Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

1 số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý nguồn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.74 KB, 36 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, vốn đầu tư cho phát triển
là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của mỗi
quốc gia. Đối với Việt Nam, mục tiêu đặt ra là thực hiện thành công quá trình
CNH-HĐH đất nước, phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành
một nước công nghiệp. Do đó việc thu hút vốn đầu tư trở thành chiến lược
quan trọng của đất nước.
Nguồn vốn ODA được chính phủ Việt Nam đánh giá là một trong
những nguồn vốn quan trọng của Ngân sách Nhà nước được sử dụng cho các
mục đích phát triển kinh tế xã hội. Nguồn vốn này đã phần nào đáp ứng nhu
cầu bức thiết về vốn trong công cuộc CNH-HĐH đất nước, góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên ODA không chỉ là một
khoản cho vay, mà đi kèm với nó là các điều kiện ràng buộc về chính trị, kinh
tế. Sẽ là gánh nặng nợ nần cho các thế hệ sau hoặc phải chịu sự chi phối của
nước ngoài nếu chúng ta không biết cách quản lý và sử dụng ODA. Bởi vậy
quản lý và sử dụng ODA sao cho có hiệu quả, phù hợp với mục tiêu và định
hướng phát triển đất nước là một yêu cầu tất yếu.
Là một sinh viên chuyên nghành Kinh tế đầu tư – Đại học kinh tế quốc
dân Hà Nội, em thấy việc nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp nhằm tăng
cường công tác quản lý nguồn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) ở Việt
Nam” là rất thiết thực và bổ ích vì nó có thể giúp em có cái nhìn sâu hơn, toàn
diện hơn về ODA. Thông qua kiến thức đã tiếp thu trên lớp cùng với sự giúp
đỡ của thầy giáo, cô giáo bộ môn và việc tham khảo một số tài liệu, em xin
được trình bày nội dung đề tài này.
1
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ODA
1.1. NGUỒN VỐN ODA
1.1.1. Khái niệm ODA
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quan điểm khác nhau về ODA
nhưng nói chung những quan điểm ấy đều dẫn đến một bản chất . Theo cách


hiêu chung nhất thì ODA là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay
với những điều kiện ưu đãi của các cơ quan tài chính thuộc các tổ chức Quốc
tế các nước, các tổ chức Phi chính phủ nhằm hỗ trợ cho sự phát triển và thịnh
vượng của các nước khác (không tính đến các khoản viện trợ cho mục đích
thuần túy quân sự).
Các điều kiện ưu đãi có thể là: lãi suất thấp (dưới 3%/1 năm), thời gian
ân hạn dài hoặc thời gian trả nợ dài (30-40 năm). Nghị định 87-CP của chính
phủ Việt Nam quy định về nguồn vốn ODA là sự hợp tác phát triển giữa nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với một hay nhiều Quốc gia, tổ chức
Quốc tế. Hình thức của sự hợp tác có thể là hỗ trợ cán cân thanh toán, hỗ trợ
theo chương trình, hỗ trợ theo kỹ thuật hoặc theo dự án.
1.1.2. Đặc điểm của ODA
Thứ nhất, vốn ODA mang tính ưu đãi.
Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn) dài, có thời gian ân hạn
dài. Chẳng hạn vốn ODA của WB, ADB, JBIC có thời gian hoàn trả lsf 40
năm và thời gian ân hạn là 10 năm.
2
Thông thường, trong ODA có thành tố viện trợ không hoàn lại ít (cho
không), đây cũng chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương
mại. Thành tố cho không được xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian
ân hạn và so sánh lãi suất viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại. Sự
ưu đãi ở đấy là so sánh với tập quán thương mại quốc tế.
Thứ hai, vốn ODA mang tính ràng buộc.
ODA có thể ràng buộc (hoặc ràng buộc một phần hoặc không ràng
buộc) nước nhận về địa điểm chi tiêu. Ngoài ra mỗi nước cung cấp viên trợ
cũng đều có những ràng buộc khác và nhiều khi các ràng buộc này rất chặt
chẽ đối với nước nhận. Ví dụ, Nhật Bản quy định vốn ODA của Nhật đều
được thực hiền bằng đồng yên Nhật.
Vốn ODA mang yếu tố chính trị: các nước viện trợ nói chung đều
không quên dành được lợi ích cho mình vừa gây ảnh hưởng chính trị vừa thực

hiện xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. Chẳng
hạn, Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hóa
dịch vụ của nước mình. Canada yêu cầu 65%.
Kể từ khi ra đời cho đến nay, viện trợ luôn chứa đựng hai mục tiêu
cùng tồn tại song song. Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và
giảm nghèo ở các nước đang phát triển. Mục tiêu thứ hai là tăng cường vị thế
chính trị của các nước tài trợ. Các nước phát triển sử dụng ODA như một
công cujchinhs trị, xác định vị thế và ảnh hưởng của mình tại các nước và khu
vực tiếp nhận ODA.Ví dụ, Nhật Bản hiện là nhà tài trợ hàng đầu thế giới và
cũng là nhà tài trợ đã sử dụng ODA như một công cụ đa năng về chính trị và
kinh tế. ODA của Nhật không chỉ mang lại lợi ích cho nước nhận mà còn
mang lại lợi ích cho chính họ. Trong những năm cuối thập kỷ 90, khi phải đối
phó với những suy thoái nặng nề trong khu vực, Nhật Bản đã quyết định trợ
giúp tài chính rất lớn cho các nước Đông Nam Á là nơi chiếm tỷ trọng tương
3
đối lớn về mậu dịch và đầu tư của Nhạt Bản. Nhật đã giành 15 tỷ USD tiền
mặt cho các nhu cầu vốn ngắn hạn chủ yếu là lãi suất thấp và tính bằng đồng
yên, và giành 15 tỷ cho mậu dịch và đẩu tư có nhân nhượng trong vòng 3
năm. Các khoản cho vay tính bằng đồng yên và gắn với những dự án có các
công ty Nhật tham gia.
Thứ ba, ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ
Khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh
nặng nợ thường chưa xuất hiện. Một số nước do không sử dụng hiệu quả
ODA có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian lại lâm
vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ.Vấn đề ở chỗ là vốn ODA
không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong
khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, trong khi hoạch định
chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với các nguồn vốn để tăng cường sức
mạn kinh tế và khả năng xuất khẩu.
1.1.3. Điều kiện để nhận được ODA

Vốn ODA chỉ giành riêng cho các nước đang và chậm phát triển, vì
mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và chậm
phát triển có thể nhận được ODA là:
Điều kiện thứ nhất, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu
người thấp. Nước có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ
lệ viện trợ không hoàn lại của ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất
thấp và thời gian ưu đãi càng lớn.
Điều kiện thứ hai, mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải
phù hợp với chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ
giữa bên cấp và bên nhận ODA. Thông thường các nước cung cấp ODA đều
có những chính sách và ưu tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực
mà họ quan taamhay có khả năng kỹ thuật và tư vấn. Đồng thời, đối tượng ưu
4
tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ
thể. Vì vậy, nắm bắt được xu hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ
chức cung cấp ODA là rất cần thiết.
1.2. VAI TRÒ CỦA ODA ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
1.2.1. Viện trợ tài chính ở các nước đang phát triển có cơ chế quản lý tốt
sẽ giúp tăng trưởng nhanh hơn, giảm tình trạng nghèo đói và đạt được
các chỉ tiêu xã hội.
Trên thực tế, một số nước nhận nhiều viện trợ mà thu nhập giảm trong
khi một số nước nhận ít viện trợ mà thu nhập lại tăng. Nhưng nếu chỉ xét đến
sự phân biệt giữa các nước có cơ chế quản lý tốt và cơ chế quản lý tồi thì đối
với các nước có cơ chế quản lý tồi, dù số tiền viện trợ là bao nhiêu thì tăng
trưởng vẫn thấp, thậm chí còn âm. Đối với các nước có cơ chế quản lý tốt, khi
viện trợ tăng lên 1% GDP thì tốc độ tăng trưởng tăng lên 0,5%. Ngoài ra, viện
trợ còn góp phần làm giảm đói nghèo. Theo các chuyên gia về ODA, bình
quân ở các nước đang phát triển, thu nhập đầu người tăng 1% đã dẫn đến tỷ lệ
đói nghèo giảm xuống 2%. Nói cách khác, ở các nước có cơ chế quản lý tốt,
khi viện trợ tăng lên 1% GDP thực tế thì sẽ giảm 1% tỷ lệ đói nghèo. Và ở các

nước có cơ chế quản lý tốt, tăng 10 tỷ USD viện trợ mỗi năm sẽ cứu được 25
triệu người thoát khỏi cảnh nghèo đói.
Viện trợ tác động đến tăng trưởng, từ đó tác động đến mục đích nâng
cao mức sống. Tăng trưởng không loại bỏ đói nghèo nhưng rõ ràng tăng
trưởng có tác động lớn đến cải thiện các chỉ tiêu xã hội. Nếu một nước có cơ
chế quản lý tốt thì khi viện trợ tăng lên 1% GDP sẽ làm giảm tỷ lệ tử vong ở
trẻ em xuống 0,9%. Điều đó có nghĩa là các chỉ tiêu xã hội có quan hệ chặt
chẽ với thu nhập bình quân đầu người, hay nói cách khác nó có quan hệ chặt
chẽ với viện trợ.
5
1.2.2. Viện trợ thúc đẩy đầu tư
Các nước đang phát triển là những nước rất cần vốn cho đầu tư phát
triển, và viện trợ ODA chính là một hình thức bổ sung cho nguồn vốn trong
nước. Trong điều kiện nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp thì nguồn vốn nước
ngoài có tầm quan trọng đặc biệt. Nguồn vốn ODA thường được các nước
đang phát triển đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, xây dựng đường
giao thong, phát triển ngành năng lượng,… Vì đây là những ngành cần phải
đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm nên tư nhân không có khả năng đầu tư.
Viện trợ còn thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và phát
triển nguồn nhân lực. Nhờ có viện trợ mà nước nhận tài trợ với cơ chế quản lý
tốt sẽ tạo ra được cơ sở kinh tế hạ tầng vững chắc, giao thong thuận tiện, hệ
thống pháp luật ổn định. Viện trợ là sự chuẩn bị cho vốn đầu tư trực tiếp được
thu hút vào, là điều kiện cho FDI được sử dụng một cách hiệu quả. Mặt khác
viện trợ còn giúp những nước đang phát triển tiếp thu nhưng thành tựu khoa
học kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến, kỹ năng chuyên môn cao.
Đây chính là lợi ích căn bản, lâu dài của các quốc gia nhận tài trợ.
Viện trợ thúc đẩy đầu tư tư nhân. Ở những nước có cơ chế quản lý tốt
thì viện trợ nước ngoài khkoong thay thế cho đầu tư tư nhân mà đóng vai trò
như là nam châm hút đầu tư tư nhân theo tỷ lệ xấp xỉ 2 USD trên 1 USD viện
trợ.Đối với các nước quản lý tốt thì viện trợ góp phần củng cố niềm tin cho

khu vực tư nhân và hỗ trợ các dịch vụ công cộng. Viện trợ tăng với quy mô
1% GDP sẽ lam tăng đầu tư tư nhân lên 1,9% GDP.
1.2.3. Viện trợ giúp các nước đang phát triển cải thiện thể chế và chính
sách kinh tế.
Cải thiện thể chế và chính sách kinh tế ở các nước đang phát triển là chìa
khóa để tạo bước nhảy vọt về lượn trong thúc đẩy tăng trưởng, tức là góp phần
làm giảm đói nghèo. Mặt khác, viện trợ có thể nuôi dưỡng cải cách. Khi các
nước mong muốn cải cách thì viện trợ nước ngoài có thể đóng góp những nỗ lực
cần thiết như hỗ trợ thử nghiệm cải cách, trình diễn thí điểm, tạo đà và phổ biến
6
các bài học kinh nghiệm. Những nước mà ở đó chính phủ thực hiện những chính
sách vững chắc phân bổ hợp lý các khoản chi tiêu và cung cấp dịch vụ có hiệu
quả cao thì hiệu quả chung của viện trợ là lớn. Ngược lại, ở những nước mà
chính phủ và nhà tài trợ không đòng nhất quan điểm trong việc chi tiêu, hiệu quả
lại thấp thì các nhà tài trợ cho rằng cách tốt nhất là giảm viện trợ và tăng cường
hỗ trợ cho việc hoạch định chính sách và xây dựng thể chế cho đến khi các nhà
tài trợ thấy rằng giá trị thực của các dự án la ở chỗ thể chế và chính sách được
củng cố, cải thiện việc cung cấp dịch vụ xã hội. Việc tạo ra được kiến thức với
sự trợ giúp của viện trợ sẽ dẫn tới sự cải thiện trong một số ngành cụ thể trong
khi một phần tài chính của viện trợ sẽ mở rộng các dịch vụ công cộng nói chung.
Cơ chế quản lý tốt, ổn định kinh tế vĩ mô, Nhà nước pháp quyền và hạn
chế tham nhũng sẽ dẫn đến tăng trưởng và giảm đói nghèo. Qua các nghiên
cứu của các chuyên gia có thể thấy khó có thể nhận ra mối quan hệ giữa viện
trợ mà các nước nhận được với trình độ chính sách của họ. Tuy không có mối
quan hệ về lượng giữa viện trợ và chất lượng chính sách của nước nhận viện
trợ nhưng trong một số trường hợp viện trợ vẫn có thể góp phần cải cách,
thông qua các điều kiện đặt ra hoặc thông qua việc phổ biến ý tưởng mới.
Tóm lai, viện trợ đã và đang có hiệu quả. Tuy nhiên, nguồn vốn ODA
chỉ phát huy hết vai trò của nó khi có một cơ chế quản lý tốt, một thể chế lành
mạnh và một môi trường chính trị hoàn thiện. Nếu không chẳng những ODA

phông phát huy vai trò của nó mà còn đem lại gánh nặng nợ nần cho đất nước.
Việt Nam là một nước đang phát triển, hiện đang mong muốn nhận được
nhiều nguồn ODA và quản lý sử dụng ODA thật hiệu quả phục vụ cho phát triển
đất nước. Việt Nam cần nhận thức rõ được vai trò của ODA, các điều kiện để
ODA phát huy vai trò của nó để từng bước hoàn thiện công tác thu hút, quản lý và
sử dụng ODA.
7
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGUỒN VỐN ODA
TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG NGUỒN
VỐN ODA
2.1.1. Cơ chế chính sách và khuôn khổ thể chế
2.1.1.1. Cơ chế chính sách.
Từ sau năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện việc chuyển đổi cơ chế
quản lý kinh tế từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường. Là một nước nông
nghiệp lạc hậu với thu nhập đầu người thấp, tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn hạn
chế, để đạt được mục tiêu đề ra về phát triển kinh tế xã hội, nhu cầu vốn của
nước ta rất lớn, đặc biệt là các nguồn vốn từ nước ngoài trong đó có nguồn vốn
ODA.Văn kiện đại hội Đảng 8 đã chỉ rõ: “ Tranh thủ thu hút nguồn tài trợ phát
triển chính thức đa phương và song phương, tập trung chủ yếu cho việc xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nâng cao trình độ khoa học công nghệ và quản lý,
đồng thời dành một phần vốn tín dụng đầu tư cho các ngành nông- lâm ngư
nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng, ưu tiên dành viện trợ không hoàn lại cho những
vùng chậm phát triển, các dự án sử dụng vốn vay phải có phương án trả nợ vững
chắc, xác định rõ trách nhiệm trả nợ, không được gây thêm gánh nặng nợ nần
không trả được. Phải sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả và có kiểm tra, quản
lý chặt chẽ chống lãng phí tiêu cực".
Nhờ thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hóa các quan hệ đối
ngoại, kể từ năm 1993 Việt Nam đã chính thức lập quan hệ ngoại giao và tiếp

nhận được nhiều nguồn ODA từ các quốc gia, các tổ chức Quốc tế trên thế
giới. Khối lượng ODA vào Việt Nam không ngừng tăng lên qua các năm.
8
Trong giai đoạn 1996-2000 mục tiêu đặt ra về vận động nguồn vốn ODA
cam kết là trên 10 tỷ USD
Trong quá trình tiếp nhận và sử dụng ODA, để có thể khai thác triệt để
thế mạnh của ODA cũng như hạn chế những tác động xấu do ODA mang laị,
Đảng và nhà nước ta đã đưa ra hệ thống các quan điểm về quản lý và sử dụng
ODA.
Hệ thống các quan điểm của Đảng và nhà nước về quản lý và sử
dụng ODA.
Quan điểm 1: ODA là một nguồn ngân sách. Việc điều phối quản lý và
sử dụng ODA cho có hiệu quả thuộc quyền hạn của Chính phủ và phải phù
hợp với các thủ tục quản lý ngân sách hiện hành.
Quan điểm 2: Tranh thủ các nguồn vốn ODA không gắn với các ràng
buộc về chính trị, phù hợp với chủ trương đa phương hoá đa dạng hoá, quan
hệ kinh tế đối ngoại ở Việt Nam.
Quan điểm 3: Phối hợp sử dụng ODA cùng với nguồn vốn FDI và các
nguồn vốn trong nước khác.
Quan điểm 4: Ưu tiên sử dụng ODA để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
kinh tế xã hội, phát triển nguồn nhân lực và tăng cường thể chế.
Quan điểm 5: Đầu tư vốn ODA để phát triển hạ tầng kinh tế có trọng
tâm trọng điểm.
Quan điểm 6: Ưu tiên bố trí viện trợ không hoàn lại cho các dự án văn
hóa xã hội ở miền núi, vùng sâu vùng xa trên cơ sở định hướng chung và các
quan điểm, mục tiêu của việc thu hút và quản lý sử dụng ODA.
Tại hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ năm 1996, Chính phủ Việt
Nam đã đưa ra ba định hướng ưu tiên trong giai đoạn 1996-2000 nhằm kêu
gọi sự chú ý của các nhà tài trợ như sau:
9

- Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội.
- Đào tạo nguồn nhân lực, phát triển thể chế
- Chuyển giao công nghệ.
Với ba hướng ưu tiên nói trên, nguồn ODA đã và sẽ sử dụng để trợ giúp
thực hiện 11 chương trình phát triển kinh tế xã hội đề ra trong kế hoạch 5 năm
1996-2000, tập trung vào một số lĩnh vực như sau:
Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn: Đây là một lĩnh vực ưu
tiên đầu tư chính của Việt Nam. Các lĩnh vực ưu tiên để phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn là chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn theo hướng công nghiệp hoá, giải quyết các vấn đề đời sống xã hội, việc
làm, xoá đói giảm nghèo... và xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn.
• Trong lĩnh vực công nghiệp: Việt Nam là một nước kém phát triển,
đặc biệt là về công nghiệp. Việt Nam dự kiến dành một phần ODA để xây
dựng các nguồn điện lớn, khôi phục và phát triển các trạm và hệ thống đường
dây phân phối, nhất là ở các thành phố, thị xã, thị trấn.
• Trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở: ODA đặc biệt được ưu tiên cho phát
triển hạ tầng cơ sở, trước hết cho khôi phục và nâng cấp các tuyến trục đường
quốc gia như quốc lộ 1, quốc lộ 5, quốc lộ 10... Phát triển giao thông nông
thôn cũng được ưu tiên nhất là cho các tỉnh biên giới, miền núi, các tuyến
đường đến các huyện xa xôi hẻo lánh.
• Ưu tiên phát triển nhân lực và thể chế sẽ được thể hiện ở việc ưu tiên
sử dụng nguồn vốn ODA cho giáo dục và đào tạo, bao gồm cả giáo dục phổ
thông, dạy nghề và đại học, đặc biệt chú trọng nâng cao trình độ giáo viên và
cải cách chương trình đại học, tăng cường trang thiết bị, đồ dùng dạy học.
• Trong lĩnh vực văn hoá xã hội: Sẽ sử dụng ODA từ nhiều nguồn để trợ
giúp thực hiện các chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu, chương trình dân
số và kế hoạch hoá gia đình, chương trình tiêm chủng mở rộng...
10
2.1.1.2. Khuôn khổ thể chế.
2.1.1.2.1. Giai đoạn trước năm 1993

Trước 1993 Việt Nam chưa nối lại quan hệ với các tổ chức Quốc tế do
Mỹ cấm vận và do quan niệm sai lầm cho rằng ODA là khoản cho không nên
khối lượng ODA đến Việt Nam không lớn, hệ thống quản lý ODA chủ yếu là
không có hiệu quả.
Trong thời kỳ này, Văn phòng Chính phủ là cơ quan đầu mối quản lý
ODA phối hợp với một số cơ quan khác như Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ
Tài chính Bộ Ngoại giao và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhưng chức năng
và nhiệm vụ của các cơ quan liên quan này chưa được xác định rõ ràng.
Trong suốt thời gian này không có quy chế rõ ràng về đấu thầu, mua sắm và
giải ngân. Các dự án ODA chủ yếu được thực hiện theo quy chế của từng nhà
tài trợ cụ thể.
2.1.1.2.2. Giai đoạn sau năm 1993
Nếu như trước đây, mọi công việc trong lĩnh vực này áp dụng theo
NĐ20/CP (Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng từ nguồn vốn ODA) và NĐ58/
CP ban hành quy chế vay và trả nợ nước ngoài thì hiện nay chủ yếu áp dụng
NĐ52/ CP và NĐ12/ CP(Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng) và nghịđịnh
17/2001/NĐ-CP(Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính
thức).
Về phía quốc tế, Liên hiệp quốc đã đặt vấn đề dành 0,7% GDP cho
ODA đối với các nước phát triển. Như vậy nguồn ODA sẽ trở thành một số
vốn khá lớn phải huy động và mục tiêu này rất khó đạt.Với Việt Nam càng
khó khăn hơn vì hàng năm, chúng ta còn phải cân đối trong tổng số chi từ
3%-5% từ GDP để trả nợ nước ngoài.
Sau 1993, Việt Nam đã chính thức nối lại quan hệ với nhiều tổ chức và
Quốc gia trên thế giới đánh dấu một giai đoạn mới trong tài trợ phát triển
11
chính thức đối với Việt Nam. Khối lượng ODA đến Việt Nam đã tăng nhanh
lên nhanh chóng. Nhận thức đúng đắn về vai trò của ODA trong phát triển
kinh tế xã hội, Chính phủ đã quan tâm nhiều hơn đến việc xây dựng và hoàn
thiện các chính sách để quản lý và sử dụng ODA có hiệu quả. Nhiều văn bản

pháp quy đã ra đời nhằm đưa ra những hướng dẫn về quy trình, thủ tục thực
hiện và quản lý ODA làm rõ trách nhiệm của từng cơ quan trong việc quản lý
và sử dụng ODA.
Nghị định 20/ CP tháng 3/1994 là lần đầu tiên Chính phủ Việt Nam đã
thể chế hóa việc vận động thu hút và sử dụng ODA. Trong quá trình thực hiện
Nghị định 20/CP đã tỏ ra còn nhiều mặt phải hoàn thiện như nâng cao trách
nhiệm của từng bộ, tỉnh, thành phố, xác định rõ hơn nhiệm vụ của từng cơ
quan quản lý nhà nước, tạo điều kiện pháp lý thuận lợi hơn để lập quan hệ
hợp tác lâu dài với các nhà tài trợ. Phù hợp với phương hướng trên, ngày
5/8/1997 Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định 87/CP thay thế Nghị định
20/CP về quy chế quản lý và sử dụng ODA. Trong nghị định 87/CP có ba nội
dung cốt lõi được xác định rõ ràng đó là:
• Chính phủ thống nhất quản lý ODA trên cơ sở chủ trương chính sách
đối với nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thông qua quy hoạch về thu hút và
sử dụng ODA, danh mục các chương trình và dự án ưu tiên sử dụng ODA.
• Phân cấp cho các bộ, các tỉnh, thành phố phê duyệt một số loại dự án
ODA tuỳ thuộc vào nội dung và quy mô của dự án.
• Phân định rõ ràng nhiệm vụ của các cơ quan tổng hợp của Chính phủ,
các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các Tỉnh, Thành
phố trực thuộc TW cũng như của các đơn vị thụ hưởng ODA trong quá trình
thu hút và sử dụng nguồn lực này.
Để phối hợp có hiệu quả và xử lý nhanh những vướng mắc của dự án
ODA, tại điều 27 Nghị định 87/CP, chính phủ đã quyết định thành lập “ Ban
12
công tác ODA” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư là trưởng ban. Đồng thời với việc
ban hành các Nghị định nói trên, Chính phủ cũng đã ban hành các nghị định
92/CP và 93/CP nhằm bổ sung và hoàn chỉnh Nghị định 42/CP về quản lý đầu
tư xây dựng và Nghị định 43/CP về công tác đấu thầu và xét thầu đã ban hành
trước đây theo hướng phân cấp và đơn giản hoá thủ tục.
2.1.2. Tiếp nhận và sử dụng ODA tại Việt Nam

2.1.2.1. Thời kỳ trước năm 1993.
Từ năm 1950, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước
xã hội chủ nghĩa và đã nhận được nhiều khoản viện trợ, trong đó có nguồn
vốn ODA. Trong những năm chiến tranh, nhân dân Việt Nam đã vượt qua
những khó khăn, thiếu thốn và có đủ sức mạnh chiến thắng đế quốc Mỹ một
phần cũng là nhờ vào những khoản viện trợ này.
ODA vào Việt Nam từ 1976- 1990 là:
- Các tổ chức thuộc hệ thống liên hiệp quốc 1,6 tỷ USD.
- Liên Xô cũ và các nước Pháp,Úc, Đan Mạch , CHLB Đức, Hà Lan:
12,6tỷ RCN.
Trong các nguồn viện trợ trên, nguồn viện trợ của Liên Xô đã giúp
Việt Nam xây dựng một số công trình quan trọng mà cho đến nay vẫn phát
huy hiệu quả như nhà máy thủy điện Hoà Bình, thủy điện Trị An, nhiệt điện
Phả Lại, xi măng Bỉm Sơn, apatit Lao Cai, cầu Thăng Long… Tuy nhiên
trong thời kỳ này viện trợ không mang lại tác dụng đáng kể. Là một nước
nghèo nhất trên thế giới, quản lý kinh tế yếu kém, chế độ thương mại đóng
cửa, nền kinh tế không có chỗ cho đầu tư tư nhân, thâm hụt ngân sách trầm
trọng được bù đắp bằng việc in tiền dẫn đến siêu lạm phát trong những năm
đầu thập kỷ 80 đã được các nhà tài trợ đánh giá là một môi trường khó khăn
cho viện trợ. Điều đó được thể hiện qua bảng giải ngân ODA 1985-1992:
13
1985 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992
114 146,5 111 147,8 120 189,6 218,5 356
Tuy nhiên, trong thời kỳ 1989-1992, những giúp đỡ của các tổ chức tài
chính thế giới cùng với sự nỗ lực của chính phủ Việt Nam đã tạo ra một sự
cải cách nhanh và có tổ chức hệ thống. Viện trợ thời kỳ 1989-1992 chỉ tập
trung chủ yếu vào tư vấn về chính sách và hỗ trợ kỹ thuật trong quá trình điều
chỉnh và cải cách. Hỗ trợ tài chính quy mô lớn chỉ tới sau khi có một môi
trường chính sách tốt ở Việt Nam.
2.1.2.2. Thời kỳ sau năm 1993.

Sau năm 1993, khối lượng ODA đến Việt Nam đã tăng lên nhanh
chóng do Việt Nam đã có những chính sách cải tiến kinh tế phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế thế giới. Khối lượng ODA đến Việt Nam kể từ sau năm
1993 đến nay tăng dần qua các năm, điều đó cũng chứng tỏ sự ủng hộ của các
nước, các tổ chức quốc tế đối với công cuộc cải cách kinh tế ở Việt Nam.
Lượng ODA đến Việt Nam cam kết qua các năm thể hiện qua bảng dưới đây:
1998 1999 2000 2001 2002 2003 20004 2005 2006 2007
2,7 2,1 2,4 2,4 2,5 2,8 3,46 3,5 3,75 4,45
Cơ cấu các nhà tài trợ cho Việt Nam:
- Nhật Bản: 30%.
- WB : 23%.
- ADB : 17%.
- Các nước và các tổ chức quốc tế khác: 30%.
2.1.2.3. Đánh giá hiệu quả công tác quản lý nguồn vốn ODA.
Thực hiện nghị quyết của Bộ chính trị, trong thời gian qua, Chính Phủ
Việt Nam đã không ngừng nỗ lực cải cách chính sách, hoàn thiện môi trường
14

×