, 1962 Hồ Chí Minh đã nêu rõ: Đoàn
kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám thành
công, lập nên nước VNDCCH.
Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập
lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc
Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta giành được thắng lợi
trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo XHCN và trong sự nghiệp xây dựng
CNXH ở miền Bắc
Về Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, Người đã khẳng định: Một Mặt
trận của nhân dân đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi là một lực lượng tất thắng. Hiện
nay…đồng bào miền Nam cũng có Mặt trận dân tộc giải phóng với chương trình
hoạt động thiết thực và phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Do đó,
có thể đoán rằng đồng bào miền Nam nhất định sẽ thắng lợi, nước nhà nhất định sẽ
thống nhất, Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.

Vấn đề: Nội dung đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Thứ nhất, lực lượng đoàn kết dân tộc
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân” chỉ mọi con dân đất Việt, con rồng cháu
tiên, không phân biệt dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng,
không phân biệt già trẻ , gái, trai, giàu, nghèo. Nói dến đại đoàn kết dân tộc cũng có
nghĩa phải tập hợp mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người
đã nhiều lần nói rõ: “ ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập tổ quốc; ta
còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng
sự tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân
dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao
động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của
cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tần lớp nhân dân khác”.
Bất kỳ ai thật thà tán thành hòa bình, độc lập, dân chủ thì chúng ta đều thật thà
đoàn kết với họ.
17


Thứ hai, Hình thức tổ chức đại đoàn kết dân tộc
- Về xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, Hồ Chí minh yêu cầu:
Một là, Mặt trận phải lấy liên minh công nông trí thức làm nền tảng. Liên minh
công nông trí thức có vững, Mặt trận mới bền vững, lâu dài được. Đây là yếu tố
cần. Còn yếu tố đủ là Mặt trận phải đoàn kết với các tầng lớp yêu nước khác để mở
rộng tổ chức, mở rộng tổ chức, mở rộng khối đại đoàn kết.
Hai là, Mặt trận do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đảng lãnh đạo Mặt
trận bằng việc đề ra chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ, từng
giai đoạn của cuộc cách mạng, bằng phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục
thuyết phục; thông qua tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên. Đảng phải thể
hiện sự lãnh đạo đó theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ. Đảng tổ chức và xây
dựng Mặt trận phù hợp với từng thời kỳ.

- Về vai trò của Mặt trận:
Hồ Chí Minh nhận định: Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong
những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam. Người nêu rõ: “Đoàn kết trong
Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên
nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Đoàn kết tronng Mặt trận Liên – Việt, nhân dân
ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng
miền Bắc. Đoàn kết trong Mặt trận tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành được
thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”.
Thứ ba, Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc
- Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của
dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người:
Trong mỗi quốc gia dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp, giai cấp khác
nhau. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau nhưng tất cả các lợi ích
khác nhau đó đều có một điểm chung là lợi ích dân tộc. Quyền lợi của các tầng lớp,
giai cấp có thực hiện được hay không còn phụ thuộc vào dân tộc đó có được độc
lập tự do, có đoàn kết hay không và việc nhận thức, giải quyết đúng đắn các quan
hệ lợi ích đó như thế nào.
Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ đoàn kết, là
sức mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam. Đó
cũng là nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để Người tìm ra những
phương pháp để thực hiện nguyên tắc đó trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của
mình. Chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là chìa khóa vạn năng, điểm
hội tụ thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
18


- Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân

Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta được
Người kế thừa và nâng lên một bước trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch
sử.
Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng vững
chắc vào sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá đúng
vai trò của lực lượng nhân dân. Người viết: “Có lực lượng dân chúng việc to tát
mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có thì việc gì làm cũng không xong.
Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà
những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”.
Hồ Chí Minh cho rằng: Dân là gốc rễ, là nền tảng của đại đoàn kết. Dân là chủ
thể của khối đại đoàn kết. Dân là nguồn sức mạnh, vô tận, vô địch của khối đại
đoàn kết. Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng Cộng sản và hệ thống chính trị”.
- Đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đoàn kết rộng rãi,
lâu dài, bền vững
Đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đoàn kết trên lập trường vô sản, theo
ngọn cờ chủ nghĩa Mác Lê nin, đó là một tập hợp có tổ chức, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, nền tảng là khối liên minh công – nông – trí thức.
Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu
dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta
đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết
để xây dựng nước nhà”. Đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố. Nền
có vững nhà mới chắc chắn, gốc có tót thì cây mới tốt.
- Đại đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn theo nguyên tắc tự phê bình, phê
bình vì sự thống nhất bền vững
Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương
đồng còn có những điểm khác nhau cần phải giải quyết theo con đường đối thoại,
bàn bạc để đi đến sự nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những tiêu
cực cần phải khắc phục. Để giải quyết vấn đề này, một mặt Hồ Chí Minh nhấn
mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị”; mặt khác, Người nêu rõ: Đoàn kết phải gắn
với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết và căn dặn mọi người phải ngăn

ngừa tình trạng đoàn kết xuôi chiều, nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình để
biểu dương mặt tốt, khắc phục những mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết: “Đoàn kết
thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết
thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học hỏi những cái tốt của nhau, phê
bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”.
* Thứ tư: Phương pháp đại đoàn kết
19


Một là, phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục: tuyên
truyền, vận động, giáo dục thuyết phục nhằm thức tỉnh mọi người, để họ tự nguyện,
tự giác tham gia vào một tổ chức đoàn thể trong Mặt trận. Theo Hồ Chí Minh, nội
dung tuyên truyền phải vừa đáp ứng những nguyện vọng, quyền lợi cơ bản của mỗi
dân tộc, mỗi quốc gia, vừa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cách mạng. Tùy
theo hoàn cảnh và yêu cầu cụ thể của từng giai đoạn cách mạng, Đảng đề ra những
mục tiêu chiến lược phản ánh đúng những đòi hỏi cấp bách của lịch sử, những khát
vọng cháy bỏng của nhân dân. Đảng còn phải đề ra nội dung tuyên truyền, vận
động sát hợp với từng đối tượng, từng cộng đồng xã hội.
Hai là, Phương pháp tổ chức: Muốn xây dựng, củng cố đại đoàn kết, theo Hồ Chí
Minh cần phải có phương pháp tổ chức khoa học. Đó là phương pháp xây dựng,
củng cố, phát triển hệ thống chính trị, bao gồm: Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân. Đảng phải là một tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật tự giác; đảng viên
là người đầy tớ trung thành của nhân dân, phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Để Nhà nước đề ra chính sách thực hiện
đại đoàn kết đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và phù hợp với thực tiễn. Hồ Chí
Minh yêu cầu Mặt trận và các đoàn thể nhân dân: Cương lĩnh đề ra phải thiết thực,
ngắn gọn, rõ ràng, hình thức tổ chức phải phong phú, đa dạng, phù hợp với trình độ
nhận thức của quần chúng; cán bộ phải óc nghĩ, chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng
nói, tay làm; phải làm tốt công tác dân vận.
Ba là, phương pháp xử lý và giải quyết các mối quan hệ: Là phương pháp xử lý

khoa học mối tương quan ba chiều giữa: Cách mạng – trung gian – phản cách
mạng, nhằm mở rộng đến mức cao nhất trận tuyến cách mạng và thu hẹp đến mức
thấp nhất trận tuyến thù địch. Đối với lực lượng cách mạng: Khai thác, phát huy
những điểm thống nhất, tương đồng; hạn chế, khắc phục tiến tới xóa dần những
điềm khác biệt về mục tiêu, lợi ích. Sự đoàn kết, thống nhất của lực lượng cách
mạng là điều kiện tiên quyết giúp cho cách mạng thành công. Đối với lực lượng
trung gian: xóa bỏ mọi thành kiến, mặc cảm, khơi gợi, cổ vũ ý thức dân tộc, tinh
thần yêu nước, chân thành hợp tác, trọng dụng những người có tài, có đức ra giúp
dân, giúp nước. Đối với lực lượng phản cách mạng: chủ động kiên quyết tiêu diệt
trên cơ sở phân hóa cô lập chúng cao độ; chú ý khai thác mâu thuẫn trong nội bộ kẻ
thù, lôi kéo những người có thể tranh thủ được; toạm hòa hoãn có nguyên tắc với
những lực lượng, bộ phận có thể hòa hoãn được.
Vấn đề: Trình bày quan điểm, nguyên tắc và biện pháp thực hiện đại
đoàn kết theo tư tưởng HCM trong sự nghiệp đổi mới?
Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển tư tưởng đại đoàn kết Hồ
Chí Minh trong điều kiện hiện nay
Tư tưởng đại đoàn kết HCM đã được Đảng Cộng sản Việt Nam quán
triệt, vận dụng thể hiện trong các Văn kiện Đại hội đại bểu toàn quốc của Đảng.
20


- Đại hội VI (1986)
- Đại hội VII (1991)
- Đại hội VIII (1996)
- Đại hội IX (2001)
- Đại hội X (2006)
- Đại hội XI (2011)
Một số Nghị quyết chuyên đề về xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết dân
tộc, như Nghị quyết số 07/NQ-TW, ngày 17/11/1993 (Bộ Chính trị, khóa VII) về
Đại đoàn kết dân tộc và tăng cường MTDTTN; Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII

BCHTW Đảng khóa IX (1/2004) về Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ nhất: Quan điểm chỉ đạo đại đoàn kết
Một là, đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ba là, bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực,
chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hòa lợi
ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội; giữ gìn kỷ cương, chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí…
Bốn là, đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị
mà hạt nhân lãnh đạo là tổ chức Đảng.
Năm là, thực hiện nhất quán đường lối đoàn kết quốc tế độc lập tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển. Với phương châm: VN là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình phát triển.
Thứ hai: Nguyên tắc đại đoàn kết
Thứ nhất, đại đoàn kết toàn dân phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan
hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội.
Thứ hai, đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ ba, tin dân, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn
vướng mắc của nhân dân; làm tốt công tác dân vận.
Thứ tư, đoàn kết quốc tế phải trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của nhau; hợp tác bình đẳng và cùng có lợi.
Thứ ba: Biện pháp đại đoàn kết
21


* Xây dựng những chính sách nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân

tộc
- Những chính sách phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân.
- Chính sách đối với các giai cấp, tầng lớp xã hội.
+ Quan tâm, giáo dục đào tạo, bồi dưỡng, phát triển GCCN cả về số lượng và
chất lượng (Bản lĩnh chính trị; trình độ học vấn chuyên môn; kỹ năng nghề
nghiệp…).
+ Xây dựng, phát huy vai trò của GCND trong quá trình phát triển nông
nghiệp, nông thôn mới. Thực hiện có hiệu quả công cuộc xóa đói giảm nghèo.
+ Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước.
+ Tạo điều kiện xây dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh (trình độ
quản lý, đạo đức nghề nghiệp, đóng góp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc).
+ Làm tốt công tác giáo dục thế hệ trẻ.
+ Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ, tạo
điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của mình.
+ Phát huy truyền thống bộ đội Cụ Hồ của cựu chiến binh.
+ Quan tâm chăm sóc sức khỏe, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
người cao tuổi.
+ Thực hiện bình đẳng dân tộc, đoàn kết tương trợ giúp nhau cùng tiến bộ.
+Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
+ Tăng cường hợp tác, hữu nghị với đồng bào định cư ở nước ngoài, động
viên và tạo điều kiện cho họ tham gia đóng góp xây dựng đất nước.
* Xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh để Đảng thực sự là hạt
nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết dân tộc
Củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và trong từng tổ chức Đảng.
Đảng viên tiên phong gương mẫu làm nòng cốt trong các tổ chức nhân dân, động
viên nhân dân tham gia xây dựng Đảng.
* Phát huy mạnh mẽ vai trò của chính quyền trong việc thực hiện chính sách
đại đoàn kết dân tộc

Tiếp tục thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn, cụ thể hóa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”.
22


Hoạt động của các cơ quan nhà nước phải đặt nhiệm vụ phục vụ nhân dân
lên trên hết, giải quyết đúng và nhanh chóng các công việc có quan hệ trực tiếp đến
đời sống nhân dân.
Xây dựng phong cách và phương thức công tác của cán bộ, công chức, viên
chức phù hợp với đạo đức cách mạng và đáp ứng yêu cầu tăng cường khối đại đoàn
kết dân tộc.
* Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí,
vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
Mở rộng MTTQ, đa dạng háo các hình thức tập hợp nhân dân; hướng hoat5
động nhiều hơn về cơ sở, đến từng hộ dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải
đảo, vùng đặc biệt khó khăn…
* Tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân,
xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước
Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền; phát huy vai trò tích cực của các
phương tiện thong tin đại chúng; phát động sâu rộng các phong trào thi đua yêu
nước.
* Giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công
cuộc đổi mới; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
- Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền
vững.
- Củng cố tăng cường quan hệ với các Đảng Cộng sản, đảng công nhân, đảng
cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ thế giới.
- Phát triển quan hệ đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động, linh

hoạt, sáng tạo và hiệu quả”.
- Chủ động thham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người; kiên quyết
làm thất bại các âm mưu và hành động xuyên tạc nhằm can thiệp vào công việc nội
bộ, xâm phạm độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị
của Việt Nam
Tham khảo thêm phần liên hệ này:
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Trong thời gian qua, nhìn chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở
rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội, giữ vững ổn
23


định chính trị- xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong khi sự nghiệp đổi mới đang có
yêu cầu cao về tập hợp sức mạnh của nhân dân thì việc tập hợp nhân dân vào Mặt
trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh
tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ở một số vùng có đông
đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số...
Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay là: phải củng cố và tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn
dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Từ khi đất nước thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tiến
hành đổi mới, toàn diện đất nước, Đảng ta đã vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc phù hợp với tình hình mới. Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc
chuyển sức mạnh đoàn kết dân tộc trong thời kỳ dựng nước sang thời kỳ giữ nước
không phải là việc dễ dàng, lịch sử đang đòi hỏi những nỗ lực lớn của Đảng và Nhà
nước ta trong lĩnh vực này. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xu thế hiện nay

là hội nhập kinh tế quốc tế, một loạt vấn đề đặt ra mà chúng ta phải chú ý:
- Khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh nội lực, phải xuất phát từ lợi ích dân
tộc, từ phát huy nội lực dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi
khả năng có thể tranh thủ được để xây dựng, phát triển đất nước.
- Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, để khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao ý chí tự cường dân tộc,
trong chính sách đại đoàn kết, phải chú ý phát huy tính năng động của mỗi người,
mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, đến sản xuất kinh doanh, học tập và
lao động đều có năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao. Đồng thời, phải
khắc phục được những tiêu cực của kinh tế thị trường, đặc biệt là tâm lý chạy theo
đồng tiền, cạnh tranh không lành mạnh làm phai nhạt truyền thống đoàn kết, tình
nghĩa tương thân, tương ái của dân tộc và của Đảng.
- Điều quan trọng để phát huy nội lực dân tộc, phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc hiện nay là phải xây dựng được hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh. Phải chống các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn tham nhũng, quan liêu, vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân, phải biết lắng nghe những ý nguyện chính đáng
của nhân dân, phải kịp thời giải quyết những oan ức của nhân dân, làm cho lòng
dân được yên. Phải tiếp tục đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xã hội, đặc biệt
coi trọng việc xây dựng Mặt trận, đổi mới, hoàn thiện chính sách dân tộc, chính
sách tôn giáo, chính sách đối với công nhân, với nông dân, với trí thức, chính sách
đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, chính sách đối với các thành phần
kinh tế, tập hợp đến mức rộng rãi nhất mọi nhân tài, vật lực vào sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
24


- Trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa kinh tế
ngày càng phát triển, đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, phát huy tối đa nội lực dân tộc còn đòi hỏi phải củng cố sự đoàn kết với

phong trào cách mạng các nước, đồng thời phải nắm vững phương châm ngoại giao
mềm dẻo, có nguyên tắc nhằm thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại hiện nay
của Đảng và Nhà nước ta là: Việt Nam muốn là bạn và đối tác tin cậy với tất cả các
nước trong cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
Trong tình hình thế giới hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải có những chủ trương
đúng đắn, sáng tạo trong việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách, đẩy lùi nguy cơ,
để vừa nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, vừa giữ vững bản sắc dân tộc, giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát huy bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ nghĩa
yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế theo tư tưởng
Hồ Chí Minh, phải nhất quán coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể
tách rời của cách mạng thế giới, tiếp tục đoàn kết, ủng hộ các phong trào cách
mạng, các xu hướng và trào lưu tiến bộ của thời đại vì các mục tiêu hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực
và thế giới, Đảng, Nhà nước ta chủ trương nêu cao nguyên tắc độc lập tự chủ, tự
lực tự cường, chủ trương phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc- sức mạnh của chủ
nghĩa yêu n-ước, sức mạnh của người làm chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân,
trên cơ sở sức mạnh bên trong mà tranh thủ và tận dụng sự đồng tình, ủng hộ rộng
rãi của lực lượng bên ngoài.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hai bộ phận không thể tách
rời, tạo nên nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cáhc mạng
VN. Để làm cho nền tảng của Đ ngày một vững chắc, cách mạng VN không thể
chệch hướng, chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng sáng tạo, phát triển cũng như phải
đấu tranh bảo vệ cả chủ nghĩa M-L, lẫn tư tưởng Hồ Chí Minh. Thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH, hơn lúc nào hết đang đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người VN
cần có sự thống nhất, gắn bó chặt chẽ giữa nghiên cứu , học tập với vận dụng sáng
tạo và hành động theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Câu 4: Quan điểm của HCM về công tác cán bộ? Nội dung công tác cán

bộ? Liên hệ.
Trả lời:
25


×