Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

1 số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý xuất khẩu, nhập khẩu qua kiểm tra, giám sát Hải quan ở Cục Hải quan TP HN.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.71 KB, 82 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Quản lý nhà nước vụ Hải quan là một mặt của công tác quản lý nhà
nước về kinh tế nó có vị trí quan trọng trong thực thi chính sách kinh tế của
Nhà nước, đặc biệt là đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
Ngay từ khi mới giành được độc lập, Nhà nước ta rất chú trọng công
tác quản lý Nhà nước về Hải quan. Ngày 10/09/1945, sắc lệnh thành lập sở
thuế quan và thuế gián thu được ban hành đã xác định vai trò của Nhà nước
về thuế quan, xác định vị trí của ngành Hải quan, một trong những công cụ
của Nhà nước cách mạng nhằm bảo vệ lợi ích, chủ quyền an ninh đất nước.
Hơn 50 năm xây dựng và phát triển, lực lượng Hải quan Việt Nam
ngày càng lớn mạnh. Chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam về "Mở cửa"
nền kinh tế đã thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động xuất nhập khẩu, kim ngạch xuất
nhập khẩu của Việt Nam tăng nhanh trong những năm qua. Đó là một kết quả
đáng mừng, nhưng đồng thời nó càng địi hỏi cơng tác Hải quan phải khơng
ngừng được nâng cao nhằm đáp ứng được tình hình mới.
Hải quan giữ trọng trách là "Người gác cửa nền kinh tế", thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của mình về công tác thủ tục Hải quan, thu thuế xuất
nhập khẩu, chống buôn lậu và gian lận thương mại, trong đó kiểm tra, giám
sát Hải quan có ý nghĩa quan trọng. Có kiểm tra, giám sát chặt chẽ các đối
tượng chịu sự quản lý Hải quan với hàng hoá, hành lý xuất nhập khẩu,
phương tiện xuất nhập cảnh; kiểm tra, giám sát Hải quan là cơ sở cho công
tác thuế tiến hành "Thu đúng thu đủ" góp phần ngăn chặn các hành vi buôn
lậu và gian lận thương mại.
Công tác kiểm tra, giám sát Hải quan luôn được cải tiến và tăng cường
thể hiện vai trò qua các văn bản quy định và việc tổ chức thực hiện, tuy vậy
hoạt động này vần còn nhiều bất cập, nhiều kẽ hở nên tình trạng vi phạm pháp
luật Hải quan vẫn cịn nhiều.
Hà Nội là một trong những trung tâm kinh tế lớn của đất nước, nơi có
hoạt động xuất nhập khẩu khá sôi động với tốc độ tăng trưởng nhanh, do vậy
cũng đặt ra những nhiệm vụ nặng nề đối với công tác kiểm tra, giám sát Hải
quan cho Cục Hải quan TP. Hà Nội.



1


Xuất phát từ những lý do cơ bản trên đây, qua thời gian thực tập tại
Cục Hải quan TP. Hà Nội, tôi thấy vấn đề tăng cường công tác quản lý hoạt
động xuất nhập khẩu qua kiểm tra, giám sát Hải quan hiện nay đây là một yêu
cầu cấp bách. Điều đó đã gợi ý cho tơi thực hiện nghiên cứu đề tài này.
Đây là một đề tài rộng, mang tính tổng qt, hy vọng của tơi là được
góp một số ý kiến, làm rõ một số vấn đề chủ yếu nhất liên quan tới hoạt động
kiểm tra giám sát Hải quan - một vấn đề luôn được chú trọng, đặc biệt là
những cải cách thủ tục Hải quan tạo ra sự thơng thống cho hoạt động xuất
nhập khẩu thì càng cần nâng cao cơng tác này. Đã có một số bài viết lý luận
và phản ánh thực tế hoạt động kiểm tra giám sát Hải quan nhưng ở các khía
cạnh riêng lẻ. Trong q trình nghiên cứu, tơi cố gắng tiếp thu, kế thừa những
nhận định, đánh giá của một số bài viết. Để góp thêm tiếng nói, tơi chọn
nghiên cứu đề tài:4
"Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý xuất khẩu, nhập
khẩu qua kiểm tra, giám sát Hải quan ở Cục Hải quan TP. Hà Nội"
Mục đích nghiên cứu:
Căn cứ vào tình hình kết quả công tác, kiểm tra, giám sát Hải quan ở
Cục Hải quan Hà Nội từ 1995 đến nay để nhận định đánh giá thực trạng tình
hình, tìm ra những mặt cịn yếu để đi tới đề xuất, giải pháp nhằm tăng cường
cơng tác một cách có hiệu quả.
Nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra:
- Làm rõ vai trị, vị trí Hải quan trong quản lý Nhà nước về kinh tế, vị
trí của kiểm tra, giám sát Hải quan trong quản lý nhà nước về Hải quan.
- Làm rõ thực trạng công tác kiểm tra, giám sát Hải quan ở Cục Hải
quan Hà Nội, kết quả công tác trên từ năm 1995 đến nay, rút ra được kết luận,
đánh giá hợp lý.

- Đề xuất được những giải pháp nhằm tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát Hải quan của Cục Hải quan Hà Nội phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể trong giai đoạn hiện nay
Phạm vi đề tài:
- Giới hạn việc nghiên cứu nghiệp vụ kiểm tra, giám sát Hải quan trong
quản lý Nhà nước về Hải quan, chủ yếu đi sâu vào kiểm tra, giám sát Hải quan đối

2


với một số hoạt động và đối tượng điển hình trên địa bàn Hải quan Hà Nội quản
lý.
- Phạm vi số liệu được tham khảo, nghiên cứu là sự tổng kết do Cục
Hải quan Hà Nội cung cấp với một số tài liệu tham khảo khác
Phương pháp nghiên cứu:
- Quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong quản lý kinh tế
và chính sách thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu.
- Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, sử dụng
phương pháp lịch sử, hệ thống phân tích thực tiễn, làm cơ sở cho đề xuất
những ý kiến đóng góp mang tính khách quan hợp lý và khả thi.
- Sử dụng các phương pháp hỗ trợ khác như phương pháp thống kê,
phương pháp logíc...
Bằng kiến thức trong quá trình học tập tại trường Đại học cũng như
những ý kiến thực tiễn được qua thời gian thực tập tại Cục Hải quan Hà Nội,
thông qua bản luận văn này, tôi cố gắng vận dụng kiến thức để đánh giá thực
tiễn công tác kiểm tra, giám sát ở Cục Hải quan Hà Nội và đưa ra một số giải
pháp phù hợp.
Cơ cấu của luận văn gồm:
Chương 1: Hải quan với công tác quản lý xuất nhập khẩu
Chương 2: Thực trạng công tác kiểm tra giám sát hoạt động xuất nhập

khẩu ở Cục Hải quan Hà Nội trong các năm từ 1995 - 1999
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát Hải quan ở Cục Hải quan TP. Hà Nội.

3


CHƯƠNG 1:
HẢI QUAN VỚI CÔNG TÁC QUẢN LÝ XUẤT NHẬP KHẨU.
1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUẢN LÝ XUẤT-NHẬP KHẨU TRONG NỀN KINH TẾ.

Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ chương chiến lược, lâu dài đúng
đắn của đảng và bước đầu đã thu được thành quả hết sức khích lệ. Thực tế
lịch sử cho thấy, vai trị quản lý vĩ mơ của nhà nước vơ cùng quan trọng, nó
quyết định sự phát triển tới sự phát triển của đất nước.
a. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về kinh tế.
Quản lý nhà nước về kinh tế là sự cần thiết khách quan với mọi nền kinh tế
trên thế giới. Vai trò quản lý của nhà nước về kinh tế bắt nguồn từ sự cần thiết
phải phối hợp hoạt động lao đông chung. Và do tính chất xã hội hố của sản
xuất qui định. Lực lượng sản xuất càng phát triển trình độ xã hội hố của sản
xuất càng cao thì phạm vi thực hiện vai trò này càng cần thiết và mức độ của
nó càng chặt chẽ và nghiêm ngặt.
Như đã biết, nền kinh tế hàng hoá với cơ chế thị trường là bước phát triển
tất yếu của kinh tế tự cấp tự túc, một trình độ cao của sự xã hội hoá sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường ấy, khi các quan hệ kinh tế quốc tế được hình
thành và phát triển thì các hoạt động kinh tế trong và ngoài nước xâm nhập
tác động lẫn nhau; các nguồn lực bên trong và bên ngồi có thể di chuyển phù
hợp hay không phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong nước; qui mô và
cơ cấu nền kinh tế có thể chuyển dịch theo hướng tiến bộ hợp lý tối ưu hay

lạc hậu, bất hợp lý, mất cân đối và nền kinh tế dân tộc của mỗi quốc gia ở vào
vị trí phụ thuộc hay là một khâu cần thiết của hệ thống phân công lao động
quốc tế. Có thể nói vận mệnh của mỗi nền kinh tế quốc gia không chỉ phụ
thuộc vào các quan hệ bên trong mà cịn phụ thuộc vào các quan hệ bên
ngồi, vào thị trường khu vực và thị trường quốc tế. Tình hình đó đã đặt lên
vai nhà nước khơng chỉ là nhiệm vụ của “người lính” bảo vệ trật tự xã hội và
an ninh quốc gia mà còn là người hiểu biết qui luật vận động và phát triển của
nền sản xuất xã hội, nắm vững và dự báo được các diễn biến kinh tế trong và
ngồi nước, có khả năng sử dụng các đòn bẩy kinh tế, thể chế hoá các chủ
4


trương, chính sách kinh tế thành một hệ thống các luật lệ các qui chế đồng bộ
để trực tiếp tác động khống chế điều tiết cáchoạt động kinh tế đối ngoại; định
hướng sự phát triển các ngành, các vùng, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế
nhằm đảm bảo yêu cầu cân đối trong sự phát triển do chính các qui luật và
tính qui luật khách quan của đời sống kinh tế - xã hội quy định.
Tóm lại, việc khắc phục những nhược điểm, hạn chế những khuyết tật của
cơ chế thị trường để tạo điều kiện thuận lợi cho cơ chế này hoạt động có hiệu
quả khơng thể khơng có nhà nước với tư cách là chủ thể của toàn bộ nền kinh
tế quốc dân. Như vậy, nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế là nhu
cầu khách quan, nội tại của nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị
trường, còn việc điều tiết, khống chế và định hướng các hoạt động kinh tế của
các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế theo phương hướng và mục tiêu nào
lại lệ thuộc vào bản chất của các hình thức nhà nước và con đường phát triển
mà nước đó lựa chọn.
b. Quản lý nhà nước về xuất-nhập khẩu là một yêu cầu tất yếu.
Thương mại quốc té trong nền kinh tế quốc dân có vai trị vơ cùng quan
trọng nhất là trong giai đoạn mà “đóng cửa là tự bóp chết nền kinh tế”. Tuy
nhiên, để hoạt động này có hiệu quả thì phải có sự quản lý của nhà nước. Là

một đối tượng trong quản lý nhà nước về kinh tế, để phát huy vai trị cũng
như tiềm năng ngoại thương thì tăng cường đổi mới công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động xuất-nhập khẩu là rất cần thiết.
Kinh doanh thương mại quốc tế cũng như bất kỳ một hoạt động nào khác
của con người đều cần có sự tổ chức và quản lý nhằm đảm bảo cho hệ thống
đó hoạt động chính xác, đúng yêu cầu, mục tiêu nhiệm vụ đề ra. Chuyển sang
nền kinh tế thị trường một mặt phát huy những ưu điúm, đồng thời khắc phục
các nhược điúm của nền kinh tế thị trường. Phải biết rằng kinh tế thị trường
không phải là chiếc gậy thần, cũng không phải là chìa khố vạn năng. Trong
kinh doanh thương mại quốc tế hiện nay tình trạng lộn xộn, tranh xuất, tranh
nhập diễn ra rất phổ biến gây rối loạn thị trường trong nước, dẫn đến ép giá.
Bên cạnh đó, thủ tục nhiều cửa với những qui định rườm rà cũng gây khơng ít
khó khăn cho nhà hoạt động kinh doanh xuất-nhập khẩu. Ngun nhân chính
là chưa có những qui định chặt chẽ, rõ ràng về chức năng nhiệm vụ cũng như
phạm vi can thiệp của các cơ quan quản lý dẫn đế sự chồng chéo trên một số
lĩnh vực khác. Việc xử lý các vi phạm trong quản lý kinh doanh xuất-nhập
khẩu chưa kịp thời nghiêm khắc. Kinh doanh xuất-nhập khẩu tiểu ngạch qua
5


một số tỉnh biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam chưa được tổ chức và
quản lý thích hợp. Hậu quả của nó là những mặt hàng nhập lậu vào trong
nước. Thực trạng của kinh doanh xuất-nhập khẩu hiện nay đòi hỏi sự can
thiệp của nhà nước một cách có hệ thống đúng đắn hơn, khoa học và kịp thời
hơn.
c. Quản lý nhà nước của Việt Nam trong lĩnh vực xuất-nhập khẩu.
Để khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hướng nhập khẩu phục vụ tốt sản
xuất và tiêu dùng, bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước, nâng cao hiệu quả
sản xuất, mở rộng hợp tác kinh tế thương mại với nước ngồi góp phần thực
hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời để quản lý hoạt động

xuất-nhập khẩu. Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng: Quyết
định 117- HĐBT ngày 16/6/1987 về chính sách, biện pháp đẩy mạnh xuất
khẩu và quản lý xuất-nhập khẩu; Nghị định 64 - HĐBT ngày 10/6/1989 về
chấn chỉnh và đổi mới cơ chế quản lý hoạt động xuất-nhập khẩu. Đặc biệt
nghị định 114 - HĐBT ngày 7/4/1992 về quản lý nhà nước đối với hoạt động
xuất-nhập khẩu, so với các văn bản đã được ban hành trước đó, nghị định này
đã đánh dấu bước chuyển từ mơ hình nhà nước độc quyền ngoại thương sang
tự do hoá ngoại thương, từ biện pháp quản lý bằng mệnh lệnh, chỉ được làm
cái mà chính phủ cho phép sang biện pháp quản lý bằng đòn bẩy kinh tế,
được phép làm những gì mà chính phủ khơng cấm. Đến năm 1994, trước
những chuyển biến kinh tế xã hội trong nước và quốc tế, chính phủ đã ban
hành nghị định 33/cp ngày 19/4/1994 về quản lý nhà nước với hoạt động xúât
nhập khẩu nhằm bổ xung, sửa đổi những khiếm quyết của nghị định 144HĐBT cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn... và các văn bản hướng đẫn quan
trọng khác.
Theo tinh thần cơ bản của nghị định trên, nhà nước nhà nước ta đã quản lý
thống nhất mọi hoạt động kinh doanh xuất-nhập khẩu bẳng luật pháp và các
chế độ chính sách có liên quan tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức xuấtnhập khẩu hoạt động đúng hướng và hiệu quả cao.
Ở nước ta, hoạt động thức xuất-nhập khẩu chịu sự quản lý của nhà nước có
các hình thức sau:
-

Xuất-nhập khẩu hàng hố (kể cả thiết bị toàn bộ ) với nước ngoài và
với khu chế xuất, thông qua thương mại, hợp tác quốc tế và khoa học kỹ
thuật, hợp tác đầu tư, viện trợn, vay và trả nợ.
6


- Tạm nhập để tái xuất, tạm xuất để tái nhập, chuyển khẩu, q cảnh hàng
hố.
-


Chuyển giao sở hữu cơng nghiệp.

- Gia cơng chế biến hàng hố và chế biến thành phẩm cho nước ngồi
hoặc th nước ngồi gia cơng chế biến.
- Đại lý mua, bán hàng hoá, uỷ thác và nhận uỷ thác xuất-nhập khẩu cho
các doanh nghiệp trong nước và nước ngồi.
Ngồi ra, các hàng hố và dịch vụ xuất-nhập khẩu phi mậu dịch được quản
lý theo chế độ riêng:
- Vàng bạc, đà quý
- Quả biếu
- Tài sản di chuyển
- Bưu phẩm bưu điện mang tính thương mại
- Hàng của người Việt mang theo để dùng khi xuất-nhập khẩu.
-

Hàng xuất, nhập khẩu giữa các khu chế xuất với nhau và gữa các khu
chế xuất với nước ngoài.

- Các dịch vụ du lịch, ngân hàng, bảo hiểm, bưu điện, hàng không, đường
sắt, đường bộ, đường thuỷ.
Việc quản lý nhà nước với các hoạt động xuất-nhập khẩu đựoc thực hiện
theo các nguyên tắc sau :
-

Tân thủ luật pháp và các chính sách có liên quan của nhà nước về sản
xuất lưu thông và quản lý thị trường.

- Tôn trọng các cam kết với nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế.
- Bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp và bảo đảm sự

quản lý của nhà nước.
Nhà nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ đối với các doanh nghiệp
phát triển và mở rộng thị trường mới; xuất khẩu những mặt hàng nhà nước
khuyến khích.
Về tổ chức quản lý hoạt động xuất-nhập khẩu, nhà nước qui định : Bộ
thương mại là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước, thống nhất đối
với hoạt động xuất-nhập khẩu; các bộ, các uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
7


trực thuộc trung ương có trách nhiệm tham gia với bộ thương mại quản lý
trên các mặt.
- Hướng dẫn và chỉ đạo và thực hiện đúng các chính sách quy định của
nhà nước về quản lý xuất-nhập khẩu,trong phạm vi ngành và địa phương.
- Kiến nghị điều chỉnh chính sách, biện pháp quản lý hoạt động xuất
khẩu.
d. Các công cụ quản lý nhà nước về hoạt động xuất-nhập khẩu ở nước ta
và các công cụ quản lý xuất-nhập khẩu đang được áp dụng là:
- Thủ tục Hải quan
- Thuế xuất-nhập khẩu.
- Hạn ngạch xuất-nhập khẩu.
- Giấy phép xuất-nhập khẩu.
- Quản lý ngoại tệ.
Vai trị và tác dụng của mỗi cơng cụ trên là như nhau song cùng với mục
đích là quản lý hoạt động xuất-nhập khẩu. Trong bài viết này, tôi chỉ tập
chung đi vào nghiên cứu việc sử dụng công cụ Hải quan để kiểm tra, giám
sát và quản lý hoạt động xuất-nhập khẩu.
2. HẢI QUAN RA ĐỜI TRÊN CƯƠNG VỊ LÀ MỘT TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ
CỦA CHÍNH PHỦ.


Ngay từ khi mới khai sinh, nhà nước rất chú trọng quản lý bằng công cụ
Hải quan. Việc thành lập sở thuế quan và thuế gián thu theo sắc lệnh 27/Sl
ngày 10/9/1945 đã xác định vai trò của nhà nước về thuế quan, xác định vị trí
của ngành Hải quan, một trong những công cụ của nhà nước cách mạng nhằm
bảo vệ lợi ích, chủ quyền và an ninh đất nước.
Tại điều 3 pháp lệnh Hải quan Việt Nam quy định chức năng, nhiệm vụ của
ngành Hải quan như sau: “Trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn do pháp lệnh
này quy định, Hải quan Việt Nam thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
Hải quan với hoạt động xuất-nhập khẩu, xuất cảnh nhập cảnh, quá cảnh
mượn đường Việt Nam, đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyền trái phép
hàng hoá, ngoại tệ, tiền Việt Nam qua biên giới. Trong hoạt động của mình,
Hải quan Việt Nam tuân theo pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế liên
quan đến hoạt động Hải quan mà CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc công
nhận.”
8


Nhà nước sử dụng công cụ quản lý bằng Hải quan nhằm định ra các chính
sách, luật pháp nhằm điều chỉnh hoạt động xuất-nhập khẩu, xuất nhập cảnh
bảo đảm cho việc phát triển quan hệ kinh tế, văn hoá trong nước với nước
ngồi, góp phần tăng cường sự giao lưu và hợp tác quốc tế, bảo vệ chủ quyền
an ninh quốc gia.
Quản lý nhà nước về Hải quan còn là tổ chức thực hiện về kiểm tra Hải
quan tại biên giới, cửa khẩu và bất cứ nơi nào có hàng hoá xuất-nhập khẩu,
phương tiện vận tải xuất nhập cảnh, bao gồm nhiều mặt hoạt động, trong đó
hai mặt hoạt động chủ yếu là thu thuế xuất-nhập khẩu và chống buôn lậu qua
biên giới.
Do đó, việc quản lý nhà nước bằng công cụ Hải quan là vô cùng tất yếu,
chức năng quản lý đó thể hiện ở hai mặt : quản lý bằng chính sách luật pháp
và bằng hoạt động kiểm tra, giám sát. Nhà nước ta tạo điều kiện thuận lợi đối

với hoạt động xuất-nhập khẩu, xuất nhập cảnh trên cơ sở tuân thủ luật pháp
Việt Nam.
Ngày nay, trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế đất nước, hoạt động
kinh tế đối ngoại và sự giao lưu quốc tế nói chung càng phát triển cả về chiều
sâu và chiều rộng, điều đó đặt ra yêu cầu khách quan phải tăng cường hơn
nữa quản lý nhà nước về Hải quan. Đối tượng quản lý càng mở rộng, phức
tạp, phong phú, có trình độ phát triển cao thì cơng tác quản lý cũng phải tăng
cường tương xứng mới đáp ứng yêu cầu quản lý.Vai trò và trách nhiệm của
ngành Hải quan do đó rất nặng nề nhưng cũng rất vinh dự.
3. VAI TRỊ CỦA HẢI QUAN TRONG CƠNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT HOẠT
ĐỘNG XUẤT-NHẬP KHẨU.

Như trên đã khẳng định, hoạt động xuất-nhập khẩu cũng nằm trong những
đối tượng chịu sự quản lý của nhà nước về kinh tế. Hoạt động xúât nhập khẩu,
bên cạnh những đóng góp tích cực vào tăng trưởng và phát triển kinh tế thì
vẫn cịn có nhiều tồn tại ( những khuyết tật, những mặt trái vốn có của nó) mà
các cơ quan chức năng của nhà nước ( trong đó có Hải quan và thuế vụ, ngành
tài chính, cơ quan quản lý thị trường...). Những mặt còn tồn tại này đòi hỏi
các cơ quan quản lý, nhất là lực lượng Hải quan phải hiểu rõ để chủ động
ngăn ngừa, hạn chế. Ví như, do có cạnh trạnh nên dễ dẫn đến tranh mua, tranh
bán lộn xộn; các tệ nạn như buôn lậu, trốn thuế, hối lộ nhân viên nhà nước..
dẫn đến thất thoát lớn là rất có chiều hướng xảy ra. Vì vậy, Hải quan nói riêng
và các cơ quan quản lý nói chung cần phát huy chức năng kiểm soát thường
9


xuyên, chặt chẽ kịp thời đảm bảo việc xuất-nhập khẩu theo đúng pháp luật; và
từ diễn biến thực tế, nhà nước khơng ngừng bổ sung, hồn thiện luật pháp về
xuất-nhập khẩu. Trong cạnh tranh sẽ có những doanh nghiệp xấu để cản trở,
phá hoại các doanh nghiệp khác nhằm thôn tính kẻ yếu. Các cơ quan quản lý

phải xem xét mặt hiệu quả kinh tế xã hội để xây dựng luật pháp, cơ chế quản
lý, kiếm soát điều hành, điều tiết cho nhanh, phù hợp và có hiệu quả.
Cơng tác xuất-nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá với nước ngồi để phát
triển sản xuất thương mại, từ đó góp phần nâng cao đời sống nhân dân; nhưng
do có yếu tố nước ngồi nên có nhiều nét khác với nội thương. Nó rất đa
dạng, phức tạp do có giao dịch với các doanh nhân và người có quốc tịch
khác nhau, trong một thị trường rộng lớn, khó kiểm sốt; việc mua bán qua
trung gian chiếm tỉ trọng lớn; đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh. Hàng
hoá phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu của nhiều quốc gia khác nhau và
phải tuân thủ tập quán, những thông lệ quốc tế của các địa phương, các vùng
lãnh thổ khác nhau..
Chính tại những nơi đó, ngồi những chủ thể hàng hố tn thủ pháp luật
cịn có những chủ thể có những hành vi buôn lậu, trốn thuế.. với những thủ
đoạn tinh vi. Vì vậy ở nước ta cũng như bất kì quốc gia nào, Hải quan có vị trí
vơ cùng quan trọng trong lĩnh vực quản lý xuất-nhập khẩu, hàng hoá xuất
nhập cảnh và đặc biệt chống buôn lậu và ngăn chặn việc vận chuyển, bn
bán trái phép hàng hố, tiền tệ, tài sản, hàng cấm.. qua biên giới.
Từ ngày đất nước thống nhất đến nay, Hải quan Việt Nam và các ngành
chức năng liên quan đã không ngừng lớn mạnh, phát triển góp phần to lớn
vào cơng cuộc xây dựng kinh tế xã hội và bảo vệ an ninh quốc gia.
Hải quan là lực lượng “gác cửa“ nền kinh tế đất nước. Đây là vinh dự và
trách nhiệm rất nặng nề. Trong nền kinh tế thị trường khi lợi nhuận cao thì
bn lậu và gian lận thương mại càng tinh vi, cuộc đấu tranh chống buôn lậu
và gian lận thương mại càng gian nan và muốn đạt được kết quả cao thi phải
tiến hành đồng thời cuộc chiến tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Đó là
những cơng việc khơng thể tiến hành trong thời gian ngắn mà phải là một quá
trình lâu dài và liên tục.
Thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất-nhập
khẩu, ngành Hải quan góp phần thu hút các “làn gió lành” và ngăn chặn các
“làn gió độc” thổi vào nước ta, tạo thuận lợi nhất cho các hoạt động kinh tế

10


đối ngoại đảm bảo thực hiện chính sách về nhập khẩu hàng hố cũng như
chống bn lậu và gian lận thương mại của nhà nước CHXHCN Việt Nam.
“Người lính biên phịng của nền kinh tế”_ Hải Quan chịu trách nhiệm
chính ở các cửa khẩu, quốc gia, quốc tế nhằm kiểm tra, kiểm sốt cơng khai
hàng hố, tiền tệ, giữ vững kỉ cương, phép nước đối với hoạt động xuất-nhập
khẩu, xuất nhập cảnh và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, bảo hộ và thúc đẩy
sản xuất trong nước phát triển, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, bảo vệ lợi ích
chủ quyền kinh tế, an ninh quốc gia và an tồn xã hội góp phần chống lại các
nguy cơ đối với đất nước mà đại hội đảng đã đề ra.
4. NỘI DUNG CÔNG TÁC KIỂM TRA VÀ GIÁM SÁT HẢI QUAN

4.1. Mục đích, u cầu, ngun tắc của cơng tác kiểm tra, giám sát Hải
quan
a.mục đích.
Hải quan tiến hành thủ tục Hải quan, thực hiện chế độ kiểm tra giám sát
Hải quan với các đối tượng kiểm tra Hải quan nhằm :
-

Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về Hải quan đối với hoạt động
xuất-nhập khẩu, xuất-nhập cảnh, quá cảnh, mượn đường khi qua biên
giới Việt Nam.

- Bảo đảm thực hiện chính sách của nhà nước về phát triển quan hệ kinh
tế, văn hố với nước ngồi, góp phần tăng cường sự giao lưu và hợp tác
quốc tế, bẩo vệ sản xuất trong nước, bảo vệ lợi ích chủ quyền và an ninh
quốc gia.
b. Yêu cầu.

- không để lọt các đối tượng kiểm tra Hải quan khi qua biên giới Việt
Nam, theo quy định phải làm thủ tục Hải quan, chịu sự kiểm tra giám
sát Hải quan mà lại không làm thủ tục Hải quan.
-

Cần xác định rõ từng đối tượng kiểm tra Hải quan để áp dụng và thực
hiện đúng đắn các chế độ đối với từng loại đối tượng kiểm tra, khơng để
lẫn lộn giữa hàng hố này với các hàng hoá loại khác, đối tượng kiểm
tra loại này với đối tượng kiểm tra loại khác.

-

Phát hiện ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp lệnh hải Hải quan và các
luật lệ khác liên quan đến xuất-nhập khẩu.
11


- Thủ tục Hải quan phải cơng khai, nhanh chóng thuận tiện.
c. Nguyên tắc.
-

Hàng hoá, hành lý, ngoại hối, tiền Việt Nam, bưu kiện, bưu phẩm...
xuất-nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất nhập cảnh khi làm thủ tục Hải
quan phải chịu sự kiểm tra Hải quan.

- Hàng hoá, hành lý, ngoại hối, tiền Việt Nam, bưu kiện, bưu phẩm...đã
nhập nhưng chưa hoàn thành thủ tục Hải quan hoặc đã hoàn thành thủ
tục Hải quan nhưng chưa thực xuất đều chịu sự giám sát Hải quan.
-


Việc kiểm tra giám sát Hải quan được tiến hành với sự có mặt của chủ
đối tượng kiểm tra, giám sát hoặc đại diện hơp pháp tại địa điểm kiểm
tra Hải quan cửa khẩu trừ trường hợp có yêu cầu tại địa điểm khác được
Hải quan chấp nhận. Trong trường hợp cần thiết (lý do an ninh, vệ sinh
mơi trường...) Hải quan có quyền kiểm tra Hàng vắng chủ với sự có
mặt của cơ quan vận tải ( điều 17 - Pháp lệnh Hải quan ).

-

Hàng hoá xuất-nhập khẩu chịu sự kiểm tra, giám sát nếu lưu kho phải
thực hiện chế độ niêm phong Hải quan( điều 19-pháp lệnh Hải quan ).

- Các căn cứ để Hải quan kiểm tra hàng hoá xuất-nhập khẩu là :
+ Qui định của nhà nước về xuất-nhập khẩu.
+ Các giấy tờ cần thiết khác theo qui định pháp luật
+ Đối chiếu với các tờ khai Hải quan, vân đơn và thực tế hàng hoá.
4.2. Thủ tục Hải quan.
4.1.1. khái niệm :
* Thủ tục Hải quan là các công việc mà người làm thủ tục Hải quan và
nhân viên Hải quan phải thực hiện theo qui định của pháp luật với các đối
tượng làm thủ tục Hải quan khi xuất khẩu, nhập khẩu; xuất cảnh, nhập cảnh
hoặc quá cảnh.
* Đối tượng làm thủ tục Hải quan :
-

Hàng hoá, ngoại hối, kim khí, đá q, tiền Việt Nam, văn hố phẩm, tài
liệu, bưu phẩm, bưu kiện, các đồ vật và tài sản khác xuất khẩu, nhập
khẩu; phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh hoặc quá cảnh qua lãnh
thổ Việt Nam đều phải làm thủ tục Hải quan.
12



- Người làm thủ tục Hải quan là người thực hiện thủ tục với cơ quan Hải
quan bao gồm :
+ Người sở hữu đối tượng làm thủ tục Hải quan
+ Người được ủy quyền hợp pháp của người sở hữu đối tượng làm thủ tục
Hải quan.
+ Người làm dịch vụ thủ tục Hải quan theo quy định của pháp luật.
+ Người điều khiển phương tiện vận tải xuất nhập cảnh, quá cảnh.
- Việc làm thủ tục Hải quan được tiến hành tại các cửa khẩu, càng biển,
cảng sông, cảng hàng không dân dụng quốc tế, cửa khẩu biên giới đường bộ,
ga liên vận đường sắt quốc tế, bưu cục ngoại dịch, bưu cụ kiểm quan, các địa
điểm làm thủ tục Hải quan khác ngồi cửa khẩu do thủ tướng chính phủ quyết
định theo đề nghị của TỔNG CỤC TRƯỞNG TỔNG CỤC HẢI QUAN.
4.2.2. Qui trình thủ tục Hải quan với hàng hố xuất-nhập khẩu.
Thực hiện nghị định của chính phủ qui định về thủ tục Hải quan số 16/1999
ND-CP. Cục Hải quan thành phố đã tiến hành thủ tục Hải quan đối với hàng
hoá nhập khẩu bao gồm các bước sau:
a. Khai báo và tiếp nhận hồ sơ Hải quan.
Tất cả các hàng hố khơng thuộc diện miễn thủ tục Hải quan thì phải khai
báo cho Hải quan cửa khẩu.
* Người khai báo có trách nhiệm :
-Tự kê khai hàng hoá xuất-nhập khẩu theo mẫu tờ khai do cụ Hải quan
phát hành
-

Phải khai đầy đủ các mục in sẵn trong tờ khai hàng, phần đành cho chủ
hàng. Đặc biệt phải chính xác đầy đủ tên hàng, mã, số lượng đơn giá, trị
giá của hàng hố đó. Nếu khai thiếu khơng chính xác, Hải quan khơng
cho đăng ký tờ khai.


- Nộp và xuất trình bộ hồ sơ Hải quan, gồm các giấy tờ sau:
+ Tờ khai Hải quan.
+ Hợp đồng thương mại.
+ Bảng kê chi tiết (PACKING-LIST) đối với hàng không đồng nhất.
+ Hoá đơn thương mại, vân đơn : với hàng nhập khẩu
13


+ Các giâý tờ khác.(với các loại hàng khác).
* Nhân viên Hải quan tiếp nhận hồ sơ Hải quan có trách nhiệm :
-

Kiểm tra tính hợp lệ và đồng bộ của hồ sơ Hải quan.

- Kiểm tra nội dung tự kê khai và tự tính thuế của người khai báo Hải
quan.
- Đề xuất phương pháp kiểm tra thích hợp qua kết quả kiểm tra sơ bộ hồ
sơ Hải quan và các tiêu chí phân luồng kiểm tra...
Tờ khai Hải quan và những giấy tờ kèm theo của chủ đối tượng kiểm tra
Hải quan khai báo và nộp Hải quan là cơ sở pháp lý thơng qua đó có thể xác
định hành vi vi phạm pháp lệnh Hải quan nếu có, đồng thời là cơ sở để Hải
quan thực hiện các khâu nghiệp vụ tiếp theo.
b. Xuất trình và kiểm tra hàng hoá.
Căn cứ vào bộ hồ sơ đã được đăng ký để kiểm hố. Ngun tắc qui trình về
kiểm hố thi hành theo qui chế ban hành kèm theo quyết định 189/TCHQGSQL ngày 7/10/1994. Kiểm tra hàng hoá phải xác định đầy đủ chính xác nội
dung hàng hố, đặc biệt chính xác về mã hàng hố khai báo với thực tế số
lượng, trọng lượng. Sau khi ghi đầy đủ, chính xác kết quả kiểm hố, chuyển
tồn bộ hồ sơ cho bộ phận tính và thơng báo thuế.
* Với người làm thủ tục Hải quan

- Xuất trình đầy đủ hàng hố để cơ quan kiểm tra theo thời gian và địa
điểm quy định.
- Bố trí phương tiện và cơng nhân phục vụ việc kiểm tra hàng hoá của cơ
quan Hải quan.
- Có mặt trong thời gian kiểm hố hàng hóa.
* Đối với cơ quan Hải quan :
- Trong thời gian và tại địa điểm qui định phải tiến hành kiểm tra thực tế
hàng hoá đối với bộ kê khai và tự tính thuế của chủ hàng.
-

Căn cứ và quy định của nhà nước về xuất-nhập khẩu, quá trình chấp
hành pháp luật của người làm thủ tục Hải quan, tính chất chủng loại
hàng hoá, nguồn gốc hàng hoá. Hải quan nơi tiến hành kiểm tra quyết
định phương pháp kiểm tra, kiểm tra toàn bộ; kiểm tra nguyên đai
14


nguyên kiện hoặc kiểm tra một phần theo qui định của tổng cục trưởng
tổng cục Hải quan.
-

Xác nhận kết quả kiểm tra hàng hoá và tờ khai Hải quan trong đó ghi rõ
phương pháp kiểm tra hàng hố, kết quả kiểm tra cụ thể và số sai lệch
(nếu có) giữa tự kê khai của chủ hàng và kiểm tra thực tế của cán bộ Hải
quan.

- Trường hợp người làm thủ tục Hải quan khơng nhất trí kết quả kiểm tra
hàng hoá của cơ quan Hải quan thỉ được quyền trưng cầu giám định tại
các tổ chức giám định được nhà nước cho phép. Nếu cơ quan Hải quan
khơng nhất trí kết quả giám định trên thì cơ quan Hải quan đề nghị bộ

khoa học công nghệ môi trường hoặc bộ quản lý chuyên ngành giải
quyết. Kết luận của bộ khoa học, công nghệ môi trường hoặc bộ quản lý
chuyên ngành là kết luận cuối cùng.
c. Thông báo thuế, thu, nộp thuế.
* Yêu cầu :
- Phải đảm bảo thu đúng, thu đủ thuế.
-

Thủ tục tính thuế, ra thơng báo thuế và thu thuế phải nhanh, thuận tiện,
rõ ràng chính xác.

* Với cán bộ nhân viên Hải quan làm ở bộ phận này phải :
- Nắm vững qui trình nghiệp vụ Hải quan, qui trình nghiệp vụ tính thuế.
-

Nắm chắc luật thuế xuất khẩu, thuế GTGT, thuế TTĐB, chính sách phụ
thu và tỉ giá chuyển đổi hàng ngày và các văn bản chuyển đổi.

- Có kiến thức về kế tốn thuế, phân loại hàng hoá theo hồ sơ, về trị giá
Hải quan ( trị giá GATT/WTO), xuất xứ hàng hàng hoá (C/O).
- Nắm vững phương pháp chuyển đổi.
* Nội dung :
Việc tính thuế, thông báo thuế, thu thuế thực hiện theo qui định của luật
thuế xuất-nhập khẩu và các thuế khác có liên quan.
-

Căn cứ vào kết quả kiểm tra, căn cứ và số lượng, trọng lượng của từng
loại hàng hoá ghi nhận trên tờ khai nhân viên tính thuế tiến hành tính
thuế cho từng tờ khai. Phải tính thuế cho từng nhóm hàng, từng mặt
hàng và số thuế phải nộp ghi cả bằng số và bằng chữ trên tờ khai. đối

15


với hàng khai trị giá bằng ngoại tệ phải chuyển sang đồng Việt Nam để
tính thuế, phải ghi rõ tỉ giá quy định đổi sang ngoại tệ.
-

Sau khi kết toán số thuế, cần thông báo cho chủ hàng biết bằng văn bản
và yêu cầu chủ hàng ký nhận.

-

Trong thời gian qui định của pháp luật, người sở hữu đối tượng làm thủ
tục Hải quan có nghĩa vụ nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và các
loại thuế khác liên quan đến hàng hố xuất khẩu, nhập khẩu (nếu có )
theo qui định.

- Ngoài ra chủ hàng phải làm nghĩa vụ khác hay nộp lệ phí Hải quan
trong một số trường hợp pháp luật quy định.
d. Giải phóng hàng :
-

Đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu khơng có thế, hàng được miễn thuế,
hàng có thuế suất bằng 0, hàng gia cơng, hàng đặc biệt khác sẽ được
giải phóng ngay sau khi có kết luận về kết quả kiểm tra của cơ quan Hải
quan.

-

Đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện có thuế được giải

phóng hàng sau khi đã nộp thuế, hàng có thời hạn, án hạn thuế được giải
phóng hàng sau khi đã nhận thông báo thuế.

e. Kiểm tra sau khi giải phóng hàng.
-

Doanh nghiệp có trách nhiệm lưu giữ hồ sơ Hải quan của những lô hàng
đã giải phóng trong thời hạn năm năm kể từ ngày giải phóng hàng và có
trách nhiệm xuất trình bộ hồ sơ cùng sổ sách chứng từ có liên quan khi
cơ quan Hải quan yêu cầu.

-

Cơ quan Hải quan thông qua việc kiểm tra hồ sơ Hải quan lưu tại Hải
quan hoặc qua các nguồn thơng tin khác mà phát hiện có sai lệch về số
thuế phải nộp của doanh nghiệp thì được phép kiểm tra hồ sơ lưu ở
doanh nghiệp, cùng các sổ sách, chứng từ có liên quan đến lơ hàng được
giải phóng.

4.3. Kiểm tra Hải quan:
a. Khái niệm :
Kiểm tra Hải quan là việc cơ quan Hải quan xem xét, xác định tính hợp
pháp, tính chính xác của bộ hồ sơ Hải quan về thực tế hàng hoá, vật phẩm.
16


Việc kiểm tra Hải quan được tiến hành tại các điịa điểm làm thủ tục Hải quan
và các địa điểm kiểm tra hàng hoá xuất-nhập khẩu do TỔNG CỤC TRƯỞNG
TỔNG CỤC HẢI QUAN qui định.
b.Nguyên tắc kiểm tra Hải quan ( gọi tắt là kiểm hoá ).

-

Việc kiểm tra chỉ được tiến hành sau khi lô hàng đã được đăng ký tờ
khai. Kiểm tra bộ hồ sơ hợp pháp, hợp lệ; tuyệt đối không được kiểm
tra trước khi nhận tờ khai.

- Chỉ được kiểm hoá ở khu vực cửa khẩu hoặc ở những địa điểm kiểm tra
ngoài cửa khẩu được Hải quan tỉnh, thành phố chấp nhận bằng văn bản.
- Hải quan một tỉnh, thành phố không được kiểm tra tại địa bàn một tỉnh,
thành phố khác mà ở đó khơng có tổ chức Hải quan. Trường hợp đó chủ
hàng phải làm thủ tục Hải quan cho lô hàng ở tỉnh, thành phố sở tại.
* Với nhân viên kiểm hoá :
-

Cán bộ nhân viên trực tiếp kiểm hoá thực hiện đúng thời gian đã thống
nhất với chủ hàng. Nhân viên kiểm hố khơng được thay đổi thời gian
kiểm hố.

- Việc kiểm hố phải có ít nhất 2 nhân viên Hải quan thực hiện.
- Chỉ được kiểm hố khi có mặt đại diện chủ hàng.
- Chỉ được ghi kết quả kiểm hố khi đã thực hiện kiểm hố xong. Tuyệt
đối khơng được ghi kết quả trước khi kiểm hoá mà chỉ ghi theo hồ sơ.
-

Kết quả kiểm hoá phải được ghi đầy đủ, cụ thể,chính xác. Những sai
lệch giữa bản kê khai hàng với kiểm tra thực tế lô hàng phải được kèm
theo biên bản ghi nhận hoặc biên bản vi phạm để làm cơ sở cho xử lý
sau này.

- Chỉ được thu các bản lệ phí theo quy định của nhà nước và hướng dẫn

của tổng cục Hải quan.
-

Nhân viên kiểm hóa phải có thái độ trung thực khách quan, khẩn
trương, đúng đắn lịch sự trong khi kiểm hoá và trong quan hệ với chủ
hàng.

c. Yêu cầu.
-

Kiểm hoá Hải quan là một khâu nghiệp vụ quan trọng bậc nhất trong
quy định nghiệp vụ kiểm tra, giám sát và quản lý về Hải quan. Công tác
17


kiểm hoá yêu cầu cần phải bảo đảm được đúng tên hàng, số lượng,
trọng lượng, chất lượng,xuất xứ hàng hoá xuất-nhập khẩu.
-

Kiểm hoá tên hàng, ký hiệu mã hiệu hàng hoá để bảo đảm khớp đúng
giữa tờ khai với thực tế hàng hóa xuất-nhập khẩu, nhằm ngăn chặn gian
lận, né tránh trong khai báo để được hưởng thuế suất thấp hơn, gây thất
thu thuế cho nhà nước.

-

Kiểm hoá số lượng trọng lượng hàng hoá là khâu quan trọng số một
trong cơng tác kiểm hố Hải quan. Số thuế thất thu do bỏ sót một số
lượng, trọng lượng là lớn nhất hiện nay.Vì vậy yêu cầu cần phải kiểm
tra, đối chiếu với số lượng, trọng lượng hàng hóa thực tế nhập về để

ngăn chặn gian lận thương mại của chủ hàng và chống thất thu thuế tối
đa ở khâu này.

-

Kiểm hóa chất lượng chủng loại hàng hoá cũng là khâu quan trọng để
áp giá tính thuế đúng đắn phù hợp với thực tế hàng hoá xuất-nhập khẩu
và chống thất thu thuế triệt để qua gian lận trong giá cả do khai sai chất
lượng, sai chủng loại hàng hoá.

-

Kiểm tra xuất xứ hàng hoá (C/O) : là kiểm tra nước sản xuất, chế tạo
hàng hoá, phù hợp với hợp đồng mua bán thương mại, bảo đảm quyền
lợi người tiêu dùng và áp dụng chế độ tối huệ quốc với các nước có chế
độ ưu đãi cho nhau.

-

Kết quả kiểm hoá đúng là tài liệu duy nhất phản ánh đúng đắn tên hàng,
ký mã hiệu hàng hoá, số lượng, chất lượng, chủng loại, xuất xứ hàng
hoá được quy định trong pháp lệnh Hải quan.

d. Phương pháp kiểm hoá :
Hải quan thành phố Hà Nội thực hiện kiểm tra hàng hoá xuất-nhập khẩu
theo qui chế kiểm hoá của tổng cục Hải quan ngày 7/10/1994 kèm theo quyết
định số 189/TCHQ_GSQL.Tuỳ theo đặc điểm tính chất lơ hàng và u cầu
kiểm tra, cán bộ kiểm hố thành phố Hà Nội đã lựa chọn phương pháp đúng
đắn thích hợp.
+ Kiểm tra tên hàng, ký mã hiệu hàng hố: có thể chọn phương pháp kiểm

tra đối chiếu giữa tờ khai và ký mã hiệu hàng hố : có ghi trong biểu thuế và
thực tế hàng hoá xuất-nhập khẩu để xác định tính xác thực của tờ khai chủ
hàng.
18


+ Kiểm tra số lượng, trọng lượng hàng hố: có thể lựa trọn kiểm tra theo tỉ
lệ, kiểm tra toàn bộ, kiểm tra theo phương pháp cân đong, đo đếm... Phương
pháp này tập chung chú trọng vào các chủ hàng hay vi phạm khai gian số
lượng, trọng lượng hàng hoá.
+ Kiểm tra chất luợng chủng loại : có thể lựa chọn phương pháp kiểm tra
đối chiếu hợp đồng mua bán với hàng hoá thực tế xuất-nhập khẩu, phương
pháp giám định của cơ quan hoặc chủ hàng thuê cơ quan giám định chuyên
môn của nhà nước để kiểm tra chất lượng chủng loại.
Dù chọn phương pháp nào thì kiểm hố viên cũng phải chịu trách nhiệm về
tính chính xác về số lượng, về trọng lượng hàng hoá trước lãnh đạo Hải quan.
e. Kiểm hoá Hải quan đối với một số mặt hàng cụ thể thuộc diện quản lý
của cục Hải quan Hà Nội.
* Đối với hàng hoá xuất-nhập khẩu.
Các hàng hoá sau khi xuất khẩu, nhập khẩu phải chịu sự kiểm tra giám sát
của Hải quan:
-

Hàng hoá của tổ chức kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu của các tổ chức
khác và cá nhân.

- Hàng hoá của tổ chức, cá nhân nước ngồi đầu tư và chuyển giao cơng
nghệ.
- Hàng hố mua bán hoặc trao đổi giữa các tổ chức kinh tế với chủ
phương tiện vận tải nước ngoài tại Việt Nam.

-

Hàng mẫu, quảng cáo triển lãm hoặc tham gia hội chợ.

- Hàng hoá mua bán, trao đổi phục vụ nhu cầu sinh hoạt giữa người cư
chú trong khu vực biên giới Việt Nam với người cư chú trong khu vực
nước láng giềng.
- Tài sản di chuyển, thừa kế.
- Tem bưu chính.
-

Các loại hàng hoá theo quy định của nhà nước về xuất khẩu,nhập khẩu
Hải quan Việt Nam kiểm tra hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu căn cứ vào
quy định của nhà nước về xuất khẩu, nhập khẩu, giấy phép xuất khẩu,
nhập khẩu; các giấy tờ khác cần thiết theo quy định của pháp luật và đối
chiếu với tờ khai Hải quan thực tế hàng hoá.
19


* Đối với hành lý, ngoại hối, tiền Việt Nam xuất khẩu, nhập khẩu.
Hành lý xuất khẩu, nhập khẩu chịu sự kiểm tra, giám sát Hải quan là vật
dụng cầc thiết cho hoạt động sinh hoạt cá nhân hoặc mục đích chuyến đi của
hành khách xuất cảnh, nhập cảnh của người làm việc trên phương tiện vân tải,
xuất cảnh, nhập cảnh bao gồm : hành lý xách tay và hành lý ký gửi cùng
chuyến theo hoặc không cùng chuyến Hải quan kiểm tra hành lý xuất khẩu,
nhập khẩu căn cứ và quy định của nhà nước về xuất khẩu, nhập khẩu, tiêu
chuẩn hành lý, giấy phép đối chiếu với đồ vật chịu sự quản lý của cơ quan
quản lý chuyên ngành theo quy định của pháp luật và đối chiếu với tờ khai
Hải quan thực tế hành lý.
Việc làm thủ tục và kiểm tra Hải quan đối với đồ vật vượt quá tiêu chuẩn

hành lý được áp dụng như đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
Hải quan Việt Nam kiểm tra ngoại hối tiền Việt Nam xuất khẩu, nhập khẩu
căn cứ vào qui định của nhà nước về quản lý ngoại hối và đối chiếu với tờ
khai Hải quan thực tế ngoại hối, tiền Việt Nam.
* Đối với phương tiện vận tải xuất khẩu, nhập khẩu.
Phương tiện vận tải chịu sự kiểm tra, giám sát Hải quan bao gồm: phương
tiện vận tải đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường sông, đường biển
và các loại phương tiện vận tải khác khi xuất cảnh nhập cảnh.
-

Hải quan Việt Nam kiểm tra phương tiện vận tải căn cứ vào giấy phép
xuất cảnh, nhập cảnh tờ khai lược hàng hoá, hành lý, tờ khai nhiên liệu,
vật liệụ, lương thực, thực phẩm, trang thiết bị sử dụng trên phương tiện
vận tải; bản danh sách hành khách, người làm việc trên phương tiện vận
tải; hồ sơ kỹ thuật, nhật ký hành trình, các giấy tờ cần thiết khác của
phương tiện vận tải và đối chiếu với thực tế đối chiếu đó.

-

Nhiên liệu, vật liệu sử dụng cho phương tiện vận tải, lương thực thực
phẩm dùng cho nhân viên và hành khách trên phương tiện vận tải xuất
nhập cảnh phải chịu sự giám sát Hải quan.

-

Việc xếp dỡ, chuyển tải, sang mạn, sang toa, cắt hàng hố, hành lý xuất
khẩu, nhập khẩu chưa hồn thành thủ tục Hải quan hoặc chưa thực xuất
phải chịu sự đồng ý và giám sát của Hải quan.

* Bưu kiện, bưu phẩm xuất-nhập khẩu.


20


Bưu kiện bưu phẩm chịu sự kiểm tra, giám sát bao gồm : bưu kiện xuất
khẩu, nhập khẩu; bưu phẩm đựng đồ vật, hàng hoá xuất-nhập khẩu.
-

Hải quan Việt Nam kiểm tra bưu kiện, bưu phẩm xuất khẩu, nhập khẩu
căn cứ vào qui định của nhà nước về xuất khẩu, nhập khẩu, giấy phép
đối chiếu với đồ vật chịu sự quản lý của cơ quan quản lý chuyên ngành
theo quy định của pháp luật và đối chiếu với tờ khai Hải quan thực tế
bưu kiện, bưu phẩm,

-

Bưu điện chỉ được phát và chuyển bưu kiện, bưu phẩm đã hoàn thành
thủ tục Hải quan.

* Đối với các trường hợp khác quản lý theo chế độ riêng.
Ngồi các đối tượng nói trên phải chịu sự kiểm tra giám sát Hải quan, một
số đối tượng được hưởng ưu đãi miễn trừ kiểm tra Hải quan như hành lý của
đối tượng ngoại giao, phương tiện vận tải quân sự... Nhưng vẫn phải chịu sự
giám sát Hải quan theo quy định của pháp luật.
4.4. Giám sát Hải quan.
a. khái niệm :
-

Giám sát Hải quan là việc Hải quan kiểm soát hàng hoá, hành lý,
phương tiện đang trong thời gian, địa điểm thuộc phạm vi kiểm soát của

Hải quan.

b. đối tượng :
Giám sát Hải quan được áp dụng với các đối tượng sau:
-

Hàng hoá đã làm thủ tục Hải quan nhưng chưa được xuất hoặc đã nhập
nhưng chưa hồn thành thủ tục Hải quan, hàng hố đang trong qúa trình
vận chuyển quá cảnh Việt Nam.

-

Phương tiện vận tải khi xuất cảnh, nhập cảnh, dừng neo đậu tại vùng
nước cảng, tại sân đỗ máy bay, ga liên vận đường sắt quốc tế, khu vực
cửa khẩu đường bộ, khu vực cửa khẩu đường sôngvà các địa điểm làm
thủ tục Hải quan khác.

- Kho bãi lưu giữ hàng hoá xuất- nhập khẩu đang trong thời gian kiểm
soát của Hải quan.
c. Nguyên tắc giám sát Hải quan :

21


-

Trong thời gian đối tượng kiểm tra Hải quan chịu sự giám sát Hải quan,
Hải quan cửa khẩu tiến hành giám sát việc xếp dỡ, vận chuyển, bảo
quản tại kho hoặc trên phương tiện vận tải chuyên dụng.


- Hàng hoá xuất-nhập khẩu chưa hoàn thành thủ tục Hải quan phải được
bảo quản theo qui chế kho với hàng xuất-nhập khẩu.
- Nhiệm vụ của nhân viên Hải quan :
+ Giám sát việc di chuyển hàng hoá trong kho, lấy mẫu hàng thay đổi hoặc
gia cố bao bì các kiện hàng hóa.
+ Giám sát khi có hàng hố xuất nhập kho; mở niêm phong kẹp chì Hải
quan với sự chứng kiến của thủ kho.
d. Thời gian giám sát với từng đối tượng như sau:
- Đối với hàng xuất khẩu : từ thời điểm bắt đầu kiểm tra hàng hoá đến khi
thực xuất.
- Đối với hàng nhập khẩu : từ khi hàng đến cửa khẩu đầu tiên cho đến khi
hoàn thành thủ tục Hải quan.
-

Đối với hàng hoá quá cảnh : Từ thời điểm hàng đến cửa khẩu nhập khẩu
đầu tiên cho đến khi hàng ra khỏi cửa khẩu cuối cùng.

- Đối với hàng lưu kho lưu bãi : Từ khi bắt đầu thủ tục nhập kho cho đến
khi làm xong thủ tục xuất kho
- Đối với phương tiện vận tải là thời gian di chuyển trong vùng nước
cảng, từ biên giới vào vùng cảng sông; thời gian phương tiện dừng, neo
đậu tại vùng nước cảng, tại sân đỗ máy bay, ga liên vận đường sắt quốc
tế, khu vực cửa khẩu đường bộ, khu vực cửa khẩu đường sông.
- Đối với phương tiện quá cảnh : Từ thời điểm đến cửa khẩu nhập đầu
tiên cho đến khi ra khỏi cửa khẩu xuất cuối cùng.
e. Hình thức giám sát :
Có hai hình thức giám sát.
- Giám sát trực tiếp là việc giám sát thực hiện bởi nhân viên Hải quan.
- Giám sát gián tiếp là việc giám sát được thực hiện thông qua niêm
phong, kẹp chì và thực hiện các biện pháp kỹ thuật khác.


22


Niêm phong kẹp chì Hải quan đối với các đối tượng quản lý Hải quan là
hình thức giám sát Hải quan thay thế cho người cán bộ chiến sĩ thi hành công
vụ giám sát đối tượng quản lý Hải quan khi các đối tượng này chưa hoàn
thành thủ tục Hải quan; hoặc vi phạm pháp luật Hải quan mà còn đang chịu
sự quản lý giám sát, bảo quản theo chế độ quy định của pháp luật Hải quan.
Tùy theo từng loại hình quản lý đối tượng Hải quan khác nhau mà niêm
phong Hải quan được sử dụng dưới dạng khác nhau như dán niêm phong đối
tượng quản lý Hải quan bằng một loại mẫu đại diện sự hiện hữu của viên
chức Hải quan thi hành công vụ hoặc được kẹp chì Hải quan.
Một số loại hình quản lý nhà nước về Hải quan như hàng hóa quá cảnh,
chuyển khẩu; hàng hoá của hàng miễn thuế hàng hoá được phép kiểm tra hoặc
làm thủ tục Hải quan ngoài cửa khẩu đều phải thực hiện chế độ niêm phong
Hải quan.
Việc tháo giỡ niêm phong, kẹp chì Hải quan phải do tổ chức cá nhân thẩm
quyền tiến hành với mục đích kiểm tra hàng hoá được quy định rõ. Mọi hành
vi tháo dỡ khi khơng đựơc phép hoặc khơng có lệnh của cấp trên có thẩm
quyền đều là vi phạm pháp lệnh Hải quan và bị xử lý hành chính hoặc truy
cứu trách nhiệm hình sự.
Hiện nay các hoạt động trao đổi lưu thơng hàng hóa giữa các quốc gia các
khu vực trên toàn thế giới phát triển mạnh mẽ sự giảm bớt các hành vi quản lý
trực tiếp của cán bộ Hải quan đối với hàng hoá, vật phẩm xuất-nhập khẩu nhất
là giám sát hàng hóa trong vận chuyển hàng quá cảnh, chuyển khẩu... Thì việc
giám sát bằng niêm phong Hải quan là một biện pháp có hiệu quả cao, tiết
kiệm nhân lực và thời gian.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ, KIỂM TRA, GIÁM SÁT HOẠT
ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU Ở CỤC HẢI QUAN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

23


1.VÀI NÉT VỀ CỤC HẢI QUAN THÀNH PHỐ HÀ NÔI

1.1.Quá trình hình thành và phát triển
Ngày
10/09/1945, trong khi tồn Đảng, tồn dân đang đối phó với thù
trong giặc ngồi để bảo vệ nền độc lập non trẻ đang “ ngàn cân treo sợi tóc “
Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho Chính phủ lâm thời ra sắc lệnh số 27/SL ngày
10/09/1945 thành lập tổ chức hải quan đầu tiên với tên gọi Sở thuế quan và sở
gián thu đặt trực thuộc Bộ tài chính. Sự kiện này cho thấy hải quan là công cụ
không thể thiếu được của một quốc gia có chủ quyền. Trong những năm cịn
chiến tranh ngành hải quan đã góp cơng sức đấu tranh kinh tế với địch, bảo vệ
thúc đẩy nền sản xuất ở vùng tự do, chống buôn lậu, tận thu ngân sách, đảm
bảo những nhu cầu thiết yếu của kháng chiến và dân sinh, góp phần đưa cuộc
kháng chiến chống Pháp đến tồn thắng và góp phần giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước.
Đất nước bước vào thời kì thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ III (19811985) trong thời kì này bên cạnh những thuận lợi cơ bản có khơng ít những
khó khăn, kẻ địch và bọn phản động tiến hành kiểu chiến tranh nhiều mặt đối
với nước ta tập trung phá ta về kinh tế. Ngày 25/04/1984, HĐBT ra quyết
định số 68/HĐBT - QĐ về “ đẩy mạnh cuộc chiến tranh chống bn lậu, vận
chuyển hàng hố trái phép qua biên giới” Nghị quyết chỉ rõ “ trong mấy năm
qua, tình hình vận chuyển trái phép qua biên giới rất phức tạp ngày càng phổ
biến và nghiêm trọng”. Tính chất của các loại hoạt động buôn lậu không chỉ
lại những hoạt động thông thường của bọn gian thương mà ngày càng lộ rõ
âm mưu nguy hiểm của kẻ địch phá hoại ta về kinh tế. Cuộc chiến tranh của

ta chống địch phá hoại rất phức tạp gay go và quyết liệt, địi hỏi phải có thái
độ rất cương quyết, biện pháp đồng bộ và có hiệu lực nhằm tạo ra sự chuyển
biến mạnh mẽ trên lĩnh vực kinh tế. Ngày 30/08/1984, HĐBT ra quyết định
số 547/HĐBT với nội dung qui định thành lập Tổng cục hải quan, trực thuộc
HĐBT để giúp Chính phủ quản lý cơng tác hải quan. Nghị định số 139/HĐBT
ngày 20/10/1984 quy định nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức bộ máy Hải quan
Việt Nam. Hải quan Việt Nam được tổ chức thành hê thống ngành dọc gồm
ba cấp:
- Tổng cục Hải quan
-

Cục hải quan tỉnh, thành phố và liên tỉnh

- Hải quan cửa khẩu, đội kiểm sốt chống bn lậu
24


Đứng trước tình hình đó, Hải quan thành phố Hà Nội được thành lập
ngày 03/08/1985. Khẳng định vị chí then chốt của Hải quan thủ đô trước
nhiệm vụ nặng nề mà Đảng và nhà nước giao cho ngành Hải quan nói chung
và hải quan Hà Nội nói riêng.
1.2. Cơ cấu bộ máy tổ chức của Cục Hải quan Hà Nội
Bộ máy tổ chức của Cục Hải quan thành phố Hà Nội được thể hiện qua sơ
đồ sau:
Sơ đồ bộ máy tổ chức của cục Hải quan TP. Hà Nội
LÃNH ĐẠO CỤC

Giám
sát
quản



Kiểm
tra
thu
thuế
XNK

Hải
quan
cửa
khẩu
sân
bay
Nội
Bài

Hải
quan
cửa
khẩu
sân
bay
Gia
Lâm

Than
h
tra


Kế
Tổ
hoạch chức
tài vụ cán bộ
và đào
tạo

Hải
Hải
quan quan
bưu Giảng
điện Võ

Nội

Văn
phòng

Hải
Hải
Hải
quan quan quan
Đầu tư Đường Gia
gia
Sắt
Thụy
công liên
vận
quốc
tế


Xử lý Thống Điều
kê tin tra
học
chống
buôn
lậu

Hải
Hải
Hải
Hải
quan quan quan quan
Thị xã Việt Bắc Vĩnh

Trì
Ninh Phúc
Đơng

Phân cấp cụ thể phạm vi địa bàn và thủ tục Hải quan đối với hàng hóa
xuất nhập khẩu:
Hải quan cửa khẩu sân bay Nội Bài: Làm thủ tục Hải quan đối với hàng
hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường hàng khơng qua sân bay Nội Bài
và hàng hóa nhập khẩu tại cửa hàng miễn thuế tại Nội Bài.
25


×