Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá của đồng bào dân tộc Khơ Me ở tỉnh Sóc Trăng - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (43.86 MB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐAO TẠO, B ổ i DƯỠNG
GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRI

NGUYỄN HOẢNG SÁCH

G IŨ G ÌN , P H A T H U Y BẢN S Ắ C VĂN H Ó A
C Ù A ĐỔNG BÀO DÂN T Ộ C XHƠ ME ớ TỈNH s ó c TRẢNG
- T H Ự C T R Ạ N G V À G IA I P H Á P

LUẬN VÃN THẠC s ĩ T R IẾ T HOC

Chuyên ngành : Chủ n«hia xã hội khoa hoc
M ã sỏ:

5.01.02

Người hướng dán khoa học: TS. NGUYÈN VÁN SƠN

'UNG tam

HÀ NỘI - 2005

— --------


L Ờ I C A M ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên á m của riêng
tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Vân Sơn. Cức sô' liệu,


tài liệu nêu ra trong luận văn là trưng thực, đảm bàn tính
khách quan, khoa học. C ác tài liệu tham khảo có nguồn gốc
xuất xứ rõ ràng.

H à Nội, ngàv 18 thúng 01 núm 2005
T ác giả luận văn

N g u y ẻn H o à n g Sá ch


MỤC LỤC
T ra n g
MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1. KHÁI LƯỢC LỊCH SỬHÌNH THÀNH VÀ NHŨNG
Đ Ặ C TR U N G N ỔI BẬ T CỦA B Ả N SẮ C V Á N HÓA
DÂN TỘ C KH Ơ M E
1.1. Nguồn gốc nsười K h ơ me Nam bộ
1.2. Lịch sử văn hóa truyển thòng của dân tộc K hơ me

20

1.3. Những đặc trung nổi bật của bản sắc vãn hóa dãn tộc
K hơ me

39

CHƯƠNG 2. THỰC T R Ạ N G V À NHŨNG VẤN Đ Ể Đ Ặ T RA C Ủ A V IỆ C

G IỬ G ÌN V À PH Á T H U Y BẢ N SẮ C V Ã N H ÓA C Ủ A

ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHƠ ME ở TỈNH SÓC TRẢNG

47

2 .1 . Khái quát về điểu kiện tự nhièn. kinh tế - xã hỏi và
nsười Khơ me ờ tỉnh Sóc Trăng

47

2 .2 . Thưc trạne của việc giữ 2Ìn và phát huy bản sắc
vãn hóa dân tộc K hơ me ớ tinh Sóc Trảng
2 .3 . Những vấn đề đặt ra

51
81

CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỔNG V À M Ộ T s ố G IẢ I PH Á P C H Ủ Y Ế U
Đ Ể G IỮ G ÌN , PH Á T H U Y BẢ N SẮ C V Ă N H ÓA C Ủ A
Đ Ồ N G B À O DÂN TỘ C KHƠ M E ỏ TỈN H SÓ C T R Á N G

86

3.1. Phương hướng giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
K hơ me tỉnh Sóc Trăng
3 .2 . M ột số giải pháp chủ yếu

86
90


K Ế T LUẬN

111

D A N H M Ụ C T À I L IỆ U TH A M K H Ả O

113

PHU LỤC

118


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là độn® lực
thúc đẩy xã hội phát triển. Văn hóa có ảnh hưởng sâu rộng và tác độna đến moi
mặt của đời sống xã hội. Nó là một trons nhữne nhán tô' quan trọng hướng dẫn
hoạt động của con người hướng tới Chân. Thiện. Mỹ. Vãn hóa còn biểu hiện trình
độ vãn minh của dân tộc và là bản sắc của từns tộc nơười. Mỗi môt dân tộc đều có
bản sắc văn hóa riêng. Bản sắc vãn hóa là chứng minh thư. là thẻ can cước của
từng dân tộc.
Trona cuộc sống, ngoài nhu cáu thoa mãn vé vặt chát, con naười con Cũ
nhu cầu thỏa mãn về tinh thần. Chính nhu cầu đó sẽ tạo nên độns lực to lớn
đưa con naười vươn tới sự hoàn thiên. Con nsười sốns trong cộns đổng dân
tộc: một mặt. chịu sự tác độns, chi phối bời nền văn hóa cùa dán tộc. nsười ta
tiếp thu. thường thức những aiá trị văn hóa của dân tộc mình: mãt khác. 2Óp
phần bảo vệ và nâng cao nhữns bản sắc vãn hóa của dân tộc, ùm cách rút nsấn

sự chênh lệch về trình độ phát triển của dân tộc mình so với các dân tộc khác.
Đó là một nhu cầu chính đáng và là trách nhiệm của mỗi con người.
Hiện nay, nước ta đang trong quá trình xây dựng nền vãn hóa mợi - nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dàn tộc. Đó là nền văn hóa thòng
nhất trong sự đa dans về vãn hóa của cộne đổng các dân tộc Việt Nam. Vì vậy,
phái biết chọn lọc, giữ ơìn và phát huv truyền thốna văn hóa của cộng đổns các
dân tộc; bảo tổn và phát triền ngôn ngữ. phong tục, tâp quán tốt đẹp của từng dân
tộc ở Việt Nam. Hiến pháp nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992, tại điều 5 có ghi rõ: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống ưên đất nước Việt Nam.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ dúp nhau cùna
tiến bộ giữa các dân tộc. nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dãn


tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sãc dãn tộc và phát huy những
phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực
hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nàng cao đời sống vặt chất và
tinh thần của đồne bào dân tộc thiểu số" [17. tr. 15].
Đồna bào Khơ me là dân tộc thiểu số, chiếm một tỷ lệ khá lớn về dân
số ờ các tỉnh đổng bằne Nam bộ nói chung và ờ tinh Sóc Trăng nói riêng. Dân
tộc Khơ me có nền văn hóa từ lâu đời và mang bản sác dân tộc khá độc đáo.
Bán sắc văn hóa Khơ me vừa quyện chật với tín ngưỡns tôn siáo. vừa mans
tính quần chúns rộna rãi. có sức mạnh to lớn chi phối moi hoạt độna của đổna
bào Khơ me.
Song, thực tế cho thấy: nền văn hóa Khơ me hiện nay vẫn còn ớ trình độ
thấp; nhiều phong tục tập quán và lễ hội lạc hậu. lỗi thời, có nhữn2 nhàn tô'
khỏn 2 phù hợp với xu thế phát triển chung của đát nước. Bên canh đó. tnrớc
àm mưu và thủ doan "diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch luôn tìm mọi
cách lợi dung vấn đề dân tộc Khơ me nói chuns và vãn hóa Khơ me nói riêng
để 'chốns phá, nhằm kích độns gây chia rẽ, thù hằn giữa các dân tộc. Mặt

khác, việc giữ sìn và phát huy bàn sắc văn hóa dãn tộc Khơ me troniỉ thời gian
qua cũna chưa có chuyển biến nhiều. Cho nên việc khai thác và phát huy
những giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào Khơ me để nhằm thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội chưa đạt được kết quả tốt.
Vì vậy, việc nghiên cứu văn hóa Khơ me để nhàm khẳng định nhữns eiá trị
nổi bật, đồng thời tìm ra những giải pháp để khắc phuc mặt hạn chế. góp phần vào
việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khơ me là một vấn đề có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn hết sức thiết thực, không những đáp ứng yêu cầu trước mắt mà
còn có ý nghĩa lâu dài.

2


Với ý nghĩa trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài "Giữ gìn, phát huy bẩn sắc
văn hóa của đồng bào dán tộc K hơ me ở rình Sóc T răng - Thực trạng va

giải pháp " làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về vấn đề dân tộc Khơ me Nam bộ nói chung và vãn hóa Khơ me Nam
bộ nói nêng. từ trước đến nay đã có nhiều côns trình nghiên cứu cúa nhiều tác
giả, tập thể tác giả như:
• - Nhóm bài nghiên cứu về naười Khơ me và dân tộc Khơ me Nam bộ 2ồm
có: "Người KIlơ me ở đổng bằng sông Cửu Loiit’" của nhiều tác 2Íả do Viện
khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. 1980; 'Tờ/?;' luận phàn

tích một sô' vấn đ ể người Khơm e đồng bằng sông Cừu Long" của Nsuvễn Hữu
Tiến, Viện Thòng tin khoa học - xã hội. 1994: "Loại hình cóng xã của người

K hơ me ở đồng bảng sông Cửit Long" , Luận án phó Tiến sĩ khoa học. L997
của Nauvễn Khấc Cảnh; "Vấn đẻ dãn lộc ờ đổng bằng sông cửu Long" của

M ạc Đường. Nhà xuất bản Khoa hoc xã hội. 1991, v.v...
-

Nhóm bài viết vé đề tài vãn hóa và đời Sống tinh thần của dân tộc Khơ

me-Nam bộ gồm có: "Bản sắc vãn hóa dân tộc Khơ me Nam bộ" của Thạch
Voi, Nhà xuất bản Trung tâm vãn hóa thành phố Hồ Chí Minh. 2001; "Văn

hóa người Khơ me vùng đồng bằng sông cỉa i Long" của nhiều tác giả do
Trường Lưu chủ biên, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, 1993; "Nâng cao

truyền thống văn hóa dân tộc nhằm phát huy nhân tố con người của đồng bào
Khơ me đồng bằng sông cửu Long", Luận văn thạc sĩ triết học, 1993 của
Huỳnh Thanh Quang; "Ngôi chùa trong đòi sống vân hóa người Khơ me tỉnh

Sóc Trăng", Luận văn thạc sĩ văn hóa, 1997 của Lâm Thanh Sơn; "Phát triển

3


đời sống tinh thần của đồng bào dãn tộc Khơ me Nam bộ trong công cuộc đôi
mới hiện nay", Luận án Tiến sĩ triết học, 2001 của Trần Thanh Nam, v.v...
Nhìn chung các côn? trình, chuyên luận nghiên cứu của các tác giả nói
trên đã phản ánh nhiều khía cạnh khác nhau dưới góc độ lịch sử, dân tộc học,
xã hội học, triết học, văn hoá... về chù đề người Khơ me. dàn tộc Khơ me và
văn hoá Khơ me Nam bộ nói chung. Nhưng chưa có một đề tài nào nghiên cứu
về việc giữ gìn và phát huy bản sắc vãn hóa dàn tộc Khơ me ở tinh Sóc Trăng
dưới sóc độ chuyên ngành chủ nahĩa xã hội khoa học môt cách đầy đủ và có
hệ thống. K ế thừa các kết quả nghiên cứu của nhĩms còns trình dã cỏns bố.
luận văn này sẽ tiếp tục nshién cứu đê 2 Óp phán làm sán2 to van dế trẽn.

3-

M ục đích và nhiệm vụ của Iuan vãn

3.1- Mục đích
Mục đích cúa luân vãn là tìm hiểu nhữnơ nét đặc trung nổi bặt của bán sắc
văn hóa, thực trạna của việc 2Ìữ gìn và phát huv bàn sắc văn hoá dân tộc Khơ me ờ
tỉnh Sóc Trãng trong thời gian qua. Trên cơ sờ đó, đề xuất một số 2iải pháp nhẳm
giữ 2Ìn và phát huy bản sắc vãn hóa của dàn tộc Khơ me ữona còng cuộc đổi mới
hiện nay.
3.2- Nhiêm vu
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Phân tích lịch sử hình thành và những đặc điểm của bản sắc văn hóa
Khơ me Nam bộ nói chun? và ờ tỉnh Sóc trãna nói riêng.
- Phân tích thực trạng của việc giữ gìn, phát huy và những vấn đề đặt ra
của vãn hóa dân tộc Khơ me ở tỉnh Sóc Trăng.
- X ác định phương hướng và một số giải pháp chù yếu nhằm giữ gìn và
phát huy bản sắc vãn hóa của đồng bào dân tộc Khơ me ờ tinh Sóc Trãng.

4


4- Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1- Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luân để nehiên cứu đề tài là dựa vào những quan điểm lý luận
của chủ nơhĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đuờng lối. chính sách
của Đảng ta về vấn đề văn hóa; các nghị quyết của Tinh ủy Sóc Trăns về văn
hóa dân tộc Khơ me để làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong luận vãn.
4.2- Phương pháp nghiên cứu

Từ sóc độ chính trị - xã hỏi. luân ván sẽ sư dụn2 các phươna pháp lịch
sử và lô sic. phàn tích và tổns hợp. quv nạp và diễn dịch, phương pháp so sánh,
chứns minh đê nghiên cứu đề tài này.
5- Pham vi nohiên cứu cùa đé tài
Văn hóa là một lĩnh vưc vô cùns rộns lớn và hết sức phức tạp, cho nèn
phạm vi nahièn cứu của đề tài chỉ tập truns đi sâu nghiên cứu lĩnh vực phong
tục, tập quán và lễ hội mans tính chát vãn hóa điên hình của dân tộc Khơ me ờ
một tinh đặc trưng cùa vùng đồng bằng Nam bộ - tinh Sóc Trăng.
Thòi gian khảo sát chủ yếu là từ khi tái lập tình Sóc Trăng (tháng 4 nãm
1992) đến nay.
6- Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
-

Luận văn 2Óp phần tạo lập cơ sờ lý luận cho việc phàn tích lịch sử hình

thành và những đặc điếm nổi bật cùa văn hóa truyền thòng dân tộc Khơ me. cùng
với việc phân tích thực trạng giữ gìn và phát huy bản sắc vãn hóa dân tộc của nền
văn hóa ấy. Từ đó, đi đến thống nhất về nhân thức trong việc hoạch định và thực
hiện các chính sách có liên quan đến vấn để giữ 2Ìn và phát huy bản sắc vãn hóa
của dân tộc Khơ me.

5


-

Các kết quả đạt được trong luận văn có thể dùng làm tài liệu tham

khảo trong nghiên cứu đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dàn tộc. Đồng thời, có thể phạc vụ

cho việc nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề liên quan đến vãn hóa dàn tộc
Khơ me ở các trườns Chính trị tinh, thành phố và các trườns Đại học. Cao
đảng...
7- Kết cáu của luận văn
Naoài phần mờ đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
aổm 3 chương. 8 tiết.
Chương 1: Khái lược lịcli sứ hình rliảnh và ìihữiií’ dặc t n d ĩ nòi bật

của bàn sác vãn lióa dân lộc Khơ me.
Chương 2: Thực trạng và những vấn đẻ đặt ra của việc giữ 'Ạn và nhát

huy bàn sắc ván hoá của dồng bào dàn tộc K hơm e ớ tình Sóc Trũng.
Chương 3: Phương hướng và một s ổ giài pháp chù xêu dê liếp tục giữ

gìn và phút huy bán sắc văn hóa của dồng bảo dân tộc Khơ me ở tình Sóc
Trăng.

6


Chương 1
KHÁI LƯỢC LỊCH s ử HÌNH THÀNH
VÀ NHỮNG ĐẶC TRUNG N ổ i BẬT CỦA BẢN SẮC
VĂN HÓA DÂN TỘC KHƠ ME
1.1. Nguồn gốc người Khơ me Nam bò
1.1.1. Lịch sử hỉnh thành dán tộc K hơ me Nam bó
Nam bộ là vùna đất phía Nam của nước Việt Nam, trái dài từ tinh Đổns
Nai trờ vào đến mũi Cà Mau. 2ổm 17 tinh và 2 thành phố. Là vùng đất đổns
bàng trù phú. màu mở được bổi đáp bời phù sa cua các con sone như: sòng
Cừu Lons. Vàm c ỏ . Sài Gòn và sòna Đồng Nai. Khí hậu, thời tiết vo cùng

thuận lợi. mưa thuân sió hòa. ít phải đương đẩu với sư hoành hành của bão lũ.
Quanh năm chi có hai mùa mưa. nắna cho nên rất thích hợp cho sự tăng
trườn2 của cây trổng và vật nuôi. Nam bộ còn là vùng đất nằm cặp biển Đông,
có hệ thống sôns ngòi chằng chịt cho nên đây cũn 2 là vùns đất rất siàu có về
thuv, hài sản.
Dân cư ờ vùng Nam bộ xưa nav sốna chủ vếu bàns nshe trổng lúa nước
và nghề nuôi, trồng, đánh bắt thủy, hải sản. Các dân tộc sinh sống ờ đây chủ
yếu là naười Việt (Kinh), người Khơ me, người Hoa. naười Chăm... Họ Sốn2
xen kẽ, đan xen với nhau trẽn một địa bàn quần cư sinh tư. Trong các dân tộc
đó, đông dân nhất là người Việt, kế đến là người Khơ me. còn người Hoa và
người Chăm chí chiếm số ít. Phải nói đây là vùng tập trung người Khơ me
đông nhất ớ nước ta. Theo số liệu thống kê nãm 1998 thì dân số Khơ me Nam
bộ có khoảng 1.065.000 người, đông nhất là 13 tính miền Tây Nam bộ (Cà
Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Hâu Giang, Kiên Giang, An Giang, Đồns Tháp.
Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang, Long An và thành phố Cần Thơ)
với số dân là 1.046.318 người. Naoài ra, ở Tây Ninh có hơn 10.000 người,
thành phố Hồ Chí Minh khoảng 5.000 người, Bà Rịa - Vũng Tàu ước chừns

7


1.000 người. Các tỉnh còn lại, người Khơ me cũng có mãt nhưng số lượng ít và
sống rải rác.
Người Khơ me có một sô' tên gọi khác như: Miên, Cao Miên, người K,
dân Thổ. Đổng bào dân tộc gọi nhau là Khơ me và văn bản chính thức của
Nhà nước ta gọi là dân tộc Khơ me.
Vấn đề đăt ra ờ đây là người Khơ me từ đâu đến vùns đất Nam bộ? Và
họ đến từ bao 2ÍỜ? Đây là câu hỏi lớn mà các nhà khoa học còn đang tiếp tục
nshiên cứu.
Neược dòng lịch sử. chúns ta có thể thấy người Khơ me có mặt từ rất

sớm trên vùng đất Nam bộ so với các dân tộc khác cùna sinh sốna trên vùng
đất này. Qua các tài liệu kháo cổ học đã xác nhàn điều đó. Vù na đất Nam bộ
được hình thành cách nav rát láu. Do sự di chuyển và nàng lén cua non đá, sự
hạ thấp của mực nước biển và sự bổi đắp của phù sa bởi các con sông Đồns
Nai và Cửu Lons, đồns bằng Nam bộ đã hình thành, phù sa cổ được chuẩn
định có niên đại từ 5.000 năm đến 1 triệu nãm cách đây. Càns về phía biển
Đ ôns sự hình thành vùn® đất do phù sa bồi đắp có niên đai càng sần.
Cùng với sự hình thành vùnH đất Nam bộ, các cư dân ờ đâv cũns có mặt
từ rất sớm. Các thành tựu của khảo cổ học đã chứng minh đồna bằng sòng
Đồng Nai và sông Cửu Long là một khu vực lịch sử văn hóa có nhiều lớp dân
cư và nhiều tầng vãn hóa thay thế nhau tổn tại và phát triển. Cùns với sự biến
động của tự nhiên, sự xâm thực nhau giữa đổnơ bằng và biển, nhữns cuộc di
dân cơ học và sự biến động chính trị đã hình thành ớ đáy các tầng vãn hóa
trong lịch sử.
Thời sơ sử cùa người Khơ me Nam bộ vẫn chưa được làm sáng tỏ lắm,
do thiếu sự sưu tầm nghiên cứu và thiếu nhiều cứ liệu, nhưng dẫu sao người ta
cũng có thể hiểu được sự tổn tại của người Khơ me Nam bộ đã từng sống ở
đây lâu đời, qua các hiện vật khảo cổ đã khai quật được ở ó c Eo và rải rác ở
các tỉnh Nam bộ thời Pháp thuộc. Gần đây, các nhà khảo cổ học tiếp tục khai
quật được các hiện vật ở Long An, thành phổ' Hồ Chí Minh. Tiền Giang và

8


một số tính khác thuộc miền Đông Nam bộ. Ngoài ra, các nhà khảo cổ học
còn phát hiện ngôi đền cổ ở ấp Lưu Cừ, xã Lưu Nghiệp Anh, huyện Trà Cú,
tỉnh Trà Vinh; ngôi chùa cổ ờ ấp Trà Kháo, xã Hòa Ân, Cầu Kè, Trà Vinh;
Linh Sơn Tự ở xã Vọng Thê có tượng Siva bằng đá cao 5m và hai bia ký viết
bằng ngôn naữ Khơ me có niên đại khoảng 1.800 năm. Các hiện vật phát hiện
được ở các nơi trên bao gồm nhiều dạng và được làm bàng sát, đổng, đổng

đen, đất sét, xương thú hoặc đá như: búa, đục, bàn nạo, dao, đá mài. khuôn
đúc. lưỡi hái. con thoi, vòng đeo tai. đồ trang sức, mũi tê n .'lưỡi càu. lòm.
chuỗi, miễng nồi, hủ chén có hoa văn trang trí... Do tìm thấy nhữns hiện vật
ấy. cho nên người ta có cơ sớ để nhận định vể đời sống của người Khơ me thòi
sơ sứ. là sống định cư thành từna chòm xóm rái rác trẽn khắp vùna Jũt Nam

Theo nhiều nguồn tài liệu lịch sử cho thấy vào khoảng từ năm 200 3 0 0 trước Côns nsuvên, nsười Khơ me Nam bô đã Sốn 2 tập trung thành
Phum. khóna còn du canh du cư nữa. Họ đã có tiếng nói dế 2 Íao tiến với
nhau. Họ Sốn 2 tron 2 nhữns n 2 òi nhà nhó lợp băng lá dừa nước, dùns búa
để đốn gỗ, dùna đá mài để cọ lửa, dùng hủ đựng lúa, dùno chậu đựns nước
và rượu. Họ trồng lúa nước, dùns lưỡi hái bằng đồng hoặ.c bàníỉ xươns
sườn các con thú để gặt lúa. Họ biết chăn nuôi, tràu, bò, chó, heo là gia
súc chú yếu nuôi trong sia đình. Ngoài ra, họ còn đi hái trái cày, săn bắn
thú bằna cung nỏ, đầu mũi tên có bịt sắt hoặc bằng xương thú có tẩm
thuốc độc. Họ dùng lưỡi càu làm bằng xương đế câu cá và môt số dụng cụ
thô sơ làm bằng tre. 20 để bắt cá. Thức ăn chính cùa họ là cơm. cá. thịt,
ốc, sò. vọp, hến... Họ đã biết làm nổi. cà-om ở những vùng có đất sét mịn.
Trước khi đem nung, họ dùns móng tav vẽ đườnơ thảng hoãc đường con 2
lên các vật để trang trí cho đẹp. Họ biết dùng con thoi bằng đá để dệt tơ,
vải, bố, may quần áo để mặc. Đặc biệt, họ còn biết nấu sắt. đổns, biết làm
đổ trang sức như dây đeo cổ, vòng đeo cổ tay, cổ chân, nhẫn...
Thời ấy người Khơ me rất tin vào Arak, Neakta. Têvada/Kru. vì họ cho
rằng đó là các thế lực giúp cho họ được bình vên no đủ. Khi tronơ nhà có


người chết, người ta đem chôn (thổ táng) kèm theo các đồ vật dùng của cá
nhàn, trong đó có cả đổ trang sức. Còn xă hội thì theo chế độ mẫu hệ.
Tương truyền rằng, trước khi nsười An Độ đến vùng đất Nam bộ, hồi
đầu Công nguyên, các nhóm người sống rải rác thành các chòm đóm ở nơi đày
đã tập hợp lại thành một cộng đồng liên minh bộ tộc với danh xưng là

Văhnum, gọi trại thành Phnom hoặc Bnam có nghĩa là núi. Cộng đồng này
đăt dưới quyền cai trị của một nữ chúa xinh đẹp có tên là Sôma. cũng có tên
gọi là Sô-van-késey (nàng Tóc thơm) - sử Trung Hoa gọi là nàna Liễu Di. Lúc
này siao thông đường bộ ờ lục địa cháu Á chưa phát triển, đi lai rất khó khăn,
cho nên việc giao lưu. quan hệ giữa các nước chủ yếu bằng đườns thủy và
đường biển. Trong giai đoạn này, tiến bộ nhất là tàu thuyền của Trung Quốc
và An Độ. Vào năm 40 sau Công nguyên, có một giáo sĩ Bà La Môn tên là
Kôn Đinh Nya - người Truns Hoa gọi là Hun Tiên (Việt hóa là Hỏn Điền) đã
hướng đoàn tàu biển của mình cập vào hải phận của nữ chúa Liễu Di. Nàn 2
Liễu Di đưa quản ra đánh nhưng bị bại trận. Giáo sĩ Hổn Điền đã thắng, buộc
nàng Liễu Di nhường ngôi và tự xưng làm vua, lấy tên của bộ tộc đăt tên nước
gọi là đế chế Văhnum (hay còn gọi là Phnom hoãc Bnam) - người Trung Hoa
gọi là Phù Nam (Xứ Núi), và cử hành hòn lễ VỚI nữ chúa Liễu Di. Hổn Điền là
Quốc vương đầu tiên cùa Vương quốc Phù Nam và nhà nước Phù Nam cũng
được ra đời từ đó. Chính sự ra đời của Nhà nước Phù Nam đã gắn kết cộng
đồng người Khơ me Nam bộ trờ thành là một dân tộc thực sự.
Dưới sự trị vì của Hổn Điền, Vương quốc Phù Nam được tổ chức, sắp
xếp theo kiểu của An Độ. Do vậy, tuy Nhà nước phong kiến Phù Nam mới ra
đời, nhưng lại bị ảnh hường bởi Nhà nước phong kiến "già" cúa Ân Độ, nên
vừa mới lập quốc đã cường thịnh ngay. Từ đó, tên tuổi của Vương quốc Phù
Nam đã vang lừng trên toàn khu vực lục địa Đông Nam Á.
Trung tâm của Vương quốc Phù Nam là vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Vương quốc Phù Nam có diện tích rất rộng, bao gồm các bang lớn nhỏ
và các thuộc quốc (chư hầu), trong đó đặc biệt là có nước Chenla ở Trung Hạ

10


Lào và Môn ở đồng bằng sông Mê Nam (nay là Thái Lan), v ề vị trí Vương
quốc Phù Nam, phía bắc giáp Trung Hoa (Vân Nam), Việt Nam; phía nam

giáp thành phố Licar (mũi Malaca); phía đông giáp biển Đông; phía tây giáp
dãy núi Ténasérưm (Miến Điện). Quốc sia Phù Nam thời xưa ấy hiện nay bao
gồm nước: Campuchia, Thái Lan, Lào và Nam bộ Việt Nam [46, tr.28-29].
Sự cường thịnh của Vương quốc Phù Nam kéo dài được 7 thế kỷ, mãi
cho đến giữa thế kỷ thứ V II thì mới suy sụp và tan rã. Từ cuối thế kỷ thứ VI.
Vương quốc Phù Nam bước vào thời kỳ suy yếu nghiêm trọng, xảy ra cuộc nổi
loạn ờ phía Bắc và sự đối đầu, tranh giành quvển lưc của các vị 'vua trị vì ở các
bang. Lợi dụng tình thế đó, vua chư hầu Phôveah Waraman đans trị vì ờ bang
Chenla (Chân Lạp) thuộc bộ tộc Campuchia kéo quân tiến đánh tiêu diệt
Vương quốc Phù Nam. cướp được ngôi vua và thành lập đế chế Chàn Lạp trên
toàn lãnh địa của đế chế Phù Nam cũ. Tuy nhiên, dòng họ của vua Phù Nam
vẫn tiếp tục tổ chức kháng chiến để mưu đổ phục quốc nhưng bất thành. Công
cuộc kháng chiến này kéo dài đến năm 627 thì mới dứt hẳn. Từ đó, người Khơ
me Nam bồ bị Chản Lap thống trị và đồng hóa dần tron 2 vòna 12 thế kỷ (từ
thế kỳ thứ v n đến thế kỷ x v i n ) .

Dưới sự thống trị cùa đế chế Chân Lạp, người Khơ me Nam bộ là lực
lượng bị bắt đi lao động phục dịch nhiều nhất, vì lẽ họ là gốc người Vãhnum
và là lực lượng lao động thông minh, khéo tay, có trình độ. Quá trình này diễn
ra liên tục hơn 100 năm. Số người đi lao động phục dịch thì nhiều nhưng trờ
về rất ít. Cũng trong thời gian đó, trận thiên tai lũ lụt lớn và kéo dài chưa từng
có trong lịch sử đã xảv ra. cướp đi biết bao nhiêu sinh mang con người. Sau
trận lũ lụt, số người Khơ me ở Nam bộ giảm đi rất nhiều, số sống sót không
còn được bao nhiêu. Họ bỏ vùng lũ lụt đi tìm đất gò đồi, khô ráo ờ bờ sông, bờ
biển để ở, và từ đó, vùng đất Nam bộ có nhiều chỗ, nhiều nơi đã trở thành
lung bào, rừng rú, hoang vu. Dân ở theo từng chòm đóm rất khó liên lạc với
nhau vì bị chia cắt, không có đường sá, việc đi lại rất khó khăn. Chỉ còn một
nhóm ở Bến Nghé

liên hệ được với các nhóm khác ờ các tỉnh miền Đông


Nam bộ và Trà Vinh, Sóc Trăng, Rạch Giá, Hà Tiên. Trong tình hình đó, triều

11


đình Chân Lạp không còn khả năng quản lý lãnh thổ này được nữa, họ chỉ đưa
lực lượng bám theo các chòm đóm dân cư tương đối đông. Hơn nữa, bản thân
lực lượng bám theo dân cư cũng rất mỏng, mỗi năm chưa liên lạc được với
triều đình Chân Lạp một lần.
Từ thế kỷ x v n trở về sau, đế chế Chân Lạp đã lâm vào tình trạng suv
thoái nghiêm trọng, mâu thuẫn nội bộ ngày càng gay gắt. Trong hoàns tộc thì
chia rẽ, chém giết lẫn nhau để ữanh giành ngôi vị, dẫn đến loan lạc liên tiếp
xảy ra. Thừa cơ hội lúc đó. các chư hầu của đế quốc Chân Lap đã nổi dậy
ơiành độc lập, làm cho lãnh thổ của đế quốc Chân Lạp bị chia cắt và thu hẹp
dần. Ngav ờ trung tâm đế chế Chân Lạp. tức là ờ Ángkor . cũn° chia thành các
phe nhóm xâu xé lẫn nhau, kẻ thì dựa vào Thái Lan. người thì dựa vào triều
đình Việt Nam. Thậm chí cáu cún cả viện quân của hai bên vào tranh chấp,
khiến cho đế chế Ảngkor dán dần bị suy sụp.
Vào thời điểm đó ờ Việt Nam cũng không được yên ổn. cuộc chiến
tranh giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn diễn ra rất quyết liệt và kéo dài. Cuộc
chiến tranh "huynh đệ tươns tàn" đã làm cho đời sống của nhãn dân ngày càng
cơ cực, bi đát, tình trạng bắt phu, bắt lính diễn ra liên tục, nên nhiều nsười đã
bò trốn, ra đi tha phươna để tìm một nơi yên lành mà sinh cơ lâp nghiệp. Trẽn
đường đi vào Nam, họ đã dừng chần khắp vùng đồng bằng Nam bộ, mà lúc
bấy giờ ở noi đây mật độ dàn cư hãy còn thưa thớt, rừng rú hoang dã. Họ đã
được người dân địa phương giúp đỡ cho trú ngụ và cùng nhau khai hoang rừng
rậm, làm ăn sinh sống. Cuộc di dân tự do này kéo dài cho đến thế kv x v n .
Vào khoảng những năm 20 của thế kỷ x v n , do có ơn nghĩa với Chúa Nguyễn
(V iệt Nam) vì đã gả con gái cho vua Cheay Chêđtha (Chân Lạp) và có công

giúp đỡ nhà vua chống bạo loạn trong hoàng tộc, cho nên triều đình Chân Lạp
đồng ý cho phép 40.000 hộ dân Việt Nam (khoảng 200.000 người) vào vùng
đất Nam bộ cư trú và làm ăn sinh sống, từ đó, đã làm thay đổi căn bản cơ cấu
dân cư trên vùng đất Nam bộ. Quyết định này đã được chính thức ghi vào
chính sử của Chân Lạp. Sau đó cuộc di dân tự do của người Việt vẫn được tiếp
tục diễn ra và kéo dài, sô' lượng dân

di cư ngày càng tăng.

12


Cũng trong lúc này, ở Trung Hoa có biến động lớn. Nhóm người Hoa là
Hoàng Tiến, Vương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên không chịu phục tùng
nhà Thanh đã mang 3.000 quân và 50 chiến thuyền sang Việt Nam xin Chúa
Hiền cho tị nạn. Chúa Hiền cho Trần Thượng Xuyên vào đất Lộc Dã, Ba Làm
thuộc Biên Hòa (Đổng Nai), cho Hoàng Tiến và Vương Noạn Địch vào đất
Định Tường (Tiền Giang) làm ruộng, iập làng buôn bán. Ngoài ra, còn có
nhóm Mạc Cửu đi vào khu vực Hà Tiên khai khẩn đất đai, xây thành, mờ chợ.
Tiếp theo (từ năm 1850 trờ đi), phong trào Thái Bình Thiên Quốc và cuộc vận
độn? của Cách mạng Ngũ Tứ nổ ra ờ Truna Hoa, nhà Thanh đàn áp khốc liệt,
làm cho dòng người Hoa di cư sang Việt Nam, mà chủ yếu là ờ vùng đất Nam
bộ ngày càng nhiều.
Có thể nói vùng đổns bằng Nam bộ xưa kia. có nhiều kinh rạch, cù lao.
rừng rậm với muỗi, mòns. khi, cọp, cá sáu... Trước khi người Việt và naười
Hoa đến khai thác, nơi đây vẫn còn là một vùng thiên nhiên hoans sơ đáy bí
ẩn.'các bộ tộc người Khơ me sống rải rác tự túc tư cấp trên những siổng đất
cao bên cạnh các ngôi chùa. Đồns bằng Nam bộ lúc bấy giờ 2ần như bị bò
hóa với các cộng đổng dàn cư nhỏ sống tự tồn tự lập thoát khỏi mọi vươns
quyền. Khi người Việt và người Hoa đến. cùng với người Khơ me bản địa là

những người đầu tiên khẩn hoang rừng rậm, đào kinh thoát nước, vượt qua thử
thách khắc nghiệt đẩy lùi thiên nhiẻn hoang dã, đối phó với thú dữ, dịch
bệnh... Đây là quá trình mở rộng đất đai, xây dựng phường xã, thôn ấp, phàn
chia địa phận và phản chiếm ruộng đất. Chính quá trình lao đông chinh phục
thiên nhiên đã tạo ra sự đồng cảm gắn bó giữa ba tộc người Việt. Khơ me và
Hoa với nhau, hình thành một tình cảm ruột thịt, tình làng nghĩa xóm, ai úp đỡ,
tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống.
Tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc ở đây còn được thể hiện qua truyền
thuyết của người Khơ me nhằm ca ngợi mối tình đoàn kết Khơ me - Việt.
Truyền thuyết kể rằng: người Khơ me, người Việt, người Tây Nguyên... là con
cùne một mẹ vào buổi đầu khai nguyên trái đất. Một ngày kia khi người mẹ đi
vắng, những đứa con này đói bụng, lần đi tìm thức ăn và đến một nơi kia bắt

13


gặp một cây lạ, mẩu nhiệm, có nhiều hoa quả, chúng tranh nhau hái xuống ăn.
Nhưng lạ thay, khi ăn xong thì bỗng nhiên tiếng nói, màu da, mái tóc đều biến
đổi để trở thành những con người khác nhau. Đó là các tổ tiên của người Việt,
neười Khơ me, người Tây Nguyên... Từ đó, các cộng đồng này tứ tán khắp
nơi. sinh sôi nảy nở, nhưng chung quy vẫn là anh em cùng môt mẹ. Do vậy mà
mặc dù đã trải qua bao thãng trầm lịch sử, mọi biến cố xã hội do chế độ phong
kiến và bọn thực dân đế quốc gày ra, nhưng tinh thần đoàn kết giữa ba dân tộc
Việt. Khơ me, Hoa trên vùna đất Nam bộ vẫn được thắt chặt, không thể chia
cất rời.
Như đã trình bày ờ trên và bằng những cứ liệu lịch sừ có liên quan đến
hai đế chế Phù Nam và Chán Lạp đã công bố từ trước đến nay cho thấy: người
Khơ me Nam bộ và Khơ me ở Campuchia là hai tộc neười hoàn toàn khác
nhau. Tiến sĩ Lý Theam Tèng, nhà sừ học và vãn hóa Campuchia đã khẳng
định điều đó trong quyển "Vãn minh Ảnakor" xuất bản lần đầu ờ Phnồm Pênh

(Campuchia) vào năm 1960, và in lại lán thứ hai vào năm 1969 dưới triều đại
vua Norodom Sihanuh. Theo sách đã dẫn thì tộc người Vãhnum. hoặc Phnom
hoặc Bnam (người Khơ me Nam bộ) lập ra quốc gia Núi (Phù Nam) ở đồng
bằng sông Mê Kông vào năm 40 sau Công nguyên. Còn tộc neười Khơ me ở
Campuchia thì lập quốc ờ địa bàn Trung Hạ Lào (Chản Lạp) cũng có cùng
niên đại tương đưong. Vì vậy, cả hai tộc người này không có quan hệ huyết
thống, không có cùng chung bộ tộc. Vậy, nguồn gốc người Chân Lạp như thế
nào? Họ ờ đâu?
Sách Hậu Hán Thư của Trung Quốc chép rằng: ở tinh Hồ Nam có
siống người Hán gọi là Rợ Khương, còn bản thân họ tư xưng là Khel (nghĩa là
cái khiên). Thời Tây Hán vào nãm 202 trước Công nguyên, người Khel bị nhà
Hán đánh đuổi phải bỏ địa bàn chạy về phương Nam, một bộ phận chạy vào
Miến Điện và trụ tại đó, hậu duệ của họ là dân Karen ờ Miến Điện hiện nay.
Bộ phận còn lại chạy vào vùng Bắc Thái Lan, địa bàn cư trú của người bản địa
là người Môn. Họ đã hợp chủng với người Môn, tiếp thu ngôn-ngữ của người
M ôn, lúc bấy giờ là một tộc người đã có ngôn ngữ phát triển tương đối hoàn

14


chỉnh. Từ đó xuất hiện danh xưng Môn + Khel, hoặc Khmer (Khơ me). Người
Khơ me không dừng lại ở địa bàn này lâu được vì người Môn là một tộc người
có văn hóa cao hơn và đang nắm quyền làm chủ địa bàn, nên họ lại tiếp tục đi
về hướng Đông Nam. Sau khi vượt Sôn2 iMê Kông, họ thâm nhâp và thôn tính
một quốc gia mới thành lập là nước Đạo Minh (vùng Trung Hạ Lào ngày nay)
và tuyên bố thành lập quốc gia mới lấy tên là Chenla (Chân Lạp) thuộc tộc
người Campuchia. Còn tên gọi người "Khơ me" là để ghi nhớ trên đường di cư
họ đã hợp chủng với neười Môn và tiếp thu ngôn ngữ của người Môn.
Điều đó đã chứns minh, bộ tộc Văhnum hoàn toàn khác hẳn bộ tộc
Campuchia hoặc Khơ me ở Campuchia. Nguồn 2ỐC bản địa của người

Văhnum là ở đổng bằng SÔ02 Cửu Long, được phát triển dần lên và thành lập
Vương quốc Phù Nam. có bề dày lịch sử 7 thế kỷ oanh liệt, không dính dáng
gì đến tộc naười Campuchia hoặc Khơ me có địa bàn gốc từ tinh Hồ Nam
(Trung Quốc), trên đường di trú trong hoàn cảnh đặc biệt họ đã loại trừ một
quốc gia ờ Trung Hạ Lào để lập quốc (Chân Lạp). Vào thế ky thứ II, đế chế
Phù Nam quá cường thịnh đã chinh phuc được nước Chân Lap và biến họ
thành chư hầu. Khoảng cuối thế kỷ thứ VI đđu thế kỷ thứ VII, lợi dụng Vương
quốc Phù Nam có loạn và chia rẽ, nước chư hầu Chân Lap đã đem quàn đánh
thảng vào kinh đô và loại trừ đế chế Phù Nam của người Vãhnum, thành lập
đế chế Chân Lạp khá hùng mạnh ờ Đông Nam Á lức bấy giờ (trong đó có lãnh
địa của Vương quốc Phù Nam) và xâv dưng lên công trình Ànskor là một kỳ
quan nổi tiếng trẽn thế giới nsày nay.
Sự phân biệt trên đây rít có ý nshĩa về mãt lý luận và thưc tiễn đối với
đồng bào Khơ me Nam bộ. Vì, từ thế kv v n đến nay, Chân Lạp đã chiếm đoạt
toàn bộ mọi thành quả về chính trị, kinh tế, vãn hóa, xã hội mà Vương quốc
Phù Nam đã dày công xây dựng trong vòng 7 thế kỷ trước đó. Chinh họ đã
đổng hóa tộc người Văhnum - chủ thể của quốc gia Phù Nam , bắt phải xưng
danh là Khơ me. Cho đến bày giờ, người Khơ me Nam bộ thuộc dòng dõi của
tộc người Văhnum cũng không nhận biết dân tộc mình như thế nào? Tổ tiên
của mình là ai? Cứ ngỡ rằng ông bà cha mẹ, tổ tiên mình là gốc người Khơ me

15


Campuchia, nên mình phải gắn bó với "quê cha đất tổ". Trong khi đó thì thái
độ của một số người Khơ me ở Campưchia, từ dân thường cho đến các quan
lại trong giới cầm quyền của các thời đại, kể cả vua chúa đều có định kiến,
miệt thị và xem người Khơ me Nam bộ là người "đẩu gành cuối bãi, đầu Việt
đít Khơ me". Vì vậy, việc nhận thức được điểu này sẽ giúp cho nsười Khơ me
Nam bộ hiểu được cội nguồn của mình, tránh được sự ngộ nhận về đất nước

Campuchia cho đó là tổ quốc của mình, từ đó mà thắt chặt hơn nữa mối tình
đoàn kết giữa người Khơ me và người Việt trong cộng đồne các dân tộc Việt
Nam, cùng sống trẽn mãnh đất Việt Nam, phải biết yêu thươns, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Từ sự khác nhau về bộ tộc. về sự hình thành quốc gia và địa bàn cư trá
đã dẫn tới sự khác nhau căn bản giữa hai nền vãn hóa của hai dân tộc Khơ me
Nam bộ và Khơ me Campuchia. Sự khác nhau đó được biểu hiện ở chỗ vãn
hóa Khơ me Nam bộ phong phú, đa dang, thảm chí có nhữnơ néi độc đáo hơn
so với vãn hóa Khơ me Campuchia, bời quá trình giao lưu. chọn lọc. kế thừa
lẫn nhau giữa văn hóa khơ me Nam bộ với vãn hóa các dân tộc khác cùng cư
trú trên vùng đất này. Tưv nhiên, khi nghiên cứu văn hóa Khơ me Nam bộ
chúng ta cũng không nên tuvột đối hóa sự khác nhau giữa hai nền vãn hóa của
hai tộc người này. Nếu cho rằng văn hóa Khơ me Nam bộ tuyệt đối không có
liên quan gì đến vãn hóa Khơ me Campuchia là điểu hoàn toàn không đúng.
Dảu sao thì vãn hóa Khơ me Nam bộ cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều đến vãn
hóa Khơ me Campuchia.
1.1.2. Đác điểm c ư trú, sản xuất và hình thái xã hội của người K hơ

Khi nghiên cứu vãn hóa của một dân tộc không thể tách khỏi điều kiện
kinh tế - xã hội, điều kiện cư trú sinh hoạt và điều kiện tự nhiên mà dân tộc đó
sinh sống.
Sống quần cư thành từng cụm nhỏ trong khuôn khổ phura, sóc là đặc
điểm cư trú truyền thống của người Khơ me. Họ ít chịu thay đổi hình thức cư

16


trú cũng như địa bàn sinh tụ của mình. Đặc điểm cư trú của neười Khơ me
hoàn toàn khác với người Việt và người Hoa. Người Việt thích ờ những vùng
đất thấp, bằng phẳng, ven sông lớn, ven trục lộ giao thông; người Hoa thích ở

vùng chợ, những vùng có đông dân cư để buôn bán; người Khơ me thường
sống tâp trung thành từng cụm trên những giồng đất cao, giồng cát. vùng sâu
hẻo lánh, ven sõng rạch nhò. giữa đồng ruộng mênh mông, vùn 2 ven biển hay
các vùng đất ngập mặn. Một sô' ít sống ven thị xã, thị trấn, doc lộ giao thông.
Chẩng hạn như ở tỉnh Trà Vinh, người Khơ me cư trú trên đất dồng, khai
hoang những vùng đất thấp phía trước và sau giồng, từng bước biến chúng
thành đổng ruộng, nương rẫy để canh tác. Còn ờ tính Sóc Trăng, đất giồng ít
hơn nên nsưcri Khơ me khai thác, cư trú giữa nhữns cánh đổn° lúa lón, trẽn
nhữna vùng đất trồng màu quanh thị xã Sóc Trăng và nhữns aiổng cát ven
biển, ờ các tỉnh khác như Bac Liẻu, Cà Mau, Vĩnh Long, Cần Thơ... địa bàn
cư trú của người Khơ me cũng mans đãc điểm tương tư. Do đặc điểm cư trú
như thế, nẻn điều kiện sinh hoạt, phương tiện giao thòng trên địa bàn dân cư
cúa người Khơ me rất khó khãn, vất va: tình trang thiếu thôns tin. thiếu nước
ngọt trong sinh hoạt rất phô biến, đa sò roi vào cảnh đói nghèo và bệnh tật.
Về sản xuất, người Khơ me từ xa xưa đã biết trổng lúa nước. Nsoài việc
khai thác đất giồng, nương rẫy để trổng rau màu, khoai cù, người Khơ me còn
sớm biết khai thác cả vùng đất trũng bao quanh để ữồng lúa nước, mà không
chờ những người làm ruộng giỏi như naười Việt và người Hoa đến để chi cho
họ. Người Khơ me đã biết dùng biện pháp kỹ thuật để xây dựng các công trình
thủy lợi phục vụ cho tưới tiêu lúa nước, ơ gần sông rạch, người Khơ me biết
lợi dụng thủy triều lên để đưa nước vào ruộng, đắp đập giữ nước để rửa phèn
cho ruộng. Đến kỳ hạn khi lúa sắp làm đòng thì phá đập tháo nước ra xổ phèn
bắt cá. khi thủy triều lên lai tiếp tục đắp đập một lần nữa để giữ phù sa bổi
dưỡng cho lúa. ở những vùng xa sông rạch, người Khơ me đấp bờ thành ô để
giữ nước mưa. Khi cần, họ tát nước vào ô bằng gàu giai, gàu sòng, sa quạt.
Ngoài ra, người Khơ me còn biết đắp bờ bao ngạn để giữ nước hoặc xổ phèn

ĐAI Hơc QUỐC GIA HA NỘI
trung TÂM th ò n g tin thư viên



khi- canh tác. Khi người Việt mới từ miền Trung đặt chân đến vùng đất Nam
bộ hay người Hoa mới tò Hoa Nam đến, họ chưa có sẩn trona tay các biện
pháp thủy lợi nói trên, đặc biệt là ý thức sử dụng thủy triều lên xuống để đưa
nước vào ruộng nhằm rửa phèn và giữ nước. Phải nói đây là phát minh độc đáo
của người Khơ me xưa dựa trên cơ sở những điều kiện địa lý cu thể của vùns
đất đồng bằng Nam bộ.
Mặt khác, người Khơ me còn biết sử dụng sức kéo của trâu, bò để cày
ruộng và chuyên chở, biết cách chọn các giống lúa tốt phù hơp với từng loại
đất để cho nãng suất cao. Đi đôi với sản xuất nôns nghiệp, người Khơ me còn
biết chế biến lương thưc. Trước kia, họ dùng cối tầm vông mỏt chày hoặc hai
chày để giọt ra gạo. v ề sau họ đã biết đóng cối xay lúa. bãng cách đan vỏ
ngoài bằng tre, rồi dùng đất sét cho vào bèn trong nện cho thật cúng, dùng cày
đước chẻ miếng làm răng, dùng càv làm giằng xay để kéo, cho lúa vào xay,
rồi cho vào cối giã thành gạo. Công nahệ này làm ra gạo nhanh hơn nhiều so
với cối tẩm vông. Người Khơ me còn biết chế tạo ra cối xay bót để xav bột
làm bún và làm nhiều loại bánh khác.
Bên cạnh nghề làm ruộng cũng đã xuất hiện nghề khai thác đánh bắt cá,
tôm. tép... làm thực phẩm. Các công cu đánh bắt còn để lai cho đến ngàv nav
như xà ngôm, xà neang, nơm, lợp, buns, tru, nò, đó, lưới, câu, ống trúm, chia,
giỏ cá, giỏ tép, giỏ cua... đã chỉ rõ mức độ phong phú và phát triển của nghề
đánh bắt của người Khơ me xưa. Tôm cá là thực phẩm dùng hàn 2 ngày, nếu
còn dư thừa được chế biến thành khô hoặc làm các loại mắm bràhok để dự trừ
lâu dài. Ngoài ra, còn xuất hiện nshề trổng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa,
trổng bông kéo sợi dệt vải. Đến nay vẫn còn thấy các khung dệt cổ, lược, con
thoi, sa kéo chỉ và các khung dệt cải tiến của các thế hệ sau. Nghề gốm của
người Khơ me cũng phát triển như làm nổi đất, cà om... ngày càng tinh xảo
hơn.
Chính điều kiện sản xuất và đặc điểm cư trú sinh hoạt nêu trên đã đóng
vai trò rất quan trọng trong việc hình thành những nét văn hóa độc đáo của


18


người Khơ me Nam bộ nói chung và của người Khơ me ở tỉnh Sóc Trăng nói
riêng.
Về hình thái xã hội, người Khơ me sinh sống quây quần với nhau thành
những tập thể láng giềng nhỏ trên một địa điểm bám sát đất trồng trọt gọi là
phum (tương đương với ấp), đơn vị lớn hơn phum, bao gồm nhiều phum gọi là
sok (theo tiếng Việt là sóc - tương đương với xã). Người ta thườns đồns nhất
phum và sóc của người Khơ me với ấp và xã của người Việt. Nhưng thật ra
khôns phải như vậy. Vì từ bao đời nay, người Khơ me sống chuna với người
Việt và người Hoa trên vùng đất Nam bộ, các phum Khơ me xen kẽ với các ấp
người Việt. Có trường hợp đặc biệt, một số phum nhỏ của người Khơ me tự
khuòn mình vào một ấp, với tư cách là yếu tố cấu thành của một ấp lớn hơn.
trong đó người Khơ me, người Việt và người Hoa cùna sinh sống. Phum và
sóc không phải là đơn vị hành chính chính thức. Trong khuôn khổ cai trị của
các vua chúa thời nhà Nguyễn, các phum. sóc của người Khơ me đã bị sáp
nhãp vào ấp, xã chính thức của chính quvển địa phương.
Mặc dù vậy, nhưng phum, sóc của người Khơ me, ít nhất cũng là phum
vẫn cứ tổn tại như những thực thể dù khònơ chính thức, cho đến bây giờ người
ta vẫn còn dùng "phum" hay "sóc" để chỉ ncri cư trú của người Khơ me. Dù
sống xen kẽ với các dân tộc khác, có quan hệ giao lưu qua lại vói người Việt
và người Hoa trong nhiều thế kỳ, nhưng nhờ khuôn khổ phum và sóc, người
Khơ me đã được sinh ra và lớn lên ờ đây, họ làm ãn, sinh hoạt, hoạt động
trong khung văn hóa của dân tộc, vẫn giữ được bản sắc vãn hóa truyền thống
cúa dân tộc mình. Lịch sử còn ghi lại. trước kia khi lâp phum. nsười Khơ me
thường chọn nơi đất tốt, cao ráo, xác định khuôn viên, trồne tre chung quanh
để làm rào khép kín, quay mặt ra đường cái, có cổng ra vào, bèn trong sắp xếp
ngăn nắp, nhà ở theo thứ tự, từng hộ có nơi làm chuồng trâu, bò. heo; có nơi

chất rơm khô dùng để nấu nướng. Phum rộng còn có chút đất phía sau để cho
mỗi hộ có thể trổng trọt chút ít rau, đậu. hành, ớt... Vì vậy, khi nghiên cứu văn
hóa của người Khơ me khỏng thể không đặt nó vào trong khung xã hội của nó

19


[à phum, sóc. Chính phum, sóc đã làm nảy nở vãn hóa Khơ me và tạo nên tính
cộng đồng bền vững của dân tộc này.
Tóm lại, xét về mật lịch sử, người Khơ me Nam bộ là một dân tộc có
nguồn gốc khá rõ ràng, được hình thành từ trước công nguyên, đã lập quốc từ
năm 40 sau công nguyên và có thòi kỳ phồn thịnh kéo dài 7 thế kỷ. Nhưng
lịch sử phát triển của dân tộc Khơ me Nam bộ cũng có nhìme bước thăng
trầm. Đến thế kỷ thứ VII, nhà nưó’c cua tổ tiên người Khơ me Nam bộ là
Vương quốc Phù Nam bi Chân Lạp tiêu diệt và thôn tính. Họ cướp đi mọi
thành quả của tổ tiên nsười Khơ me Nam bộ tao iâp được, đã độns hóa và biến
những người Phù Nam thành nhữne n 2ười Chân Lạp. Ngay chính danh xưng
của tộc người cũng bị xóa bỏ và bị bắt buộc phải tự xưng theo người Chàn Lạp
là Khơ me. Thưc tế cho thấv, người khơ me Nam bộ và người Khơ me
Campuchia là hai tộc người có quá trình lập quốc khác nhau và sống ờ hai
quốc 2Ía khác nhau, chịu sư ảnh hườns về chính trị, kinh tế, vãn hóa. xã hội
cúa hai chế đô chính trị - xã hội khác nhau. Do đặc điểm cư trú, điểu kiện tự
nhiên và sự giao thoa về văn hóa trons tính kế thừa và phát triển, dẫn đến hai
nển văn hóa của hai dân tộc, về căn bân cũng có sự khác nhau. Nhận rõ điều
này để tránh sự sai lầm, ngộ nhận trons đồng bào dân tộc Khơ me Nam bộ,
cho ràng vãn hóa Campuchia và vãn hóa Khơ me Nam bộ là một. và ờ họ là
mỗi người có hai tổ quốc (Việt Nam và Campuchia) thích thì ở, không thích
thì đi. Từ đó, chúng ta cần phải hết sức cảnh giác đối với àm mưu xảo quyệt
của kẻ thù hòng làm mờ đi một thực tế lịch sử, kích động đồns bào Khơ me
nhằm phá hoại chính sách đai đoàn kết dàn tộc của Đảng và Nhà nước ta.

1.2. Lịch sử văn hóa truyền thống của dân tộc Khơ me
1.2.1. Khái niệm vê ván hóa truyền thống và bản sắc vãn hóa
Bất kỳ một quốc gia, dân tộc nào cũng đều có một nền văn hóa riêng, nó
ra đời và phát triển gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của dân tộc.
"Văn hóa” bắt nguồn từ tiếng La tinh là "Cuntura" - nghĩa là cày cấy, vun trồng.
Nó phản ánh trình độ phát triển nhất định của một dân tộc, một quốc gia. Xét về

20


cội nguồn, vãn hóa gắn với một dân tộc nhất định, đó chính là văn hóa truyền
thống của dân tộc đó. Các nhà nghiên cứu đều cho rằng, văn hóa truyền thống là
toàn bộ những hiện tượng văn hóa - xã hội bao gồm tiếng nói, chữ viết, vãn học,
nghệ thuật, hệ tư tưởng, phong tục, tập quán, lễ nghi, các thiết chế văn hóa, xã
hội... được bảo tồn qua năm tháng trong đời sống vật chất và tinh thần của các
cộng đồng xã hội (có thể là một dân tộc, một giai cấp hoặc một nhóm người) và
được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nó bao gồm những giá trị vãn
hóa vật thể và văn hóa phi vật thể.
Văn hóa truyền thống mang tính lịch sử - xã hội. Điều kiện lịch sử - xã
hội như thế nào thì dấu ấn vãn hóa truyền thốns cũns như thế ấy. Nói đến vãn
hóa truyền thống là nói đến những nét vãn hóa đặc trưng, điển hình đã đuục
định hình theo thời gian và được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Truyền
thống bao giờ cũng gắn với yếu tố thời gian. Nhưng không phải độ dài của
thời sian là yếu tố duy nhất để nói lên tính chất của truyền thốns: càng không
phải thời sian càng dài thì truyền thống càng cao. Thông thường nói đến
truyền thống là người ta nghĩ ngay đến những hiện tượng văn hóa - xã hội đã
được hình thành từ xa xưa trons lịch sử và tổn tại trong một thời dan khá dài.
Nhưng cũng có khi có những hiện tượns vãn hóa - xã hội xảy ra ít hơn cũng
có thể trở thành truyền thống. Do đó, có truyền thống của một quốc gia, một
dán tộc, một cộng đồng người; cũng có truyền thống của một 2Ìa đình hoặc

một dòng tộc...
Văn hóa truyền thống không chi là những mật tích cực mà còn bao hàm
cả những mặt tiêu cực. Mặt tích cực của văn hóa truyền thống, hay còn gọi là
truyền thống tốt đẹp là những hiên tượng văn hóa - xã hội phản ánh đúng cái
chân, thiện, mỹ, cái anh hùng, sự lao động sáng tạo của dân tôc được thử
thách qua thời gian và không ngừng được nàng cao đáp úng yêu cầu của sự
phát triển xã hội. Còn mặt tiêu cực của truyền thống là những yếu tố phản ánh
nhân sinh quan, thế giới quan lạc hậu, phản khoa học, không phù hợp với thực
tế xã hội hiện tại. Những mặt tích cực của truyền thống hợp lại thành giá trị
của truyền thống. Truyền thống không có giá trị tự thân và không có ý nghĩa

21


đối với quá khứ mà giá trị của ữuyền thống được qui định bởi ý nghĩa xã hội
hiện tại của nó. Do vậy, các yếu tố của truyền thống thường có giá trị không
giống nhau, thậm chí đối lập nhau. Tùy theo điều kiện, hoàn cảnh và chế độ
chính trị - xã hội mà nó mang ý nghĩa tích cực hay tiêu cực. Tính tích cực hay
tiêu cực của truyền thống phần lớn pha thuộc vào thái độ của chú thể đang
khai thác hoặc tiếp nhận truyền thống. Vì vậy, truyền thống sẽ không được
bảo tồn nếu như con người hiện đại không có ý thức tôn trọng, giữ gìn các giá
trị truyền thống. Chúng ta phải biết khai thác giá trị tích cực của truyền thống
để định hướng cho hiện tại và tương lai. Nếu coi thường hoặc phì báng truyền
thống thì có thể phải trả giá đắt mà chúnơ ta không thể lường trước được.
Giá trị tích cực của văn hóa truyền thống là cơ sờ hình thành bán sắc vãn
hóa của dân tộc. Bản sắc văn hóa là sự biểu hiện tập trung nhất, sâu sắc nhất của
bản sắc dân tộc. Bản sắc dân tộc càng phong phú, đa dạng thì bản sắc văn hóa
của dân tộc cũng mang màu sắc phong phú, đa dang bấy nhiêu. Tuy nhiên, bản
sắc vãn hóa không phải hình thành một cách ngẫu nhiên, tự phát. Nó được hình
thành và phát triển như là sản phẩm của hoàn cảnh địa lý, điều kiên kinh tế - xã

hội, sinh hoạt, lối sống của cộng đồng dân tộc, của quá trình sáng tạo ra những
giá trị vãn hóa kết hợp với quá trình giao lưu, tiếp thu có chọn lọc nhũng tinh hoa
văn hóa của các dân tộc khác. Bản sắc vãn hóa là hệ thống những đăc tính bẽn
trong, những sắc thái, nhữna tính chất riêng tạo thành những đặc điểm chính,
những đặc trung nổi bật cùa nển văn hóa. Bản sắc vãn hóa là chứng minh thư của
nền văn hóa dân tộc, để nhằm phân biệt nền vãn hóa của dân tộc này với nền vãn
hóa của dân tộc khác. Bản sắc văn hóa dân tộc là cái đặc sắc, độc đáo riêng có
của dân tộc. Dân tộc nào biết trân trọng bản sắc vãn hóa sẽ giúp cho dân tộc đó
giữ được những giá trị tích cực của vãn hóa truyền thống trong quá trình phát
triển của dân tộc mình. Vì vậy, mỗi dân tộc cần phải biết giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa của dân tộc, đó là trách nhiêm cao cả và là nhiệm vụ vinh quang của
mỗi cá nhân, cộng đổng xã hội và của cả dân tộc.

22


×