Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

KHẢO SÁT KIẾN THỨC VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN VỀ NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ CỦA BÀ MẸ SAU SINH TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ NĂM 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA DƯỢC – ĐIỀU DƯỠNG

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH ĐIỀU DƯỠNG
MÃ SỐ: 51720501

KHẢO SÁT KIẾN THỨC VÀ MỘT SỐ YẾU
TỐ LIÊN QUAN VỀ NUÔI CON BẰNG SỮA
MẸ CỦA BÀ MẸ SAU SINH TẠI BỆNH VIỆN
ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ
NĂM 2017

Cán bộ hướng dẫn
Ths. NGHỊ NGÔ LAN VI

Sinh viên thực hiện
PHẠM THỊ DIỄM MY
MSSV: 13D720501025
LỚP: Đại học Điều Dưỡng 8

Cần Thơ, 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA DƯỢC – ĐIỀU DƯỠNG

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH ĐIỀU DƯỠNG
MÃ SỐ: 51720501


KHẢO SÁT KIẾN THỨC VÀ MỘT SỐ YẾU
TỐ LIÊN QUAN VỀ NUÔI CON BẰNG SỮA
MẸ CỦA BÀ MẸ SAU SINH TẠI BỆNH VIỆN
ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ
NĂM 2017
Cân bộ hướng dẫn
Ths. NGHỊ NGÔ LAN VI

Sinh viên thực hiện
PHẠM THỊ DIỄM MY
MSSV: 13D720501025
LỚP: Đại học Điều Dưỡng 8

Cần Thơ, 2017


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban Giám hiệu và các thầy, cô Trường Đại
học Tây Đô đã dìu dắt, dạy dỗ em trong bốn năm học vừa qua.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô khoa Dược–Điều Dưỡng, các anh chị
bác sĩ, điều dưỡng Khoa Phụ sản Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ đã quan
tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi giúp em hoàn thành tốt tiểu luận này.
Đặc biệt, em xin gửi lời biết ơn chân thành và sâu sắc đến cô Nghị Ngô Lan Vi,
người đã trực tiếp hướng dẫn cho em tận tình và sâu sắc trong suốt quá trình học tập và
làm tiểu luận. Được làm việc với Cô, được Cô hướng dẫn là món quà quý giá mà em
sẽ rất trân trọng.
Và cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cha Mẹ, gia đình, bạn bè,
những người luôn bên cạnh động viên giúp em có động lực phấn đấu để học tập và
hoàn thành tốt tiểu luận này.
Sinh viên thực hiện


Phạm Thị Diễm My

i


CAM KẾT KẾT QUẢ
Em cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em. Các số liệu, kết quả
nêu trong tiểu luận là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Ngày 25 tháng 05 năm 2017
Sinh viên thực hiện

Phạm Thị Diễm My

ii


TÓM TẮT
Kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ chính là tiền đề để bà mẹ đưa
ra các quyết định chọn lựa phương pháp nuôi dưỡng trẻ tốt nhất và phù hợp nhất cho
con mình. Việc đánh giá kiến thức và một số yếu tố liên quan về nuôi con bằng sữa mẹ
là cơ sở quan trọng nhằm nâng cao các hoạt động chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em
đồng thời đề ra các biện pháp thích hợp nhằm gia tăng tỷ lệ hiểu biết về nuôi con bằng
sữa mẹ. Chính vì thế, đề tài “Khảo sát kiến thức và một số yếu tố liên quan về nuôi
con bằng sữa mẹ của bà mẹ sau sinh tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ, năm
2017” được thực hiện với 2 mục tiêu cụ thể như sau:
1. Xác định tỷ lệ bà mẹ sau sinh có kiến thức đúng về nuôi con bằng sữa mẹ tại
Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ, năm 2017.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ của

bà mẹ sau sinh tại bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ, năm 2017.
Khảo sát trên 100 đối tượng nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang. Số
liệu được thu thập thông qua bộ câu hỏi tự điền được soạn sẵn.
Qua khảo sát, có 45% bà mẹ có kiến thức đúng chung về nuôi con bằng sữa mẹ.
Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về lợi ích của sữa non và lợi ích đối với mẹ đều chiếm
55%. Có 54% bà mẹ biết không nên cho trẻ uống nước trong 4–6 tháng đầu. Tỷ lệ bà
mẹ hiểu biết đúng về cách bảo vệ nguồn sữa mẹ là 65%. Tỷ lệ bà mẹ có hiểu biết đúng
về những dấu hiệu chứng tỏ trẻ ngậm bắt vú tốt là 58%. Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng
về thời gian cai sữa cho trẻ chỉ chiếm 39%. Có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
kiến thức đúng về nuôi con bằng sữa mẹ với tuổi, nơi cư trú, trình độ học vấn, nghề
nghiệp của các đối tượng nghiên cứu.
Khảo sát góp phần nâng cao kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ cho các bà mẹ
sau sinh.

iii


MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................................i
CAM KẾT KẾT QUẢ .................................................................................................... ii
TÓM TẮT...................................................................................................................... iii
MỤC LỤC ......................................................................................................................iv
DANH SÁCH BẢNG ......................................................................................................v
DANH SÁCH HÌNH ......................................................................................................vi
CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU ...................................................................................................1
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU .........................................................................3
2.1. GIẢI PHẪU VÚ VÀ SINH LÝ TIẾT SỮA............................................................. 3
2.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỮA MẸ .........................................5

2.3. PHƯƠNG PHÁP NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ .....................................................9
2.4. TÌNH HÌNH NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ HIỆN NAY ......................................12
2.5. CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KIẾN THỨC VỀ NUÔI CON BẰNG SỮA
MẸ CỦA CÁC BÀ MẸ SAU SINH..............................................................................14
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................................................... 16
3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ................................................................................16
3.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..........................................................................16
3.3. ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU .....................................................................23
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ................................................................ 25
4.1. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .....................................................................................25
4.2. THẢO LUẬN .........................................................................................................37
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT....................................................................49
5.1. KẾT LUẬN ............................................................................................................49
5.2. ĐỀ XUẤT ...............................................................................................................50

iv


DANH SÁCH BẢNG
Trang
Bảng 4.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi .............................................25
Bảng 4.2. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nơi cư trú ..............................................25
Bảng 4.3. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo dân tộc ..................................................26
Bảng 4.4. Nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu ........................................................26
Bảng 4.5. Trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu .................................................27
Bảng 4.6. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo số lần sinh con .....................................27
Bảng 4.7. Phân bố đối tượng theo hình thức sinh của lần sinh hiện tại ........................28
Bảng 4.8. Kiến thức đúng về lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ sau
sinh.................................................................................................................................28
Bảng 4.9. Kiến thức đúng về nuôi dưỡng trẻ trong 4-6 tháng đầu của các bà mẹ sau

sinh.................................................................................................................................29
Bảng 4.10. Kiến thức đúng về bảo vệ nguồn sữa mẹ ....................................................30
Bảng 4.11. Kiến thức đúng về cách cho trẻ bú .............................................................. 30
Bảng 4.12. Kiến thức đúng về việc cai sữa cho trẻ .......................................................31
Bảng 4.13 Kiến thức đúng về một số trường hợp đặc biệt liên quan đến việc nuôi con
bằng sữa mẹ ...................................................................................................................31
Bảng 4.14. Tỷ lệ bà mẹ được tư vấn về nuôi con bằng sữa mẹ.....................................32
Bảng 4.15. Nguồn cung cấp thông tin về nuôi con bằng sữa mẹ của bà mẹ .................32
Bảng 4.16. Kiến thức đúng chung về nuôi con bằng sữa mẹ ........................................32
Bảng 4.17. Liên quan giữa kiến thức đúng về nuôi con bằng sữa mẹ với tuổi của các bà
mẹ ..................................................................................................................................33
Bảng 4.18. Liên quan giữa kiến thức đúng về nuôi con bằng sữa mẹ với nơi cư trú của
các bà mẹ .......................................................................................................................33
Bảng 4.19. Liên quan giữa kiến thức đúng về nuôi con bằng sữa mẹ với nghề nghiệp
của các bà mẹ .................................................................................................................34
Bảng 4.20. Liên quan giữa kiến thức đúng về nuôi con bằng sữa mẹ với dân tộc của
các bà mẹ .......................................................................................................................34
Bảng 4.21. Liên quan giữa kiến thức đúng về nuôi con bằng sữa mẹ với trình độ học
vấn của các bà mẹ ..........................................................................................................35
Bảng 4.22. Liên quan giữa kiến thưc đúng về nuôi con bằng sữa mẹ với số lần sinh con
của các bà mẹ .................................................................................................................35
Bảng 4.23. Liên quan giữa kiến thức đúng về nuôi con bằng sữa mẹ với hình thức sinh
con của các bà mẹ ..........................................................................................................36
Bảng 4.24. Liên quan giữa kiến thức đúng với việc tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ của
các bà mẹ .......................................................................................................................36
Bảng 4.25. Liên quan giữa kiến thức đúng với nguồn cung cấp thông tin nuôi con bằng
sữa mẹ của các bà mẹ ....................................................................................................37

v



DANH SÁCH HÌNH
Trang
Hình 2.1 Đặc điểm giải phẩu vú ......................................................................................3
Hình 2.2 Phản xạ Prolactin .............................................................................................. 4
Hình 2.3 Phản xạ oxytocin .............................................................................................. 5
Hình 3.1 Sơ đồ nghiên cứu ........................................................................................... 23

vi


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NCBSM
UNICEF

Nuôi con bằng sữa mẹ
The United Nations Children’s Fund (Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc)

VDD
WHO

Viện Dinh Dưỡng
World Health Orgnization (Tổ chức Y tế Thế Giới)

vii


CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, thế giới đã lấy việc bảo vệ, thúc đẩy và hỗ trợ việc
nuôi con bằng sữa mẹ là một nội dung quan trọng trong công tác y tế bà mẹ và trẻ sơ

sinh. Đã có không ít hoạt động trong và ngoài nước dành riêng cho chương trình này.
Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) và Tổ chức Y tế Thế Giới (WHO) khuyến
cáo nên cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và tiếp tục cho bú kết hợp với
chế độ ăn hợp lý đến năm thứ hai trong đời sống của trẻ và xa hơn nữa [39]. Hiện nay,
mặc dù đã có nhiều người ý thức được tầm quan trọng của sữa mẹ nhưng tỷ lệ nuôi
con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu vẫn còn khá thấp ở nhiều quốc gia. Tại
Việt Nam, qua kết quả điều tra của dự án Alive and Thrive tại 11 tỉnh thành trong cả
nước cho thấy, có sự thiếu hụt trong kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ,
mặc dù có đến 83,9% bà mẹ biết trong 6 tháng đầu chỉ cho trẻ bú sữa mẹ tốt hơn là
cho trẻ bú kết hợp cả sữa mẹ và sữa bột nhưng tỷ lệ bà mẹ tin rằng cho trẻ bú sữa mẹ
hoàn toàn ở độ tuổi này là tốt nhất chỉ chiếm 52,5% và số bà mẹ biết chỉ nên cho trẻ
uống nước khi trẻ từ 6 đến 8,9 tháng tuổi lại chiếm tỷ lệ rất thấp (23,2%) [1].
Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là cách tốt nhất phòng tránh
tử vong cho trẻ. Việc mở rộng quy mô nuôi con bằng sữa mẹ có thể ngăn chặn 823.000
trường hợp tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi. [42] Theo Bà Nemat Hajeebhoy, Giám đốc
Quốc gia của dự án Alive and Thrive chia sẻ: “Cho con bú là một trong những đầu tư
quan trọng nhất mà cha mẹ có thể dành cho con trong 2 năm đầu đời của trẻ. Nghiên
cứu trên toàn thế giới cho thấy trẻ được bú mẹ khỏe mạnh và thông minh hơn những
trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ. Do vậy, chúng ta cần đảm bảo rằng mọi trẻ em khi
sinh ra đều được hưởng một khởi đầu tốt nhất có thể trong đời các em và khởi đầu đó
là được bú mẹ”. [35] Nuôi con bằng sữa mẹ luôn được UNICEF, WHO, Bộ y tế và các
chuyên gia dinh dưỡng khuyến cáo vì có nhiều lợi ích không những tốt cho sự phát
triển của con mà còn bảo vệ sức khỏe cho bà mẹ. Việc thực hiện chăm sóc dinh dưỡng
hợp lý như: cho trẻ bú sữa mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh, cho trẻ bú mẹ hoàn toàn
trong 6 tháng đầu và một chế độ ăn hợp lý sẽ mang lại cho trẻ bước khởi đầu khỏe
mạnh. Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ trong suốt 6 tháng đầu tiên của cuộc đời [4].
Sữa mẹ là thức ăn hoàn chỉnh nhất, thích hợp nhất đối với trẻ, vì trong sữa mẹ không
chỉ có hàm lượng cao các chất dinh dưỡng mà tỷ lệ các chất dinh dưỡng rất hợp lí, phù
hợp với sự hấp thu và phát triển cơ thể trẻ. Nuôi con bằng sữa mẹ không chỉ đảm bảo
vệ sinh mà còn tiết kiệm thời gian lại kinh tế, giúp người mẹ khỏe mạnh, ngăn ngừa

tình trạng ung thư vú, lấy lại vóc dáng sau sinh và tránh thai hiệu quả [4]. Thêm vào
đó, nuôi con bằng sữa mẹ giúp người mẹ có thời gian gần gũi tự nhiên với con, tăng
1


gắn bó tình mẫu tử, đây là một trong những yếu tố quan trọng hỗ trợ cho sự phát triển
hài hòa của trẻ.
Tại Cần Thơ, theo kết quả nghiên cứu về dinh dưỡng ở trẻ từ 0–5 tháng tuổi năm
2013: tỷ lệ trẻ đã được bú sữa mẹ chiếm 95,2%, nhưng tỷ lệ tiếp tục cho trẻ bú đến 1
năm tuổi chỉ còn 58%. Ngoài ra, tỷ lệ các bà mẹ được tiếp cận với nguồn thông tin về
nuôi con bằng sữa mẹ còn thấp, trong đó chỉ có 8,0% các bà mẹ nhận thông tin về nuôi
con bằng sữa mẹ từ cán bộ y tế và có 60,6 % các bà mẹ nhận được thông tin này từ đại
chúng [38]. Trên thực tế, nhiều trẻ em sinh ra không được nuôi dưỡng đầy đủ bằng sữa
mẹ do nhiều nguyên nhân khác nhau như: mẹ không đủ sữa để thỏa mãn nhu cầu của
trẻ, mẹ phải đi làm trở lại sau thời gian nghỉ hậu sản… Tuy nhiên, nguyên nhân quan
trọng hơn hết là bà mẹ thiếu hiểu biết trong cách nuôi con bằng chính dòng sữa của
mình. Bên cạnh đó, trước những chương trình quảng cáo, tiếp thị về sữa nhân tạo đang
được đẩy mạnh trên các phương tiện thông tin đại chúng như hiện nay đã gây ảnh
hưởng rất lớn đến nhận thức của các bà mẹ. Tình trạng trên cho thấy việc nuôi con
bằng sữa mẹ đã không còn được các bà mẹ quan tâm, chú trọng như trước.
Kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ chính là tiền đề để bà mẹ đưa
ra các quyết định chọn lựa phương pháp nuôi dưỡng trẻ tốt nhất và phù hợp nhất cho
con mình. Việc đánh giá kiến thức và một số yếu tố liên quan về nuôi con bằng sữa mẹ
là cơ sở quan trọng nhằm nâng cao các hoạt động chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em
đồng thời đề ra các biện pháp thích hợp nhằm gia tăng tỷ lệ hiểu biết về nuôi con bằng
sữa mẹ.
Từ những yếu tố trên đề tài: “Khảo sát kiến thức và một số yếu tố liên quan về
nuôi con bằng sữa mẹ của bà mẹ sau sinh tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần
Thơ, năm 2017” được thực hiện với hai mục tiêu cụ thể như sau:
1. Xác định tỷ lệ bà mẹ sau sinh có kiến thức đúng về nuôi con bằng sữa mẹ tại

Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ, năm 2017.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ
của bà mẹ sau sinh tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ, năm 2017.

2


CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. GIẢI PHẪU VÚ VÀ SINH LÝ TIẾT SỮA
2.1.1. Giải phẫu vú
Vú có chức năng tạo sữa và cho con bú [16]. Vú được xem là cơ quan sinh dục
thứ hai của người phụ nữ và là nguồn cung cấp dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh [11]. Vú
phát triển mạnh ở tuổi dậy thì, trong những tháng cuối của thời kì mang thai, đặc biệt
là sau khi sinh và thoái triển sau tuổi mãn kinh [32], [8].
Hình thể ngoài của vú
Vú là cơ quan nằm ở thành ngực trước, từ xương sườn thứ hai đến xương sườn
thứ sáu, hai phần ba nằm ở cơ ngực lớn và một phần ba nằm ở cơ răng trước, từ đường
nách giữa đến bờ bên xương ức [32], [11].
Kích thước của vú thay đổi theo tuổi, tình trạng sinh lý (có thai, sau sinh) và theo
từng cá nhân khác nhau [8].
Hình thể của vú rất thay đổi, thông thường nhất là hình bán cầu, đôi khi vú có
hình quả lê, hình đĩa hoặc hình trụ [8]. Đỉnh của vú là một nhú niêm mạc lồi có các
ống tiết sữa gọi là nhú vú hay đầu vú. Quanh nhú là một vòng niêm mạc nhiễm sắc tố
gọi là quầng vú [16]. Vùng quầng vú có các tuyến nhỏ gọi là tuyến Montgomery,
tuyến này tiết ra một chất nhờn cá tác dụng bảo vệ da vú [34].
Cấu tạo của vú
Cấu tạo của vú từ nông vào sâu là da, các hốc mỡ dưới da, rồi đến các tuyến sữa
dạng chùm hợp thành các tiểu thùy và thùy (có khoảng 15–20 thùy, mỗi thùy đổ ra đầu
vú bởi một ống tiết sữa, trước khi đổ ra đầu vú, ống tiết sữa phình ra tạo thành xoang
sữa, là nơi sữa được gom vào để chuẩn bị cho một bữa bú), sâu nhất là lớp mỡ sau vú

nằm nông ngay trước cơ ngực lớn [11], [16].

Hình 2.1 Đặc điểm giải phẩu vú
(Nuôi dưỡng trẻ nhỏ, 2015 [34])
3


Bên trong tuyến vú có nhiều nang sữa, đó là những túi rất nhỏ được cấu tạo bởi
các tế bào tiết sữa. Có hàng triệu nang sữa trong bầu vú. Xung quanh các nang sữa là
các tế bào cơ có tác dụng co bóp và tống sữa ra ngoài. Xung quanh các nang sữa và
ống dẫn sữa có các mô nâng đỡ và mô mỡ. Mô nâng đỡ, mô mỡ và các tổ chức khác
tạo nên hình dạng của vú, từ đó tạo nên sự khác biệt giữa các bà mẹ về kích thước,
hình dáng vú. Vú có kích thước, hình dáng như thế nào đều chứa số lượng nang sữa
như nhau, vì vậy không ảnh hưởng đến việc bài tiết sữa và đều có thể tạo ra nhiều sữa.
[34]
2.1.2. Sinh lý tiết sữa
Khi trẻ mút vú, xung động cảm giác thần kinh từ núm vú lên não, kích thích thùy
trước tuyến yên tiết ra prolactin. Chất này vào máu đến vú làm các tế bào tiết ra sữa.
Vì vậy, cho trẻ bú càng nhiều, vú càng sản xuất ra nhiều sữa. Nồng độ prolactin trong
máu đạt tối đa vào khoảng 30 phút sau bữa bú, giúp tạo sữa cho bữa bú tiếp theo. Bữa
bú hiện tại là trẻ bú sữa đã được dự trữ sẵn trong vú. Ngoài chức năng quan trọng là
hormon tạo sữa, prolactin còn có tác dụng ức chế sự rụng trứng, prolactin được tiết ra
nhiều vào ban đêm nên khi bà mẹ cho con bú vào ban đêm không những tạo nhiều sữa
mà còn giúp mẹ chậm có thai lại. [3], [34]

Hình 2.2 Phản xạ Prolactin
(Nuôi dưỡng trẻ nhỏ, 2015 [34])
Từ động tác ngậm vú của trẻ, một xung động thần kinh khác tác động lên vùng
dưới đồi và thùy sau tuyến yên, kích thích tiết ra oxytocin. Oxytocin vào máu đến vú
làm các tế bào cơ xung quanh nang sữa co thắt, đẩy sữa theo các ống dẫn sữa đến các

xoang sữa, đôi khi còn làm sữa tự chảy ra ngoài. [3] Oxytocin còn có tác dụng làm co
hồi tử cung, giúp bà mẹ giảm chảy máu sau sinh nhưng đôi khi gây đau tử cung nhiều
làm cho bà mẹ có cảm giác đau và người nóng bừng khi cho trẻ bú trong vài ngày đầu
[3], [34]. Sự bài tiết oxytocin còn chịu ảnh hưởng của các yếu tâm lý, cảm xúc, khi mẹ
vuốt ve, âu yếm con hoặc nghe tiếng con khóc đều gây những tín hiệu cảm xúc truyền

4


về vùng dưới đồi làm tăng bài xuất sữa. Trái lại những kích thích giao cảm mạnh, căng
thẳng kéo dài sẽ ức chế bài xuất sữa. [24]

Hình 2.3 Phản xạ oxytocin
(Nuôi dưỡng trẻ nhỏ, 2015 [34])
Trong sữa còn có một chất có thể ức chế hoặc giảm tiết sữa. Nếu có nhiều sữa
được tiết ra thì chất ức chế này sẽ ngăn chặn các tế bào tiết sữa hạn chế tiết sữa. Vì
vậy, để vú tiếp tục tạo sữa thì sữa mẹ phải được chảy ra khỏi vú. Nếu trẻ không bú
được hoặc bú không hết thì sữa mẹ cần được vắt ra để sự sản xuất sữa có thể được tiếp
tục. [3]
2.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỮA MẸ
2.2.1. Đặc điểm của sữa mẹ
Sữa non
Sữa non được hình thành từ tuần thứ 14–16 của thai kỳ và được tiết ra trong 1–3
ngày đầu sau sinh. Sữa non sánh đặc, màu vàng nhạt hoặc trong. [34]
Lợi ích của sữa non:
Sữa non là nguồn kháng thể dồi dào, giúp cho cơ thể non trẻ chống lại môi
trường mới lạ.
Sữa non tiết ra tuy ít nhưng chất lượng cao thỏa mãn nhu cầu của trẻ mới sinh
[15].
Giàu kháng thể, nhiều protein kháng khuẩn và nhiều tế bào bạch cầu hơn sữa

trưởng thành, giúp trẻ phòng chống nhiễm khuẩn, dị ứng và có khả năng miễn dịch
nhiều bệnh mà trẻ có thể mắc phải [3], [34].
Có tác dụng xổ nhẹ, đào thải phân su, thải bilirubin ra khỏi ruột làm giảm mức độ
vàng da của trẻ [34].
Có yếu tố tăng trưởng biểu bì giúp cho ruột phát triển hoàn thiện chức năng,
phòng tránh dị ứng và không dung nạp thức ăn khác [34].
Giàu vitamin đặc biệt là vitamin A có tác dụng cải thiện tình trạng nhiễm khuẩn
của trẻ. Sữa non giàu natri, kali và kẽm [34].
5


Chất lượng của sữa non giảm nhanh trong vòng 24 giờ đầu [3].
Sữa trưởng thành
Sau 3–5 ngày, sữa non chuyển tiếp thành sữa trưởng thành (sữa ổn định). Sữa
trưởng thành gồm sữa đầu và sữa cuối [34]:
Sữa đầu: sữa được tiết ra đầu bữa bú, có màu trắng hơi xanh, chứa nhiều nước và
các chất dinh dưỡng khác, vì vậy cần cho trẻ được bú sữa đầu bữa.
Sữa cuối: sữa được tiết ra cuối bữa bú, có màu trắng sữa, chứa nhiều chất béo,
cung cấp năng lượng, vì vậy cần cho trẻ bú hết sữa cuối bữa.
2.2.2. Tầm quan trọng của sữa mẹ
2.2.2.1 Các thành phần dinh dưỡng trong sữa mẹ
Sữa mẹ là chất dinh dưỡng hoàn hảo, dễ tiêu hóa và dễ hấp thu
Sữa mẹ là thức ăn hoàn hảo nhất trong những tháng năm đầu tiên của trẻ vì sữa
mẹ có đủ năng lượng, chất dinh dưỡng và dễ hấp thu [31].
Có thể nói sữa mẹ đã được chế tạo theo công thức định sẵn, trong 1 lít sữa mẹ có
khoảng 700 Kcal [31]. Tỷ lệ các chất dinh dưỡng như đạm, đường, mỡ, vitamin, và
muối khoáng thích hợp nên làm cho trẻ dễ tiêu hóa, dễ hấp thu giúp cho cơ thể trẻ phát
triển bình thường tránh được suy dinh dưỡng [4].
Protein: sữa mẹ có lượng protein (đạm) ít hơn sữa bò nhưng có đủ các acid amin
cần thiết và tỷ lệ cân đối. Protein sữa mẹ chủ yếu là protein dạng lỏng hòa tan, còn gọi

là protein sữa giúp trẻ dễ tiêu hóa. [4]
Lipid (chất béo): chất béo trong sữa mẹ cung cấp 50% năng lượng cho bé. Sữa
mẹ có những acid béo cần thiết như acid linoleic, acid linolenic hỗ trợ cho sự phát
triển của não, mắt và sức bền thành mạch. Hơn nữa, thành phần lipid trong sữa mẹ
chủ yếu là acid béo không no và có men lipase giúp cho quá trình tiêu hóa của trẻ dễ
dàng hơn [4], [34].
Carbonhydrat (glucid và đường): trong sữa mẹ có lượng carbonhydrat nhiều hơn
trong sữa bò, do đó cung cấp nhiều năng lượng cho cơ thể, với 85% là latose sẽ làm
tăng cường hấp thu calci, muối khoáng cho cơ thể và 15% là oligosaccharide sẽ hỗ trợ
cho sự phát triển vi khuẩn có lợi cho trẻ [4], [34].
Vitamin: các loại vitamin (B1, B2, C,… ) đều có đủ trong sữa mẹ và giúp ích cho
trẻ [34]. Đặc biệt, sữa mẹ là nguồn cung cấp vitamin A dồi dào cho trẻ, vì vậy trẻ bú
sữa mẹ sẽ phòng được bệnh khô mắt do thiếu vitamin A [15]. Ngoài ra sữa mẹ còn có
nhiều vitamin D cần cho sự phát triển xương của trẻ, giúp trẻ chống được suy dinh
dưỡng và còi xương.

6


Muối khoáng:
Calci trong sữa mẹ có đặc tính sinh học và tỷ lệ thích hợp, dễ hấp thu và thỏa
mãn nhu cầu của trẻ hỗ trợ phát triển xương giúp cho trẻ cứng cáp hơn [4].
Sắt trong sữa mẹ được hấp thu hơn trong sữa bò do đó trẻ bú sữa mẹ ít bị còi
xương và thiếu máu [15].
Lượng đồng, kẽm trong sữa mẹ đáp ứng đủ nhu cầu của trẻ, giúp trẻ phòng chống
thiếu vi chất và bảo vệ cơ thể [34].
Sữa mẹ có tác dụng kháng khuẩn
Globulin miễn dịch IgA: có nhiều trong sữa non và giảm dần trong những tuần
sau. IgA tiết thường không hấp thu mà hoạt động tại ruột để chống lại một số vi khuẩn
như E.Coli và virus. [15]

Tế bào, lympho bào sản xuất IgA tiết và Interferon, có tác dụng ức chế hoạt động
của một số virus [15].
Lactoferin (protein gắn sắt): có tác dụng kìm khuẩn không cho các vi khuẩn cần
sắt để phát triển [15].
Lysozym: có hàm lượng cao gấp hàng ngàn lần so với sữa bò, có tác dụng diệt vi
khuẩn và virus [4].
Các đại thực bào trong sữa mẹ có tính chất thực bào và bài tiết lysozyme,
lactoferin và thực bào nấm Candida và các loại vi khuẩn, nhất là các vi khuẩn Gram
âm gây viêm ruột hoại tử cho trẻ sơ sinh (Clostridium, Klebsiella) [15].
Trong sữa mẹ có các yếu tố kích thích sự phát triển vi khuẩn Lactobacillus
Bifidus. Vi khuẩn này phát triển sẽ lấn át và ngăn cản sự phát triển của các loại vi
khuẩn gây bệnh. Do sữa mẹ có đặc tính kháng khuẩn, nên tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử
vong của trẻ bú mẹ thấp hơn trẻ nuôi nhân tạo. [15]
Sữa mẹ có tác dụng chống dị ứng
Trẻ bú mẹ thường không bị dị ứng, bị eczema như một số trẻ ăn nhân tạo vì IgA
tiết cùng với đại thực bào có tác dụng chống dị ứng [15].
2.2.2.2 Lợi ích của sữa mẹ đối với trẻ
Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng hoàn hảo, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của trẻ trong 4–6
tháng đầu. Sữa mẹ kích thích sự phát triển tối ưu của não và thúc đẩy sự tăng trưởng
của trẻ. Một số kháng thể từ người mẹ truyền qua rau đến bào thai đã giúp cho trẻ có
sức đề kháng và miễn dịch một số bệnh đặc biệt trong 4–6 tháng đầu, giúp trẻ không
dễ mắc các bệnh như sởi, cúm, ho gà. Hơn nữa, sữa mẹ vô khuẩn, sạch sẽ, trẻ bú trực
tiếp ngay làm cho vi khuẩn không có điều kiện phát triển nên trẻ ít bị tiêu chảy. Vì hệ
thống miễn dịch của bé chưa hoàn thiện nên các kháng thể có trong sữa mẹ sẽ là liều
thuốc quý giá giúp trẻ phòng ngừa các bệnh nhiễm khuẩn, nhất là tiêu chảy và nhiễm
khuẩn hô hấp. Sữa mẹ đảm bảo dinh dưỡng, cung cấp đủ nước cho trẻ. Khi trẻ được bú
7


mẹ, được tiếp xúc gần gũi mẹ, được âu yếm trẻ sẽ ít khóc, cảm giác an toàn hơn, tinh

thần, trí tuệ phát triển tốt hơn. [15], [31], [36]
2.2.2.3. Lợi ích của sữa mẹ đối với bà mẹ
Cho trẻ bú sớm ngay sau sinh giúp xổ rau và tránh mất máu cho mẹ [3]. Với
động tác mút vú sẽ khích thích tuyến yên tiết oxytocin giúp tử cung của mẹ co hồi tốt
hơn, tránh được tình trạng băng huyết sau sinh và tiết prolactin có tác dụng ức chế
rụng trứng nên làm chậm quá trình có thai đồng thời làm giảm nguy cơ ung thư tử
cung và ung thư vú [31]. Khi thực hiện cho trẻ bú ngay và thường xuyên có tác dụng
kích thích tăng cường sản xuất sữa [36].
Nuôi con bằng sữa mẹ là cách nuôi đơn giản nhất. Bà mẹ có thể cho trẻ bú bất cứ
ở đâu, bất cứ lúc nào kể cả ban đêm. Không mất thời gian, phương tiện và dụng cụ pha
sữa phiền phức. Không tốn kém tiền để mua sữa nhân tạo và các dụng cụ cần thiết để
pha sữa cho con. Tạo điều kiện cho mẹ có thời gian nghỉ ngơi, ăn uống bồi dưỡng,
chăm sóc gia đình và tham gia công tác xã hội. Đặc biệt, cho trẻ bú mẹ sẽ tạo điều kiện
cho mẹ thường xuyên tiếp xúc, gần gũi với con giúp gắn bó tình cảm mẹ con, bà mẹ
cảm thấy thoải mái tinh thần, yêu tâm và giảm được lo âu, trầm cảm sau sinh.
2.2.2.4. Những bất lợi khi nuôi con bằng sữa nhân tạo
Thức ăn thay thế sữa mẹ được chế biến từ nhiều loại sữa khác nhau, tuy đã được
điều chỉnh, chế biến để giống với thành phần sữa mẹ nhưng không thể hoàn hảo như
sữa mẹ. Vì vậy, khi nuôi con bằng sản phẩm thay thế sữa mẹ sẽ có nhiều bất lợi cho cả
mẹ và bé:
Hạn chế gắn bó tình cảm mẹ con, giảm mối quan hệ gần gũi yêu thương giữa mẹ
và con.
Trẻ được nuôi bằng sữa nhân tạo có nhiều nguy cơ bị tiêu chảy, viêm phổi, viêm
tai và các bệnh nhiễm khuẩn khác. Tần suất tử vong trẻ vì suy dinh dưỡng và bệnh
nhiễm khuẩn cao hơn so với trẻ được nuôi bằng sữa mẹ. Trẻ dễ bị các bệnh dị ứng như
chàm, hen suyễn hơn. Nếu trẻ không dung nạp được các protein lạ trong sữa nhân tạo
có thể bị tiêu chảy, kém hấp thu dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng. Trẻ ăn quá nhiều
sữa nhân tạo sẽ gây thừa cân, béo phì. [3]
Bà mẹ không nuôi con bằng sữa mẹ dễ có thai sớm, có nguy cơ bị thiếu máu sau
sinh và tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú, ung thư buồng trứng sau này [34].

2.2.2.5. Các chính sách, khuyến nghị về nuôi con bằng sữa mẹ của quốc tế
Khẳng định quyền của mọi trẻ em, phụ nữ có thai và phụ nữ đang trong thời kì
cho con bú được hưởng chế độ dinh dưỡng đầy đủ để có và duy trì sức khỏe.

8


Nhận thức nuôi con bằng sữa mẹ là cách tối ưu nhằm cung cấp thức ăn lý tưởng
cho sự tăng trưởng và phát triển khỏe mạnh của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, giúp hình thành
cơ sở thể chất và tinh thần tốt nhất cho cả bà mẹ và trẻ em.
Công nhận việc khuyến khích và bảo vệ việc nuôi con bằng sữa mẹ là một phần
quan trọng của y tế.
Có nhiều yếu tố xã hội và kinh tế ảnh hưởng tới việc nuôi con bằng sữa mẹ. Do
đó, chính phủ cần xây dựng các hệ thống hỗ trợ xã hội nhằm bảo vệ, tạo điều kiện,
khuyến khích nuôi con bằng sữa mẹ và cho ăn bổ sung phù hợp.
Khẳng định các hệ thống y tế, các chuyên gia y tế và các cán bộ y tế khác phục
vụ trong các hệ thống đó đóng một vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn nuôi con,
khuyến khích, tạo điều kiện cho bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ, tư vấn khách quan, nhất
quán cho các bà mẹ và gia đình về giá trị ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹ.
Khẳng định các hệ thống giáo dục và các dịch vụ xã hội khác cần phải tham gia
vào việc bảo vệ và khuyến khích nuôi con bằng sữa mẹ và sử dụng thích hợp các thực
phẩm bổ sung.
Các gia đình, cộng đồng, tổ chức của phụ nữ và các tổ chức phi chính phủ khác
đóng vai trò đặc biệt trong việc bảo vệ, khuyến khích nuôi con bằng sữa mẹ và bảo
đảm sự hỗ trợ cần thiết cho các phụ nữ mang thai và bà mẹ của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
Các nhà sản xuất và phân phối các sản phẩm thay thế sữa mẹ đóng một vai trò
quan trọng và có trách nhiệm với việc thúc đẩy và khuyến khích việc nuôi con bằng
sữa mẹ [7].
2.3. PHƯƠNG PHÁP NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ
2.3.1. Thời gian cho trẻ bú

Cho trẻ bú sớm sau sinh
Trẻ được bú mẹ càng sớm càng tốt, bú ngay sau sinh trong vòng nửa giờ đầu,
việc chờ đến khi mẹ xuống sữa mới cho trẻ bú sẽ càng làm sữa xuống chậm và mẹ dễ
bị mất sữa [31]. Cho trẻ bú sớm sẽ tận dụng được nguồn sữa non giúp trẻ có khả năng
chống lại bệnh tật tốt, kích thích bài tiết sữa sớm, động tác mút vú của trẻ giúp tử cung
bà mẹ co hồi nhanh có tác dụng cầm máu sau sinh. Bên cạnh đó, bú sớm tạo cho trẻ sự
hoạt động khởi động đường tiêu hóa sớm, bài tiết hết phân su [30].
Trẻ mới sinh không nên cho trẻ uống các loại nước uống hoặc sữa nhân tạo trước
bữa bú đầu tiên của trẻ.
Cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 4–6 tháng đầu
Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn là chỉ cho trẻ bú mẹ mà không cho ăn, uống bất
cứ thức ăn, nước uống nào khác kể cả nước trắng, trừ các trường hợp phải uống bổ
sung các vitamin, khoáng chất hoặc thuốc [34].

9


Khi trẻ được bú mẹ hoàn toàn không cần cho trẻ uống thêm nước vì trong sữa mẹ
chứa 88% nước [34].
Cần cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 4–6 tháng đầu vì trong khoảng thời gian
này trẻ chưa tạo được kháng thể chủ động mà chỉ có kháng thể thụ động truyền qua rau
thai và qua sữa mẹ để chống lại các tác nhân gây bệnh trong môi trường không khí
[30].
Cho trẻ bú sữa mẹ kéo dài đến 24 tháng tuổi hoặc lâu hơn
Đối với trẻ từ 6 đến 24 tháng, sữa mẹ vẫn là nguồn quan trọng cung cấp năng
lượng và các chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển toàn diện của trẻ [34]. Tuy
nhiên, sữa mẹ sẽ không thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng ngày càng tăng theo
sự phát triển của trẻ, vì vậy cần cho trẻ bú kéo dài đến 24 tháng hoặc lâu hơn cùng với
chế độ ăn bổ sung hợp lý [34]. Không nên cai sữa cho trẻ trước 12 tháng, cho trẻ bú
đến 24 tháng hoặc lâu hơn sẽ có lợi cho sức khỏe và phát triển lâu dài của trẻ, đặc biệt

điều này sẽ làm tăng sự gắn kết tình cảm giữa mẹ và con. Trong thời gian cho trẻ bú
mẹ nếu trường hợp trẻ bị bệnh vẫn tiếp tục cho trẻ bú sữa mẹ [3].
Lưu ý khi cai sữa cho trẻ: không nên cai sữa vào mùa hè nóng nực vì ở mùa này
trẻ thường ăn kém. Không cai sữa đột ngột dễ gây sang chấn tinh thần làm trẻ quấy
khóc nhiều, làm biếng ăn. Không cai sữa khi trẻ ốm, đặc biệt là khi trẻ bị tiêu chảy vì
thức ăn thay thế chưa làm trẻ thích nghi ngay được nên có thể kéo dài thời gian tiêu
chảy làm trẻ dễ bị suy dinh dưỡng. [31]
Số lần cho trẻ bú và thời gian cho mỗi bữa bú
Cho trẻ bú theo nhu cầu kể cả ban ngày cũng như ban đêm, không hạn chế số lần
bú. Cho bú bất cứ lúc nào trẻ đói, không nhất thiết phải cho bú theo giờ giấc [15]. Khi
trẻ đói, trẻ sẽ có các dấu hiệu như: đưa tay vào miệng để mút, trẻ đưa lưỡi ra vào, trẻ
xoay trở, không nằm yên, khi chạm tay vào má của trẻ, trẻ sẽ quay đầu về phía tay tìm
vú mẹ và cuối cùng là trẻ khóc nhưng dấu hiệu này dễ nhầm lẫn với những nguyên
nhân khác cũng làm cho trẻ khóc như: trẻ mệt mỏi, thuốc và thức ăn của bà mẹ dùng
làm trẻ khó chịu, đau bụng. [41]
Thời gian cho một bữa bú tùy thuộc vào từng trẻ. Nếu trẻ đã no sẽ tự nhả vú mẹ
ra. Trung bình một bữa bú có thể kéo dài từ 15–20 phút cho mỗi bên vú. Nếu trẻ bú
kiệt sữa một bên vú mà vẫn chưa đủ no thì cho trẻ bú tiếp vú bên kia. [41]
2.3.2. Cách cho trẻ bú đúng
Phải lau sạch đầu vú trước khi cho trẻ bú [4].
Bốn điểm then chốt để bế trẻ khi cho trẻ bú [34], [26]:
Đầu và thân trẻ cùng nằm trên một đường thẳng ;
Toàn thân trẻ sát vào người mẹ, bụng trẻ áp sát vào bụng mẹ;
Mặt trẻ quay vào vú mẹ, mũi trẻ đối diện với núm vú;
10


Đối với trẻ sơ sinh, bà mẹ không những đỡ đầu, vai trẻ mà còn phải đỡ mông trẻ.
Bà mẹ nâng vú bằng tay để đưa vú vào miệng trẻ. Thỉnh thoảng nên dùng ngón tay cái
và ngón trỏ nâng và ấn nhẹ vào vú để vú khỏi bịt mũi của trẻ, đồng thời làm cho trẻ

ngậm vú và bú tốt hơn. [4]
Những dấu hiệu chứng tỏ trẻ ngậm bắt vú tốt [4]:
Miệng trẻ mở rộng, ngậm sâu vào quầng vú.
Môi dưới hướng ra ngoài.
Lưỡi chụm quanh bầu vú.
Má chụm tròn.
Trẻ mút chậm, sâu, có nhịp nghỉ khi nuốt.
Có thể nhìn hoặc nghe thấy trẻ nuốt.
Cho trẻ bú hết bầu vú bên này rồi mới chuyển sang vú bên kia để tận dụng được sữa
đầu, sữa cuối và đảm bảo kiệt sữa nhằm kích thích tạo sữa [4].
Khi trẻ bú xong nên vắt hết sữa còn lại trong bầu vú [4].
Sau khi trẻ bú xong nên đặt trẻ nằm yên ở tư thế cao đầu trong vòng 5–10 phút để trẻ
có thể ợ hơi (hít vào trong khi bú), tránh được nôn, trớ [4].
2.3.3. Bảo vệ nguồn sữa mẹ
Chăm sóc hai bầu vú mẹ
Vệ sinh đầu vú sạch trước và sau khi cho con bú bằng nước ấm, không rửa đầu
vú bằng cồn hay xà phòng vì dễ làm khô da, nứt da gây nhiễm trùng [4].
Nếu vú bị nứt thì bôi kháng sinh hay vaselin, nhưng phải lau sạch trước khi cho
trẻ bú. Nếu bị áp xe vú thì phải vắt sạch sữa hoặc bơm hút sữa hàng ngày, tránh để ứ
đọng sữa cản trở sự tiết sữa. [4]
Chế độ dinh dưỡng cho bà mẹ
Trong thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ, nhất là trong 6 tháng đầu tiên sau sinh, bà
mẹ phải ăn nhiều và đa dạng hơn các loại thực phẩm mới có đủ sữa với chất lượng tốt
nhất cho trẻ. Việc đảm bảo dinh dưỡng hợp lý cho mẹ sẽ hỗ trợ tốt cho sự bài tiết sữa:
Phải ăn đầy đủ các chất đạm, đường, mỡ: tăng cường chất đạm từ thịt, cá, đạm
thực vật (lạc và các loại đậu). Bổ sung chất béo dễ hấp thu có trong lạc, vừng, dầu thực
vật.
Tăng cường các loại vitamin, nhất là vitamin A và các khoáng chất có trong rau
(rau ngót, rau muống), quả ( chuối, đu đủ, cam, chanh), củ (cà rốt).
Đảm bảo uống đủ lượng nước, khoảng 1,5 lít nước mỗi ngày nhất là vào mùa hè

do ra nhiều mồ hôi làm cơ thể mẹ mất đi 1 lượng nước, do đó bà mẹ cần uống nhiều
nước hơn nữa [3].
Kiêng những chất làm ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng sữa: không uống
rượu, cà phê, không hút thuốc lá [30].
11


Hạn chế ăn các loại gia vị gây mùi làm cho sữa có mùi khó chịu và trẻ bú kém
hoặc không chịu bú [15].
Lao động và nghỉ ngơi hợp lý
Trong thời gian cho con bú, người mẹ nên lao động hợp lý, phù hợp với sức
khỏe. Cần nghỉ ngơi và có thời gian ngủ trong ngày hợp lý, ít nhất người mẹ phải ngủ
đủ 8 tiếng/ngày hoặc nhiều hơn. Người mẹ phải được thư giãn, tinh thần thoải mái,
tránh mọi căng thẳng thần kinh hay sang chấn tinh thần.
Không sử dụng thuốc tùy tiện
Trong thời gian cho con bú, người mẹ không nên sử dụng thuốc tùy tiện mà chỉ
nên sử dụng theo sự hướng dẫn của thầy thuốc. Cần đặc biệt chú ý với các loại thuốc
gây mất sữa, các loại thuốc gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển hoặc ức chế các trung
tâm hô hấp, tim mạch của trẻ [4].
Không để sữa ứ đọng trong vú, không nai nịt vú quá chặt
Phải vắt kiệt sữa sau mỗi lần cho con bú nếu trẻ không bú hết. Trong một số
trường hợp mẹ phải đi làm xa hoặc trẻ bị bệnh không thể trực tiếp bú mẹ thì có thể vắt
sữa và dự trữ. Sữa mẹ vắt ra bảo quản ở nhiệt độ phòng có thể để được 6–8 giờ. Đối
với sữa được bảo quản ở ngăn mát tủ lạnh (< 4 °C), chất lượng sữa trong 3 ngày là tốt
nhất, nhưng cũng có thể để đến 8 ngày [34].
Không nai nịt vú quá chặt trong thời gian cho con bú để tránh mất sữa [4].
2.3.4. Các trường hợp không nên nuôi con bằng sữa mẹ
Việc nuôi con bằng sữa mẹ không chỉ là thiên chức của các bà mẹ mà đó còn là
nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho con, tuy nhiên bà mẹ không nên cho trẻ bú sữa của
mình trong một số trường hợp sau: người mẹ nhiễm HIV/AIDS vì sẽ làm tăng nguy cơ

lây nhiễm cho trẻ, mẹ bị suy tim, lao phổi nặng, viêm gan đang tiến triển, mẹ phải điều
trị các thuốc chống ung thư, thuốc điều trị động kinh, thuốc hướng tâm thần [3].
2.4. TÌNH HÌNH NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ HIỆN NAY
2.4.1. Tình hình nuôi con bằng sữa mẹ trên thế giới
Trên toàn cầu, tỷ lệ cho con bú đến 12 tháng cao nhất là ở tiểu vùng Sahara Châu
Phi, Nam Á, và một số nước ở khu vực Mỹ Latinh, tại các nước có thu nhập cao tỷ lệ
này chỉ là 20%. Ở các quốc gia thu nhập thấp và thu nhập trung bình, chỉ có 37% trẻ
em dưới 6 tháng tuổi được bú sữa mẹ. [42]
Gần đây tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ trên toàn thế giới đang có dấu hiệu tăng nhẹ.
Trong vòng 15 năm qua, tỷ lệ trẻ từ 0–5 tháng được bú sữa mẹ đã được tăng thêm
10%. Cụ thể, vào năm 2000 tỷ lệ này là 36%, nhưng đến năm 2015 đã tăng lên 46%.
Nhìn chung ở giai đoạn này, hầu hết các khu vực đều có sự gia tăng tỷ lệ trẻ từ 0–5
tháng được bú sữa mẹ: ở Nam Á vào năm 2000 tỷ lệ này là 47% và đến năm 2015 đã

12


tăng lên 64%, ở Đông và Nam Phi, tỷ lệ này đã tăng từ 43% (2000) lên 54% (2015).
[40]
Trong 3 ngày đầu sau sinh, tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ trên thế giới là 57%, cao
nhất là Đông và Nam Phi (76%) và ở khu vực này chỉ có 4% trẻ được ăn bằng sữa
nhân tạo, thấp nhất là Đông Á và Thái Bình Dương và có tới 42% trẻ được ăn bằng
sữa nhân tạo. Ở Trung Đông và Bắc Phi tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ trong 3 ngày đầu sau
sinh khá ổn và cùng là 47%. [40]
2.4.2. Tình hình nuôi con bằng sữa mẹ ở Việt Nam
Tại Việt Nam, tỷ lệ trẻ từng được bú sữa mẹ khá cao, lên tới 96,9%, tuy nhiên chỉ
có khoảng 24,3% trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn và có tới 72,2% trẻ được
uống thức uống ngoài sữa mẹ trong ngày đầu đời. Trong cả nước, Tây Nguyên là vùng
có tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh cao nhất (35,1%), trong khi
đó tỷ lệ này ở Đồng bằng sông Cửu Long là 27,8%. [28]

Theo báo cáo Tổng điều tra Dinh dưỡng của Viện Dinh Dưỡng (VDD) 2009–
2010 cho thấy tỷ lệ trẻ được cho bú mẹ trong 1 giờ đầu sau sinh khá cao (76,2%) do đó
đã kéo theo tỷ lệ trẻ được bú sữa non khá lớn (70,8%) [9]. Trên cả nước, tỷ lệ bú mẹ
hoàn toàn trong 6 tháng đầu chỉ chiếm 19,6% [9]. Cũng trong giai đoạn này, theo báo
cáo về tình hình dinh dưỡng Việt Nam 2009–2010 của VDD và UNICEF, tỷ lệ trẻ
được bú mẹ đến 1 năm tuổi chiếm 77,0% nhưng tỷ lệ tiếp tục cho trẻ bú mẹ đến 2 năm
tuổi chỉ còn 22,1% [37].
Kết quả điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ Việt Nam 2014 đã cho
thấy rằng, có đến 67,8% trẻ sơ sinh ở Việt Nam được bắt đầu bú sữa mẹ trong một
ngày đầu sau khi sinh nhưng chỉ có 26,5% trẻ được bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu. Trong
đó, tỷ lệ bà mẹ cho con bú trong vòng 1 giờ đầu của những người phụ nữ sống ở khu
vực nông thôn (27,6%) nhiều hơn so với khu vực thành thị (23,8%), nhóm mức sống
nghèo nhất (31,2%) nhiều hơn hẳn so với nhóm mức sống giàu nhất (22,7%) và nhóm
dân tộc thiểu số (36,3%) nhiều hơn nhóm dân tộc kinh/hoa (24,4%). Ngoài ra, còn có
sự khác biệt giữa các vùng miền về thời gian cai sữa cho trẻ, với tỷ lệ cho con bú mẹ
đến khi trẻ 2 tuổi là 42,3% đã cho thấy các bà mẹ ở Tây Nguyên thường cho con bú
trong thời gian kéo dài hơn so với khu vực Đông Nam Bộ (13,4%) và Đồng Bằng
Sông Cửu Long (11,7%). [28]
Trong một báo cáo điều tra ban đầu tại Cà Mau năm 2012, kết quả điều tra cho
thấy: chỉ có 40,6% trẻ được bú sữa mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh và lên đến 88,4%
bà mẹ cho trẻ ăn/uống các thức ăn khác ngoài sữa mẹ trong 3 ngày đầu sau sinh, chủ
yếu là nước (79,2%), sữa bột (52,1%) và mật ong (28,1%); Cà Mau là một trong
những tỉnh có tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn trong 4–6 tháng đầu thấp nhất (6,5%), mặc dù tỷ

13


lệ trẻ bú mẹ đến 1 năm tuổi khá cao (61,4%), nhưng tỷ lệ trẻ tiếp tục bú mẹ đến 2 năm
tuổi giảm xuống chỉ còn 13,3%. [1]
Thực trạng trên cho thấy tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ ở nước ta vẫn còn thấp mặc

dù đã có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã chứng minh nuôi con bằng sữa mẹ
không những có lợi cho sức khỏe của con mà còn bảo vệ sức khỏe cho cả mẹ trước
mắt và lâu dài.
2.5. CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KIẾN THỨC VỀ NUÔI CON BẰNG SỮA
MẸ CỦA CÁC BÀ MẸ SAU SINH
Có nhiều yếu tố liên quan đến kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ
sau sinh từ khách quan đến chủ quan như: tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn, môi
trường sống, các kênh thông tin và mức độ tiếp cận thông tin liên quan đến kiến thức
của các bà mẹ.
Vai trò của cán bộ y tế và những người phục vụ về sức khỏe trong các nhà hộ
sinh cũng như các phòng khám phụ nữ hoặc ở những nơi chăm sóc sau đẻ có ảnh
hưởng rất lớn đến kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ, nó lại càng đặc
biệt quan trọng bởi vì họ đến đây trong tình trạng cần được chăm sóc sức khỏe và tư
vấn những kiến thức cần thiết. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu về dinh dưỡng nuôi
con bằng sữa mẹ của Viện Dinh Dưỡng, UNICEF và Dự án Alive Thrive, chỉ có 4.2%
các bà mẹ nhận được thông tin về nuôi con bằng sữa mẹ từ các cán bộ y tế [38].
Trên thực tế, có rất nhiều nguyên nhân khiến các bà mẹ có những nhận thức
không đúng về nuôi con bằng sữa mẹ. Trong đó, những quảng cáo về sữa công thức đã
tác động mạnh đến nhận thức của các bà mẹ nói riêng và cộng đồng nói chung, với
nhiều hình thức quảng cáo khác nhau trên các phương tiện thông tin đại chúng như
tivi, sách, báo,… cùng với những chương trình khuyến mãi, giảm giá, quà tặng kèm
theo, đặc biệt là những quảng cáo này cam kết sẽ giúp cho trẻ khỏe mạnh hơn, thông
minh hơn từ đó đã làm cho bà mẹ tin rằng sữa công thức có thành phần giống sữa mẹ
và có thể thay thế sữa mẹ.
Việt Nam vốn là đất nước có truyền thống nuôi con bằng sữa mẹ với những
phong tục tập quán được hình thành và đã chi phối lối sống, cách thức chăm sóc sức
khỏe cho bà mẹ và trẻ em. Với cuộc sống hiện đại ngày nay, tuy khoa học phát triển và
đã có nhiều khuyến nghị, hướng dẫn về nuôi con bằng sữa mẹ hợp lý nhưng vẫn còn
tồn tại nhiều tập quán nuôi con bằng sữa mẹ lạc hậu, một số thông tin được truyền từ
những người lớn tuổi, nhiều nhất là mẹ chồng hoặc mẹ đẻ đã không còn phù hợp, điển

hình là việc không cho bà mẹ sau sinh ăn đa dạng nhiều loại thức ăn, cho trẻ uống
thêm nước khi trẻ trong 4–6 tháng đầu vì sợ trẻ khát nước,… Tất cả những điều này đã
có tác động rất lớn đến kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ.

14


2.6. SƠ LƯỢC VỀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
Với vị trí đắc địa tại số 315 Nguyễn Văn Linh, phường An Khánh, quận Ninh
Kiều, thành phố Cần Thơ, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ được biết đến là
bệnh viện hạng I trực thuộc Sở Y tế thành phố Cần Thơ [2]. Bệnh viện được xây dựng
theo tiêu chuẩn quốc tế với hệ thống kĩ thuật hiện đại nhằm phục vụ tốt cho bệnh nhân.
Đây được coi là một trong những điểm nhấn quan trọng được nhiều người tin tưởng
lựa chọn để đến khám và chữa bệnh.
Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ bao gồm 8 phòng chức năng và 6 khoa
chính: Khoa Lâm Sàng, Khoa Cận Lâm Sàng, Khoa Nội, Khoa Ngoại, Khoa Khám
Bệnh, Khoa Cấp Cứu. Khoa Phụ Sản thuộc Khoa Ngoại của bệnh viện có tổng số
giường là 133 giường với 55 giường dịch vụ. Hiện nay Khoa Phụ Sản có 93 nhân viên
trong đó có 19 bác sĩ, 1 y sĩ sản nhi, 4 cử nhân điều dưỡng hộ sinh, 63 hộ sinh trung
học, 2 điều dưỡng trung học và 4 hộ lý. Về lĩnh vực theo dõi và điều trị, hiện tại, khoa
đã và đang thực hiện nhiều kỹ thuật tiên tiến nhằm phát hiện sớm một số bệnh: ung thư
cổ tử cung, những trường hợp nghi ngờ bất thường nhiễm sắc thể, dị dạng thai kết hợp
với các phẫu thuật tiên tiến. Và sắp tới khoa sẽ triển khai một số kế hoạch như: cắt đốt
nội soi buồng tử cung qua ngã âm đạo, mổ nội soi u xơ tử cung bằng sóng cao tần, đẻ
không đau,… Đối với lĩnh vực nghiên cứu khoa học thì nhiều đề tài nghiên cứu có tính
thiết thực đã được ứng dụng trên lâm sàng. [2]

15



CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Các bà mẹ sau sinh tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ.
3.1.2. Tiêu chuẩn chọn mẫu
Các bà mẹ sinh thường và sinh mổ tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ.
Các bà mẹ đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
3.1.3. Tiêu chuẩn loại trừ
Bà mẹ sinh con không sống.
Bà mẹ sau sinh có chống chỉ định cho con bú.
Bà mẹ bị tâm thần.
Bà mẹ không biết chữ.
3.1.4. Địa điểm nghiên cứu và thời gian nghiên cứu
Địa điểm: Khoa Phụ sản, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ. Địa chỉ: 315,
Nguyễn Văn Linh, phường An Khánh, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.
Thời gian: từ tháng 01 năm 2017 đến tháng 04 năm 2017.
3.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.2.1. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang.
3.2.2. Cỡ mẫu:
Lấy 100 đối tượng nghiên cứu đủ tiêu chuẩn chọn vào và không thuộc tiêu chuẩn
loại trừ.
Chọn độ tin cậy là 95% nên sai số cho phép là 0,05.
3.2.3. Phương pháp chọn mẫu
Dùng phương pháp chọn mẫu thuận tiện.
Chọn tất cả các bà mẹ sau sinh tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ đủ
tiêu chuẩn chọn mẫu và không thuộc tiêu chuẩn loại trừ cho đến khi đủ 100 đối tượng
nghiên cứu.
Lập danh sách 100 bà mẹ sau sinh đã chọn như trên để tiến hành nghiên cứu.
3.2.4. Nội dung nghiên cứu
3.2.4.1. Đặc điểm chung về đối tượng nghiên cứu

Tuổi của đối tượng nghiên cứu: có 3 giá trị.
+ Nhóm tuổi dưới 20 tuổi
+ Nhóm tuổi từ 20 đến 35 tuổi.
+ Nhóm tuổi trên 35 tuổi.
Nơi cư trú hiện tại: có 2 giá trị.
+ Nhóm bà mẹ cư trú ở thành thị (thị xã, thành phố).
16


×