Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

LUẬN VĂN: Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường tỉnh Phú Thọ hiện nay pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (783.11 KB, 96 trang )









LUẬN VĂN:

Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
tỉnh Phú Thọ hiện nay








Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta có 54 thành phần dân tộc cùng cư trú. Mỗi dân tộc đều có bản sắc riêng
của mỡnh được kết tinh với hàng ngàn năm văn hiến. Cùng với dũng chảy của thời gian
và những biến động của lịch sử, văn hóa của mỗi dân tộc cũng vận động, biến đổi theo
những quy luật nhất định, vừa liên tục, vừa đứt đoạn, vừa độc lập, vừa kế thừa, vừa có sự
đan xen những yếu tố mới và cũ để làm nên những nét độc đáo rất riêng của mỗi dân tộc
và góp phần tạo nên âm hưởng văn hóa chung của cả cộng đồng người Việt.
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa mọi mặt của đời sống xã hội, đã tạo điều
kiện cho các quốc gia, dân tộc trên thế giới cơ hội để phát triển kinh tế, nâng cao mức


sống và thu nhập, có cơ hội giao lưu và tạo thêm nhiều giá trị văn hóa mới làm giàu thêm
bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Tuy nhiên, bên cạnh những thời cơ, vận hội của sự
phát triển là nguy cơ phân hóa giàu nghèo và sự bất bình đẳng trong hưởng thụ văn hóa.
Hơn nữa, các thế lực thù địch vẫn tiến hành âm mưu diễn biến hòa bình, đặc biệt là trên
mặt trận văn hóa - tư tưởng, chống lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Do vậy,
khẳng định hệ giá trị văn hóa dân tộc đang là vấn đề cấp thiết vừa có tính thời sự vừa lâu
dài đối với đất nước ta. Đây là vấn đề không mới, rất nhiều văn kiện của Đảng, chính
sách của Nhà nước đã đề ra chủ trương, giải pháp cụ thể việc giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa của các dân tộc đặc biệt là vùng văn hóa các dân tộc thiểu số. Tổng kết 5 năm
thực hiện Nghị quyết Trung ương năm, (khóa VIII) Đảng chủ trương: Phải tiếp tục cụ thể
bằng hệ thống các chính sách mạnh, tạo điều kiện cần thiết để văn hóa các dân tộc thiểu
số phát triển trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Trong cộng đồng đa dân tộc, dân tộc Mường chiếm tỷ lệ dân số đông thứ 4 sau các
dân tộc Kinh, Tày, Thái, họ cư trú trên vùng địa bàn đồi núi thấp thuộc các tỉnh Hòa
Bình, Thanh Hóa, Hà Tây Đặc biệt với kiểu địa bàn trung du và miền núi như tỉnh Phú
Thọ, sự phong phú về cảnh quan, môi trường đã tác động rất lớn đến đời sống văn hóa
người Mường ở đây, làm nên một đời sống văn hóa dân gian khá phong phú như lễ hội,
trang phục, thơ, ca, tín ngưỡng đậm tính triết lý nhân sinh. Trước sự tác động và biến
đổi của thế giới, có không ít những giá trị văn hóa truyền thống của người Mường chỉ còn


tồn tại trong ký ức của những người già. Trong rất nhiều nguyên nhân dẫn tới sự mai
một, biến thái, đứt gãy những giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số nói chung, dân tộc
Mường nói riêng có nguyên nhân ở sự nhận thức lệch lạc, quản lý yéu kém của một bộ
phận cán bộ đảng viên; có nguyên nhân nằm trong chính bản thân những con người,
những tầng lớp kế thừa văn hóa của dân tộc ấy Cho nên, việc bồi dưỡng, nâng cao
nhận thức và vai trò lãnh, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân
dân; giáo dục ý thức, tinh thần chủ động giữ gìn, phát huy tinh hoa văn hóa của mỗi tộc
người là hết sức cần thiết.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài: " Nhõn tố chủ quan với việc giữ gỡn,

phỏt huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường tỉnh Phú Thọ hiện nay " làm luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về văn hóa và văn hóa dân tộc thiểu số ở nước ta không phải là vấn đề
mới, từ trước đến nay có khá nhiều công trình nghiên cứu với tầm cỡ, quy mô và khía
cạnh khác nhau.
- Các công trình, bài viết dưới góc độ triết học như: Vũ Thị Kim Dung, Cách tiếp
cận vấn đề văn hóa theo quan điểm triết học Mác, Tạp chí Triết học, số 1/1998; Vũ Đức
Khiển, Văn hóa với tư cách một khái niệm triết học và vấn đề xác định bản sắc văn hóa
dân tộc, Tạp chí Triết học, số 6/2000; Nguyễn Huy Hoàng, Văn hóa trong nhận thức duy
vật lịch sử của Các Mác, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000 và Mấy vấn đề triết học
văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin, Viện Văn hóa, Hà Nội, 2002.
- Các công trình, bài viết về mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển như: Trần Ngọc
Hiên, "Văn hóa và phát triển - từ góc nhìn Việt Nam", Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội,
1993; Phạm Văn Đồng, "Văn hóa và đổi mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994;
Phạm Xuân Nam, " Văn hóa vì sự phát triển", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998
- Các công trình bài viết về vai trò của văn hóa trong nền kinh tế thị trường như: Hồ
Sĩ Vịnh, "Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1999; Đặng Hữu Toàn, "Vai trò của văn hóa trong sự phát triển lâu bền theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Triết học, số 2/1999.


- Các công trình nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc
thiểu số Việt Nam như: Đỗ Huy - Trường Lưu, "Bản sắc dân tộc của văn hóa", Viện Văn
hóa, 1990; Huy Cận, "Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc", Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1994; Nguyễn Từ Chi, "Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người", Nxb Văn hóa
Dân tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 2003; Trần Văn Bính (chủ biên), "Văn hóa
các dân tộc Tây Bắc - thực trạng và những vấn đề đặt ra", Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2004; Phan Hữu Dật, "Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam", Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2004.

Những bài viết và công trình nghiên cứu về văn hóa Mường ở Phú Thọ có liên quan
trực tiếp đến luận văn như: Nguyễn Dương Bình, “Một vài nét về tình hình xã hội vùng
Mường tỉnh Vĩnh Phú trước cách mạng tháng 8”, Dân tộc học, số 4/ 1974; Lê Tượng,
“Những yếu tố văn hóa cổ Việt Mường trên đất Vĩnh Phú”, Dân tộc học, số 3/ 1975;
Nguyễn Ngọc Thanh, Gia đình và hôn nhân của người Mường ở Tỉnh Phú Thọ, Luận án
tiến sỹ khoa học lịch sử, Viện dân tộc học, Hà Nội, 1999; Hà Văn Linh, Tổ chức xã hội
cổ truyền và những biến đổi của nó ở người Mường Thanh Sơn - Phú Thọ, Luận án tiến
sỹ khoa học lịch sử, Viện dân tộc học, Hà Nội, 2005.
Ngoài ra, trong các văn kiện của Đảng cũng nêu rõ vị trí, vai trò và nhiệm vụ của văn
hóa trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Tuy nhiên, chưa có công trình nào
đi sâu nghiên cứu vấn đề: "Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa dân
tộc Mường tỉnh Phú Thọ hiện nay".
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ tính đặc thù của giá trị văn hóa dân tộc Mường, những yêu cầu
cấp thiết của việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc ít người nói chung và dân
tộc Mường nói riêng, luận văn đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của
nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Mường tỉnh
Phú Thọ hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Để đạt mục đích đã nêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:


- Làm rõ quan điểm mác xít về chủ quan; nhân tố chủ quan; văn hóa; bản sắc văn
hóa; bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số.
- Chỉ ra vai trò của nhân tố chủ quan với việc giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc.
- Trình bày những điều kiện nảy sinh và tồn tại của văn hóa Mường; chỉ rõ nét đặc
thù của giá trị văn hóa dân tộc Mường tỉnh Phú Thọ.
- Tìm hiểu thực trạng và những yêu cầu cấp bách của việc giữ gìn, phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc Mường trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
- Nêu một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò nhân tố chủ
quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở Phú Thọ hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Văn hóa là một lĩnh vực hết sức rộng lớn, bao hàm cả văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần; Phú Thọ là tỉnh có hơn 20 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đa dạng các
sắc thái văn hóa ấy, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu, làm rõ vai trò của nhân tố chủ
quan với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Mường tỉnh Phú Thọ trong
giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn chủ yếu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam; các công trình nghiên cứu
của các tác giả trong và ngoài nước đã công bố, có nội dung liên quan tới vấn đề mà luận
văn đề cập.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử để phân tích, lý giải, làm rõ các vấn đề; đồng thời kết hợp nhuần nhuyễn
các phương pháp: Lịch sử và lôgíc; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch nhằm
đạt tới mục đích mà luận văn đã đề ra.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn


Luận văn góp phần điều tra, nghiên cứu những nét đặc thù của văn hóa dân tộc
Mường ở Phú Thọ, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao vai trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Mường ở Phú Thọ hiện nay.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể được sử dụng phục vụ cho công tác văn hóa tư tưởng của tỉnh Phú Thọ
và làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy chuyên ngành: Triết học, Văn hóa ở các

trường chính trị tỉnh hoặc các trường đại học, cao đẳng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
3 chương, 7 tiết.


Chương1
Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc

1.1. Nhân tố chủ quan, điều kiện khách quan và bản sắc văn hóa dân tộc
1.1.1. Khái niệm: “nhân tố chủ quan”, “điều kiện khách quan”
“Nhân tố chủ quan” và “điều kiện khách quan” là những khái niệm được hỡnh
thành và phỏt triển trong quỏ trỡnh nghiờn cứu hoạt động thực tiễn của con người. Đây là
những khái niệm chủ yếu khái quát mối quan hệ giữa hoạt động nhận thức và hoạt động
cải tạo giới tự nhiên của con người. Trong quá trỡnh hoạt động, tác động và cải tạo giới
tự nhiên; con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Do vậy, việc xác
định cái gỡ là ĐKKQ, cái gỡ là NTCQ chỉ mang tớnh chất tương đối, và nhất thiết phải
tỡm hiểu cỏc khỏi niệm liờn quan tới hoạt động của con người, như khái niệm “chủ thể”,
“khách thể”, “chủ quan”, “khách quan”.
* Về khái niệm: “chủ thể”, “khách thể”:


Trong quỏ trỡnh nghiờn cứu, cỏc nhà khoa học đó đưa rất nhiều cách hiểu và định
nghĩa khác nhau về hai phạm trù này:
Có quan điểm cho rằng: “Chủ thể là con người (cá nhân hoặc nhóm) tiến hành hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn” [61, tr.92].
Hoặc: “Chủ thể là con người có ý thức, ý chớ, và đối lập với khách thể bên ngoài”
[62, tr.192].
Con người với tư cách là chủ thể, là con người thực tiễn, con người hành động, với

đặc trưng cơ bản là năng lực hoạt động sáng tạo nhằm cải tạo khách thể (tự nhiên, xó hội)
và chỉ trong quỏ trỡnh nhận thức, cải tạo giới tự nhiờn và cải tạo đời sống xó hội thỡ con
người mới bộc lộ mỡnh với tư cách là chủ thể của lịch sử. Khi nói tới khái niệm “chủ
thể”, V.I.Lênin viết:
“Khái niệm ấy (= con người) là khuynh hướng tự mỡnh thực hiện mỡnh, tự cho
mỡnh, qua bản thõn mỡnh, một tớnh khỏch quan trong thế giới khỏch quan và tự hoàn
thiện (tự thực hiện) mỡnh” [28, tr.288].
Từ các quan niệm đó nờu ở trờn, cú thể hiểu: Chủ thể - đó là con người với những
cấp độ khác nhau (cá nhân, nhóm, giai cấp) đó và đang thực hiện một quá trỡnh hoạt
động nhằm cải tạo khách thể tương ứng.
Với cách hiểu khái niệm “chủ thể” như vậy thỡ chỉ cú thể quan niệm: Khỏch thể là
tất cả những gỡ mà chủ thể hướng vào nhằm nhận thức và cải tạo nó.
Như vậy, không phải tất cả hiện thực khách quan đều là khách thể mà chỉ có những
hiện thực khách quan mà con người hướng tới nhận thức và cải tạo mới trở thành khách
thể; tùy mức độ xác định chủ thể nhận thức, cải tạo thế giới khách quan là ai mới có thể
xác định được khách thể tương ứng. Khách thể có thể là những hiện tượng, quá trỡnh
thuộc giới tự nhiờn, cũng cú thể là những gỡ do con người tạo ra nhờ hoạt động lao động
sản xuất vật chất, là những yếu tố xó hội, những quan hệ kinh tế, quan hệ chớnh trị - xó
hội v.v…
Khách thể và chủ thể có mối quan hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau, mặt này
là tiền đề tương tác của mặt kia, và con người chỉ trở thành chủ thể khi hoạt động tác
động vào thế giới khách quan, biến thế giới khách quan ấy thành khách thể của quá trỡnh


hoạt động thực tiễn của mỡnh. Chủ thể nhận thức và cải tạo một cỏch chủ động sáng tạo
khách thể theo mục đích của mỡnh; nhưng chính khách thể bị tác động lại quy định chủ
thể. Bởi lẽ, khách thể tồn tại độc lập với chủ thể và luôn vận động theo những quy luật vốn
có của nó, chỉ khi nào chủ thể nhận thức, hành động phù hợp với quy luật vận động của
khách thể, khi đó hoạt động của chủ thể mới đem lại hiệu quả tích cực.
* Về khái niệm: “cái chủ quan”, “cái khách quan”:

Đây là hai khái niệm nói lên những thuộc tính chung của chủ thể và khách thể được
bộc lộ trong quá trỡnh hoạt động thực tiễn của con người. Những thuộc tính, tính chất,
yếu tố tồn tại ngoài chủ thể, phụ thuộc vào chủ thể là cái chủ quan; những tính chất, yếu
tố tồn tại ngoài chủ thể, không phụ thuộc vào chủ thể là cái khách quan; nhưng giữa cái
khách quan và cái chủ quan luôn tồn tại mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại và
chuyển húa lẫn nhau. Vỡ vậy, khi núi về khỏi niệm “cỏi chủ quan” cú học giả cho rằng:
“Chủ quan là ý thức của chủ thể” [43, tr.92]. Hoặc: “Chủ quan là những gỡ thuộc về chỉ
đạo hoạt động của chủ thể” [43, tr.192].
Chúng tôi đồng ý kiến với quan điểm thứ 2. Tuy nhiên, khi xem xét toàn bộ hoạt
động của con người và những sản phẩm của hoạt động đó thỡ thấy rằng: chỳng bao giờ
cũng chứa đựng những dấu ấn của cái chủ quan; nhưng không thể coi tất cả những cái
mang dấu ấn chủ quan (nhất là những dấu ấn thuộc những sản phẩm nằm ngoài chủ thể)
là thuộc về cái chủ quan. Hơn nữa, cái chủ quan cũng không đơn thuần chỉ là ý thức như
một số học giả quan niệm, mà cái chủ quan cũn bao gồm cả yếu tố thể lực, yếu tố tinh
thần như: tri thức, tỡnh cảm, ý chớ v.v…của con người, và chính cả bản thân hoạt động
của họ. Như vậy, có thể nói: cỏi chủ quan là tất cả những gỡ thuộc về chủ thể và phụ
thuộc vào chủ thể.
Trong những hoạt động cụ thể, khi chủ thể tác động lên khách thể và biến đổi nó
theo mục đích của mỡnh, không phải lúc nào chủ thể hoạt động cũng dùng tất cả những
năng lực, phẩm chất, yếu tố vốn có của mỡnh, mà cú thể chỉ huy động một phần, một bộ
phận các yếu tố tạo thành cái chủ quan trong quá trỡnh tương tác với khách thể, cái đó
gọi là nhân tố chủ quan.


Nói cách khác, nhõn tố chủ quan là những gỡ thuộc về chủ thể, tham gia trực tiếp vào
quỏ trỡnh hoạt động của chủ thể, cũng như bản thân hoạt động đó.
Do vậy, sẽ là sai lầm nếu đồng nhất nhân tố chủ quan với tất cả các yếu tố tạo thành
cái chủ quan, hoặc đồng nhất nhõn tố chủ quan với ý thức của chủ thể. Vỡ “yếu tố” là
khỏi niệm chỉ cỏc bộ phận cấu thành sự vật hiện tượng, cũn “nhõn tố” là khỏi niệm chỉ
cỏi trực tiếp tham gia vào hoạt động của chủ thể; NTCQ chỉ là một bộ phận của cái chủ

quan được chủ thể huy động sử dụng trực tiếp trong quá trỡnh tỏc động lên khách thể cụ
thể. Cho nên, nếu đồng nhất nhân tố chủ quan với cái chủ quan, hoặc với ý thức của chủ
thể sẽ là khụng đầy đủ và không làm rừ được đặc trưng của nhân tố chủ quan như là
những gỡ thuộc về hoạt động của chủ thể, NTCQ không phải là ý thức núi chung của chủ
thể, mà là ý thức trực tiếp chỉ đạo hoạt động của chủ thể. Ngoài các yếu tố của chủ thể
như năng lực thể chất, ý thức chỉ đạo và định hướng hoạt động thực tiễn, thỡ NTCQ cũn
bao hàm cả bản thân hoạt động đó nữa, nếu thiếu hoạt động của con người thỡ khụng thể
thay đổi hiện thực và không thể trở thành NTCQ. Đề cập đến vấn đề này, C.Mác viết:
“Tư tưởng căn bản không thể thực hiện được gỡ hết. Muốn thực hiện được tư tưởng cần có
những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [35, tr.12].
Khái niệm NTCQ cũng không đồng nhất với khái niệm nhân tố con người. Nhân tố
con người là tất cả những gỡ thuộc về con người (mọi mặt của con người) trong hoạt
động cải tạo thế giới (tự nhiên, xó hội và cả bản thõn con người). NTCQ có phạm vi xem
xét hẹp hơn nhân tố con người, vỡ nú chỉ thể hiện vai trũ của chủ thể trong một hoạt động
xác định.
Cỏc nguyờn lý triết học mỏc xớt chỉ rừ con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh
nhưng đồng thời cũng là chủ thể của hoàn cảnh. Do đó, khi đặt trong mối quan hệ chung
nhất, đối diện với tự nhiên chúng ta có khái niệm con người. Khi đặt con người trong
trạng thái tích cực hoạt động trước một đối tượng cần nhận thức và cải tạo theo mục đích
nhất định, lúc đó có khái niệm chủ thể và đối lập với nó là khái niệm khách thể.
Về phạm trù cái khách quan, cũng có rất nhiều cách hiểu và quan điểm khác nhau,
có ý kiến quy phạm trự khỏch quan về phạm trự vật chất, cú ý kiến cho rằng cỏi khỏch
quan bao hàm cả hiện tượng ý thức…Trờn thực tế, muốn khẳng định cái gỡ là khỏch


quan phải đặt nó trong mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Không thể đồng nhất cái
khách quan với hiện thực khách quan hay thế giới vật chất, vỡ chỉ cú những hiện tượng ý
thức tồn tại bờn ngoài ý thức và ý chớ của chủ thể, bị chủ thể tác động biến đổi, thỡ ý
thức ấy đóng vai trũ là khỏch thể.
Như vậy, cỏi khỏch quan là tất cả những gỡ tồn tại ngoài chủ thể và khụng phụ

thuộc vào ý thức, ý chớ của chủ thể.
Cái khách quan bao gồm cả những yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần. Nhưng trong
hoạt động thực tiễn của chủ thể không phải toàn bộ cái khách quan đều đóng vai trũ là
khỏch thể, mà chỉ cú một bộ phận của cỏi khỏch quan tham gia vào hoạt động của chủ
thể, trở thành khách thể chịu tác động của chủ thể trong một thời điểm, hoàn cảnh nhất
định. Một bộ phận ấy (có thể là những yếu tố vật chất như: môi trường tự nhiên, là quan
hệ chính trị- xó hội, hoặc là yếu tố tinh thần như: ý thức xó hội lạc hậu cần cải tạo…). Đó
chính là điều kiện khách quan.
Khi nói tới khái niệm ĐKKQ, các học giả cũng đưa ra rất nhiều cách tiếp cận khác
nhau như: “Là những gỡ tạo nờn một hoàn cảnh hiện thực…”, “Là một phần của cỏi
khỏch quan…”, nhưng tất cả những quan điểm đó đều thống nhất cơ bản ở một điểm, đó
là: “tồn tại không phụ thuộc vào ý thức, ý chớ của chủ thể và chi phối hoạt động của chủ
thể” [56, tr.12].
Có thể nói: ĐKKQ là tổng thể những mặt, những nhân tố tạo nên hoàn cảnh hiện
thực.Trong đó chủ thể sống và thực hiện mọi hoạt động ở những thời điểm nhất định.
ĐKKQ luôn mang tính cụ thể, bao gồm: những yếu tố vật chất, tinh thần, những
quy luật khách quan, những khả năng khách quan (khả năng tiềm ẩn có thể xảy ra trong
tương lai). Những yếu tố ấy sẽ là những điều kiện cụ thể tạo nên hoàn cảnh, môi trường,
ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của chủ thể tại một thời điểm lịch sử nhất định, nó
quyết định hoạt động của chủ thể, vỡ những hoạt động của chủ thể chỉ được thực hiện
trong những điều kiện nhất định. Việc lựa chọn nắm bắt hoàn cảnh như thế nào sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến sự thành công hay thất bại trong hoạt động thực tiễn của chủ thể.
* Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan:
Thứ nhất, ĐKKQ quy định vai trũ của NTCQ.


Phương pháp luận mác xít luôn khẳng định: ĐKKQ đóng vai trũ quan trọng và quy
định NTCQ. Tính quy định của ĐKKQ đối với NTCQ được thể hiện ở chỗ: trong hoạt động
thực tiễn, những dự định mà con người đặt ra phải dựa trên cơ sở hiện thực khách quan, nếu
chỉ căn cứ vào ý muốn chủ quan, thoỏt ly cơ sở hiện thực thỡ hoạt động của con người sẽ

không thể thành công.
“Thật ra mục đích của con người là do thế giới khách quan sản sinh ra và lấy thế
giới khách quan làm tiền đề” [28, tr.201].
ĐKKQ quy định hoạt động thực tiễn của chủ thể, nó là yếu tố chi phối, quy định
phương pháp, cách thức, phương tiện tác động của chủ thể, mọi hoạt động của chủ thể
phải phù hợp với thực tiễn khách quan.
ĐKKQ quy định sự phát triển của nhân tố khách quan, những phẩm chất, yếu tố
của chủ thể phải tương ứng với ĐKKQ mà trong đó chủ thể hoạt động, khi ĐKKQ
thay đổi thỡ NTCQ cũng phải thay đổi cho phù hợp với ĐKKQ mới.
Thứ hai, NTCQ cú vai trũ tỏc động tích cực đến sự biến đổi của ĐKKQ.
NTCQ là những gỡ thuộc về chủ thể, cho nờn NTCQ tuy bị ĐKKQ quy định nhưng
nó không thụ động hoàn toàn mà có tính tích cực sáng tạo, tính độc lập tương đối so với
ĐKKQ. Vai trũ tớch cực sỏng tạo của NTCQ thể hiện ở chỗ: Trong hoạt động thực tiễn,
chủ thể vận dụng sáng tạo cái chủ quan của mỡnh để tỡm hiểu, nhận thức quy luật vận
động của cái khách quan, khi cả hai tương thích sẽ tạo nên sự chuyển hóa khả năng thành
hiện thực.
Với tư cách là chủ thể hoạt động, con người luôn chủ động lựa chọn những khả
năng tốt nhất, vừa đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của mỡnh vừa khụng đi ngược lại tiến
trỡnh phỏt triển của lịch sử. Cỏc quy luật khỏch quan vận động đan xen nhau, nhưng chủ
thể hoạt động có khả năng dựa trên cơ sở những nhận thức đúng, phù hợp của mỡnh để
điều chỉnh hỡnh thức, trật tự tỏc động của quy luật khách quan, có thể tạo ra những yếu
tố làm xuất hiện những quy luật khách quan mới.
Trong quá trỡnh tỏc động trở lại quy luật khách quan, NTCQ cũng đồng thời tự
nâng cao khả năng nhận thức của mỡnh trong quỏ trỡnh biến đổi thế giới khách quan.
Tuy nhiên, NTCQ có vai trũ to lớn đến đâu, sức sáng tạo đến thế nào thỡ trong việc xem


xột, giải quyết cỏc vấn đề vẫn phải xuất phát từ thực tế khách quan và phải tuân thủ các
nguyên tắc khách quan. Hơn nữa, bản thân chủ thể hoạt động cũng là sản phẩm của thế
giới khách quan, có nguồn gốc từ thế giới khách quan, toàn bộ cuộc sống, sinh hoạt, lao

động, và phát triển của chủ thể đều phản ánh những điều kiện, quy luật của thế giới khách
quan - Mọi sự cố gắng của chủ thể trong quá trỡnh phản ỏnh, nhận thức và cải tạo thế
giới cũng là để đáp ứng một cách tốt nhất những mục đích và nhu cầu sống của chính
mỡnh (cả vật chất lẫn tinh thần).
Nói tóm lại, trong mối quan hệ biện chứng giữa NTCQ và ĐKKQ thỡ ĐKKQ là
tính thứ nhất, quy định NTCQ cả về nội dung, phương hướng và tổ chức hoạt động thực
tiễn. Nhưng NTCQ không bị động trước hoàn cảnh khách quan mà luôn lấy ĐKKQ là
điểm xuất phát, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Phát hiện, nắm bắt
những khả năng khách quan, tạo ra những tiền đề biến khả năng khách quan thành hiện
thực, làm chủ cái khách quan, biến tính tất yếu khách quan thành nội dung hoạt động tự
do sỏng tạo của mỡnh. Tớnh biện chứng trong mối quan hệ giữa NTCQ và ĐKKQ cũn
thể hiện ở chỗ: để đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn thỡ bắt buộc NTCQ
phải vận động, phát triển, tự hoàn thiện những phẩm chất, nâng cao nhận thức, khả năng
vận dụng, tổ chức hoạt động thực tiễn của mỡnh cho phự hợp với những quy luật vốn cú
của thế giới khỏch quan. Bất cứ một sự tựy tiện, chủ quan, duy ý chớ nào cũng sẽ dẫn tới
những hành động vi phạm quy luật khách quan, kỡm hóm sự phỏt triển của tự nhiờn, xó
hội, con người và của chính bản thân chủ thể đang tham gia hoạt động ấy.
Lịch sử xó hội loài người là lịch sử của chính con người. Hành động làm nên lịch sử
đầu tiên của con người, đó là những hoạt động lao động cải tạo tự nhiên để đáp ứng và
thỏa món những nhu cầu tồn tại của mỡnh. Từ hoạt động lao động cải tạo thế giới tự
nhiên đó, mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xó hội loài
người được thiết lập, các quan hệ xó hội của loài người được hỡnh thành (tự nhiờn và
khỏch quan). Cựng với tự nhiên, giống như tự nhiên, xó hội loài người cũng không
ngừng vận động và phát triển theo những quy luật nhất định. Trong quá trỡnh đó, cái
khách quan và cái chủ quan, những ĐKKQ và NTCQ bao giờ cũng tồn tại trong mối
quan hệ thống nhất, biện chứng; trong đó ĐKKQ bao giờ cũng có vai trũ quy định đối với


NTCQ. Thực tiễn lịch sử cho thấy, trong quá trỡnh hoạt động lao động của con người, chỉ
khi nào những quan hệ vật chất cần thiết đó phỏt triển chớn muồi, hoặc ớt ra cũng đang

trong quá trỡnh hỡnh thành, thỡ khi đó NTCQ mới có cơ sở khách quan để biến những
khả năng thành hiện thực, công cuộc cải biến xó hội mới thành cụng.
Khi phõn tớch tỡnh thế cỏch mạng ở Nga năm 1917, so sánh tỡnh hỡnh cỏch mạng
ở Nga khi đó với những tỡnh thế cỏch mạng trước đó cả ở Nga, ở Đức, và tất cả các thời
kỳ cách mạng Phương Tây trước đó. V.I.Lênin đó khẳng định: Cũng là những ĐKKQ
giống như thế, cũng là sự khủng hoảng chính trị của tầng lớp trên cùng, quần chúng nhân
dân bị áp bức nặng nề, cũng là ý thức muốn vựng lờn làm một cuộc cải biến xó hội…
Nhưng các cuộc cách mạng trước đó không thể nổ ra là vỡ thiếu đi sự chín muồi của
NTCQ, của giai cấp cách mạng, tức là thiếu đi khả năng phát động, tổ chức, tập hợp quần
chúng nhân dân tạo sức mạnh tổng hợp của các giai cấp bị trị trong cuộc đấu tranh cách
mạng ấy [27, tr. 268]. Như vậy, theo V.I.Lênin, nếu không xuất hiện các tỡnh thế cỏch
mạng (ĐKKQ), hoặc nếu không có sự biến đổi chủ quan của giai cấp cách mạng thỡ tỡnh
thế cỏch mạng (ĐKKQ) chỉ là khả năng khách quan, mà không thể là hiện thực.
Trên thực tế, không phải lúc nào các ĐKKQ cũng tự phát (tự nó) hỡnh thành, mà cú
lỳc cỏc ĐKKQ cũng phải được xúc tiến, nảy sinh thông qua các hoạt động tích cực của
con người. Sự năng động chủ quan của con người phải được đo bằng hiệu quả vật chất
chứ khụng chỉ là trong lý luận hay tư duy.
Một vấn đề thực tiễn quan trọng trong nghiên cứu mối quan hệ giữa NTCQ và
ĐKKQ là ở chỗ: phát huy vai trũ NTCQ khụng thể tỏch rời những ĐKKQ đang có,
không thể hoạt động một cách tùy tiện trước quy luật của TN, của XH. Đó phải là sự biến
đổi không ngừng của bản thân chủ thể (từ năng lực, phẩm chất, đạo đức…đến khả năng
thiết kế, tổ chức hoạt động thực tiễn…). Khi đó mới thúc đẩy được kinh tế – xó hội phỏt
triển, mới cải tạo thế giới khỏch quan thành cụng, mới ngày một nâng cao hơn chất lượng
cuộc sống cho con người cả về vật chất lẫn tinh thần, con người (chủ thể hành động)
ngày càng hoàn thiện bản thân mỡnh, trang bị cho mỡnh đầy đủ các điều kiện để vươn tới
cuộc sống đậm chất người hơn.
1.1.2. Văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc


Văn hóa - Cho đến nay, không phải tất cả mọi người đó đồng ý với nhau về định

nghĩa. Từ cổ chí kim, trong lịch sử loài người, xuất phát từ cách tiếp cận và nhận thức
khác nhau mà hỡnh thành cỏc định nghĩa về văn hóa. Năm 1952, các nhà dân tộc học
người Mỹ đó thống kờ được hơn 300 định nghĩa mà các tác giả thuộc nhiều nước khác
nhau đó phỏt biểu về văn hóa, các định nghĩa ấy đó khai thỏc vấn đề văn hóa dưới từng
góc độ, từng mặt khác nhau, nhưng ở khía cạnh nào đó cũng có sự thống nhất hoặc bổ
sung cho nhau trong sự nhận thức về văn hóa.
C.Mác và Ph.Ăngghen đó nhỡn nhận văn hóa như là một sản phẩm của lịch sử, là
sản phẩm của quá trỡnh lao động cải tạo tự nhiên của các thế hệ người. Do vậy, trỡnh độ
phát triển của văn hóa phụ thuộc vào trỡnh độ nhận thức và sức sáng tạo của con người
trong quá trỡnh hoạt động thực tiễn của họ. Nếu tách văn hóa ra khỏi đời sống của con
người và xó hội loài người thỡ văn hóa chẳng cũn ý nghĩa gỡ cả. C.Mỏc cho rằng: “con
người sản xuất” là một “thực thể song trựng” thống nhất giữa “cỏi tự nhiờn và cỏi xó
hội”. Trong đó, yếu tố tự nhiên được cấu tạo như một sinh vật và nó vận động theo quy
luật sinh học [35, tr.9]. Nhưng điểm khác biệt giữa con người với động vật là ở chỗ con
người mang bản chất xó hội. Bản chất của con người thể hiện ra trong mối quan hệ giữa
mỗi người với người khác, giữa mỗi người với cộng đồng xó hội và thể hiện trong kết
cấu xó hội hiện thực, ở một khụng gian, thời gian xỏc định. Trong luận cương về
Phơbách, C.Mác viết: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hũa
những quan hệ xó hội” [36, tr.11].
Con người được sinh ra và sống trong giới tự nhiên. Nhưng con người không bị hũa
tan hay lệ thuộc vào giới tự nhiờn mà ngày càng tỏch mỡnh ra khỏi giới tự nhiờn và rồi
quay lại giới tự nhiờn, cải tạo nú, làm cho nú trở thành giới tự nhiờn thứ hai, giới tự
nhiờn của chớnh mỡnh, đồng thời qua đó cải biến chính bản thân mỡnh - Đó chính là văn
hóa. C.Mác viết:
Cố nhiên, con vật cũng sản xuất…Nhưng súc vật sản xuất cái mà bản
thân nó hoặc con nó trực tiếp cần đến; nó sản xuất một cách phiến diện, trong
khi con người sản xuất một cách toàn diện; con vật chỉ sản xuất vỡ bị chi phối
bởi nhu cầu thể xỏc trực tiếp, cũn con người sản xuất ngay cả khi không bị nhu



cầu thể xác ràng buộc, và chỉ khi không bị nhu cầu đó ràng buộc thỡ con người
mới sản xuất theo ý nghĩa chân chính của từ đó; Con vật chỉ tái sản xuất ra bản
thân nó, cũn con người thỡ tỏi sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiờn [37, tr.137].
Con người là một thực thể có ý thức, sống, hoạt động trên cơ sở hiểu rừ bản thõn,
hiểu rừ đối tượng định tác động, từ đó tự chịu trách nhiệm về mục tiêu, thái độ, hành vi,
phương hướng tác động đến đối tượng. Sự tự ý thức của con người được thể hiện rừ nột
trong đời sống tinh thần, trong sáng tạo nghệ thuật, họ sản xuất và xây dựng “theo các
quy luật cái đẹp” [38, tr.137], điều đó thể hiện rừ đầu óc chiến lược, năng lực phân tích,
tổng kết, dự báo, gắn với tầm nhỡn và nhón quan văn hóa của chủ thể hành động.
Trong thế giới tự nhiên chỉ có duy nhất con người sống và hoạt động với tư cách là
chủ thể của bản thân mỡnh, làm chủ giới tự nhiờn, hũa vào giới tự nhiờn nguyờn sơ, để
tạo nên một “thiên nhiên thứ hai” nhằm thỏa món những nhu cầu, ham muốn chinh phục
tự nhiờn, xó hội …của bản thõn con người - Đó là văn hóa. C.Mác cho rằng, xét đến
cùng, văn hóa có nguồn gốc từ lao động. Bởi lẽ, mọi hoạt động sáng tạo của con người
nhằm cải biến tự nhiên và xó hội đều bắt đầu từ lao động. Chính lao động đó sỏng tạo ra
con người và xó hội loài người, làm cho con người ngày càng thoát ra khỏi bản năng
động vật, tiến dần đến trỡnh độ trưởng thành về nhân cách, trỡnh độ trưởng thành về văn
hóa của mỗi cá nhân.
Trong quỏ trỡnh lao động, con người đó in dấu mỡnh vào trong từng khõu, từng yếu
tố, từng mặt, từng bộ phận…của thành quả lao động, làm cho tự nhiên tự hiện hỡnh trong
hoạt động của con người.
C.Mác viết: “…Bằng thực tiễn, bằng con đường cách mạng; họ sẽ làm cho “tồn tại”
của mỡnh phự hợp với bản chất của mỡnh” [38, tr.507].
Như vậy, theo C.Mác, văn hóa được hỡnh thành và phỏt triển trờn cơ sở sự hỡnh
thành và phỏt triển con người. Thước đo của sự tiến bộ và phát triển này chính là mức độ
hỡnh thành và phỏt triển bản chất người trong quá trỡnh con người chinh phục và biến
đổi tự nhiên, trong mối quan hệ giữa con người với cộng đồng, mà bao trùm là quan hệ
giữa đời sống tinh thần và không gian sống vật chất của con người và của xó hội loài
người. Nếu môi trường đầu tiên cho con người sự hỡnh thành và phỏt triển, quyết định sự



tồn tại của con người là sản xuất vật chất, thỡ mụi trường thứ hai cho con người bộc lộ,
phát huy những năng lực và bản chất người trong các hoạt động sống, đó chính là sản
xuất văn hóa.
Quan niệm của V.I.Lênin về văn hóa khá rộng và bao quát. Từ cách tiếp cận hỡnh
thỏi kinh tế - xó hội, V.I.Lênin cho rằng: Sự phát triển của văn hóa gắn liền với sự phát
triển của các hỡnh thỏi kinh tế - xó hội, mỗi một hỡnh thỏi kinh tế - xó hội cú một nền
văn hóa tinh thần đặc trưng (như một giá trị lịch sử), khi hỡnh thỏi kinh tế - xó hội thay
đổi, thỡ nền văn hóa tương ứng với nó cũng có sự thay đổi nhất định. Đây không có
nghĩa là sự đứt đoạn hay đoạn tuyệt với các giá trị văn hóa truyền thống, mà trong quá
trỡnh chuyển húa, nền văn hóa mới luôn kế thừa những di sản, thành tựu của nền văn hóa
trước đó, đồng thời bổ sung những yếu tố mới phù hợp với những đặc điểm và quan hệ
của hỡnh thỏi kinh tế – xó hội mới. V.I.Lờnin khẳng định: Ở đâu có hoạt động của con
người thỡ ở đó có văn hóa và văn hóa không chỉ dừng lại ở văn hóa tinh thần mà cũn bao
hàm cả văn hóa vật chất. Người coi văn hóa là phương tiện quan trọng nhất trong tất cả
các loại hỡnh hoạt động của con người và là kết quả của quá trỡnh hoạt động đó. Vỡ vậy,
trong quỏ trỡnh xõy dựng nền văn hóa mới, V.I.Lênin nhấn mạnh nguyên tắc tính đảng,
tính nhân dân, tính dân tộc, tính nhân loại trong văn hóa, cách mạng văn hóa, trước hết là
cách mạng trong trí tuệ, trong ý thức của quần chỳng. Người khẳng định: hoạt động văn
hóa và sản phẩm văn hóa phải là “của” nhân dân, chứ không phải “cho” nhân dân. Người
viết: “Chủ nghĩa xó hội được xây dựng không phải bằng mệnh lệnh từ trên. Tinh thần của
nó xa lạ với bộ máy nhà nước quan liêu; Chủ nghĩa xó hội sinh động, sáng tạo, tức là
sáng tạo của chính quần chúng” [26, tr.464].
Sáng kiến của Người đó khơi dậy tiềm năng, tính chủ động sáng tạo của quần chúng
nhân dân, mở ra hướng đi và nhiệm vụ mới cho cách mạng vô sản - cách mạng văn hóa.
Đó là cuộc cách mạng giải phóng triệt để con người và xó hội loài người khỏi những áp
bức bất công cả trong lao động cũng như trong mọi hoạt động sáng tạo của họ.
Theo V.I. Lênin, muốn xây dựng một nền văn hóa mới, nền văn hóa vô sản có khả
năng phát triển toàn diện năng lực và bản chất người, cần phải kế thừa có phê phán các



giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại, đồng thời phát triển nó lên một tầm cao mới,
mang đậm chất liệu văn hóa và bản chất người. Người nói rằng:
Nền văn hóa vô sản không phải từ trên trời rơi xuống, nó không phải là
do những người tự cho mỡnh là chuyờn gia về văn hóa vô sản bịa đặt ra… văn
hóa vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của vốn kiến thức mà loài người
đó tạo ra dưới ách áp bức của xó hội Tư bản, địa chủ và của xó hội quan liờu
[26, tr.402].
Người cũng chỉ ra rằng, chỉ có xây dựng thành công CNXH, CNCS thỡ con người
mới có điều kiện thể hiện đầy đủ năng lực sáng tạo, trỡnh độ làm chủ của mỡnh trước tự
nhiên, xó hội và ngay cả trước bản thân mỡnh. Từ đó, con người và xó hội loài người mới
có điều kiện xây dựng và phát triển sự công bằng, bỡnh đẳng, tự do cho bản thân, các tiêu
chí: chân, thiện, mỹ…mới được xác lập và hoàn thiện, hoạt động sáng tạo của con người
mới có đầy đủ điều kiện đạt tới trỡnh độ nhân văn đích thực.
Cũng như các bậc tiền bối của chủ nghĩa Mác, quan niệm về văn hóa của nhà văn
hóa lớn Hồ Chí Minh cũng rất rộng; xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, từ truyền thống văn
hiến ngàn đời của dân tộc Việt Nam, với tầm nhỡn bao quỏt, Người đưa ra khái niệm về
văn hóa như sau:
Vỡ lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và
các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện
của nó mà loài người đó sản sinh ra nhằm thớch ứng những nhu cầu đời sống
và đũi hỏi của sự sinh tồn [39, tr.431].
Quan điểm trên của Người đó khỏi quỏt được nội dung rộng nhất của phạm trù văn
hóa. Chỉ ra văn hóa không chỉ bao hàm các hoạt động tinh thần của con người mà cũn
bao hàm trong đó cả những hoạt động vật chất. Người cũng chỉ ra nguồn gốc sâu xa của
văn hóa đó chính là nhu cầu sinh tồn của con người, với tư cách là chủ thể hoạt động của
đời sống xó hội. Nú biểu hiện sự thống nhất của yếu tố tự nhiờn, yếu tố xó hội trong con



người, biểu hiện khả năng và sức sáng tạo của con người. Nghĩa văn hóa mà nhà văn hóa
lớn Hồ Chí Minh đề cập được trải rộng trên cả hai lĩnh vực văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần, nhưng việc phân định hai lĩnh vực văn hóa như trên chỉ có tính chất tương đối,
vỡ trờn thực tế mỗi kết quả của hoạt động lao động của con người đều bao hàm trong đó
cả hai giá trị vật chất và tinh thần.
Là người anh hùng giải phóng dân tộc, là Danh nhân văn hóa thế giới. Trong hoạt
động văn hóa Hồ Chí Minh rất chú ý đến con người. Trong hành động cách mạng cũng
như trong đối nhân xử thế Người luôn hết lũng hết sức phục vụ nhõn dõn, yờu kớnh nhõn
dõn, tụn trọng quyền làm chủ của nhõn dõn, Người biến tỡnh cảm đó thành phương châm
sống của chính mỡnh một cỏch rất tự nhiờn, ở mọi lỳc, mọi nơi. Khi cũn hoạt động ở
Pháp người đó kịch liệt lờn ỏn chớnh sỏch ngu dõn của chủ nghĩa thực dõn đối với nhân
dân các nước thuộc địa; để thực hiện mong muốn của mỡnh, ngay sau khi nước nhà giành
được độc lập, Người đó chủ trương và thực hiện đồng thời chiến dịch chống giặc đói và
chiến dịch chống giặc dốt. Người cho rằng: văn hóa là tinh hoa của dân tộc, văn hóa phải
góp phần khẳng định vị thế của dân tộc và một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Cho nên:
“Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc.
Đồng thời phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những
cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất
dân tộc, khoa học và đại chúng” [40, tr.173].
Quan điểm coi trọng truyền thống văn hóa dân tộc, giữ gỡn những tinh hoa, những
yếu tố tớch cực trong kho tàng văn hóa của cha ông cũng nói rừ quan điểm bảo tồn bản
sắc văn hóa của Danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh; Những điều mà Người nói, Người viết
rất giản dị, mộc mạc, nhưng mang ý nghĩa giỏo dục và nhõn văn sâu sắc: cái gỡ cũ mà
xấu thỡ phải bỏ…cỏi gỡ cũ mà khụng xấu, nhưng phiền phức thỡ phải sửa đổi lại cho
hợp lý…cái gỡ cũ mà tốt, thỡ phải phỏt triển thờm…Người cũng nhấn mạnh nguyên tắc
kế thừa và phát triển trong quan điểm về bảo tồn văn hóa; văn hóa phải thoát khỏi mọi
biểu hiện kỳ thị chủng tộc, tránh xu hướng độc tôn, tránh phục cổ một cách máy móc, kế
thừa phải đi đôi với sự tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại. Đồng thời,

trong quá trỡnh giao lưu quốc tế, đũi hỏi mỗi quốc gia phải nghiờn cứu kỹ, toàn diện văn


hóa của các dân tộc khác, học lấy những gỡ tốt đẹp, làm giàu hơn cho văn hóa của chính
mỡnh, cú như thế văn hóa Việt Nam mới thật có tinh thần thuần túy Việt Nam, mới đủ
sức mạnh “soi đường cho quốc dân đi”.
Hồ Chí Minh đó để lại cho chúng ta một di sản tư tưởng vô cùng to lớn trong nhiều
lĩnh vực, mà văn hóa là một trong những lĩnh vực ấy. Những quan điểm của Người về
văn hóa, về giữ gỡn, bảo tồn văn hóa dân tộc đó trở thành phương châm hành động của
Đảng, của Nhà nước, của Nhân dân ta, đặc biệt là các nhà văn hóa.
Thấm nhuần lý luận Mỏc – Lờnin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Đảng và Nhà nước ta đó
cú sự đổi mới nhận thức về văn hóa trên mọi phương diện. Nghị quyết bốn Ban chấp
hành Trung ương Đảng (khóa VII); và đặc biệt, đến nghị quyết Trung ương năm (khóa
VIII) đó đề cập đến toàn bộ các vấn đề văn hóa liên quan đến quốc tế dân sinh, đến xây
dựng đời sống tinh thần cho con người. Trong năm quan điểm chỉ đạo cơ bản của nghị
quyết, quan điểm thứ nhất đó khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xó hội, vừa
là mục tiờu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xó hội” [16, tr.55], cho thấy:
chớnh sỏch kinh tế trong văn hóa mà Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII) đó đề cập
nhằm mục đích gắn văn hóa với hoạt động kinh tế, khai thác các tiềm năng kinh tế hỗ trợ
cho các hoạt động phát triển văn hóa và đồng thời cũng đảm bảo được các yêu cầu về
chính trị, tư tưởng của hoạt động văn hóa, giữ gỡn bản sắc văn hóa dân tộc. Khi đề cập
đến vấn đề “bản sắc văn hóa dân tộc”, Đảng ta khẳng định:
Bản sắc văn hóa dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được hun đúc nên qua lịch sử hàng ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lũng yờu nước nồng nàn, ý chớ tự
cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đỡnh
- làng xó - Tổ quốc; lũng nhõn ỏi, khoan dung, trọng nghĩa tỡnh, đạo lý, đức
tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong
lối sống… bản sắc văn hóa cũn đậm nét cả trong các hỡnh thức biểu hiện mang
tớnh dõn tộc độc đáo [16, tr.56].

Kế thừa những quan điểm nêu trên, có thể khái quát về văn hóa và bản sắc văn hóa
dân tộc như sau: Văn hóa là sự phản ánh tổng thể những năng lực bản chất người trong


tất cả các dạng hoạt động của họ, là tổng thể các hệ thống giá trị (cả giá trị vật chất lẫn
giá trị tinh thần) do con người sáng tạo ra trong quá trỡnh hoạt động thực tiễn lịch sử xó
hội của mỡnh.
Với cách hiểu văn hóa như vậy, chúng ta có thể thấy: Văn hóa là một hệ thống tổng
thể quy định đời sống của một dân tộc, nó gắn với các biểu hiện phương thức tồn tại
người, là sự thể hiện đầy đủ bản chất của con người trong tất cả mọi dạng hoạt động, bao
gồm hoạt động thực tiễn, hoạt động nhận thức và hoạt động giao tiếp v.v Hệ thống này
bao gồm toàn bộ những gỡ thuộc về tư duy, tín ngưỡng, phong tục tập quán…, những gỡ
thuộc về cơ tầng xó hội như hôn nhân, gia đỡnh…, những gỡ thuộc về mụi trường sinh
thái, đảm bảo cho cuộc sống, sự tồn tại và phát triển của một dân tộc. Điều đó cũng có
nghĩa tất cả những yếu tố có liên quan đến con người với tư cách là con người cá nhân,
con người xó hội, liờn quan đến mọi cách thức tồn tại của con người và cộng đồng người
đều liên quan đến văn hóa - Văn hóa chính là sự phát triển, là sự thể hiện lực lượng vật
chất, năng lực tinh thần của con người trong các lĩnh vực sản xuất vật chất, sản xuất tinh
thần. Tuy nhiên, không thể phân chia văn hóa một cách rạch rũi thành “văn hóa vật chất”
hay “văn hóa tinh thần”. Bởi vỡ, cỏi gọi là “văn hóa vật chất” thực chất chỉ là sự “vật
chất hóa” các giá trị tinh thần, bản thân các giá trị tinh thần cũng hiếm khi tồn tại dưới
dạng tinh thần thuần túy, mà nó thường được “vật thể hóa” trong các dạng tồn tại của vật
chất. Ngay cả các giá trị tinh thần tồn tại dưới dạng phi vật thể nhưng vẫn mang tính vật
chất khách quan như văn hóa trong các lĩnh vực đạo đức, giao tiếp, ứng xử, lối sống,
phong tục, tập quán… khi tiếp cận vấn đề văn hóa cần phải xét văn hóa dưới dạng cấu
trúc hoàn chỉnh và các chức năng tương ứng với cấu trúc ấy, trong đó chức năng vận
hành đóng vai trũ quyết định. Trong văn hóa: chức năng là cơ chế vận hành của cấu trúc,
nếu không có chức năng thỡ cấu trỳc khụng vận hành, nếu cấu trúc văn hóa có bị phá hủy
hay mai một vỡ nguyờn nhõn nào đó nhưng chức năng vận hành vẫn cũn thỡ cấu trỳc sẽ
được phục hồi và vấn đề chỉ là thời gian.

Tóm lại, văn hóa gắn với toàn bộ hoạt động sống của con người, là “thiên nhiên thứ
hai” với tư cách là sản phẩm mang tính tộc loại của con người. Văn hóa, về bản chất
thường hướng tới mục tiêu “nhân đạo hóa” con người, hướng tới sự phát triển và giải


phóng những năng lực bản chất của con người, nhằm phát triển toàn diện con người,
hoàn thiện xó hội loài người. Cho nên, trong quá trỡnh phỏt triển của lịch sử, bờn cạnh sự
hội nhập, cố gắng phấn đấu để có thể ngang bằng nhau về kinh tế, mức sống, kỹ thuật,
văn minh thỡ vấn đề giữ gỡn, tụn vinh và phỏt huy những tinh hoa văn hóa sẽ làm nên sự
khác biệt, sự độc đáo giữa các dân tộc về lối sống, phương thức sống và giá trị cuộc sống.
Vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc được rất nhiều quốc gia trên thể giới quan tâm (đặc
biệt là các nước đang phát triển). Trong “thập kỷ thế giới văn hóa phát triển” (1988 –
1997) UNESCO ghi rừ: "Mối quan tõm lớn của những xó hội đương thời là việc giữ gỡn
những nột độc đáo trong bản sắc văn hóa của dân tộc mỡnh và ngăn chặn sự sói mũn
những giỏ trị văn hóa do sự biến đổi của thị hiếu, lối sống, ảnh hưởng của nước ngoài"
[57, tr.79].
Văn hóa do con người sáng tạo ra, nhưng văn hóa không mất đi cùng với thế hệ
người tạo ra nó, mà văn hóa tồn tại trong những lớp trầm tích các di sản, được bổ sung
những cái tiên tiến, tạo nên dấu ấn riêng biệt cho mỗi dân tộc, đó chính là bản sắc văn
hóa dân tộc.
Có thể nói: Bản sắc văn hóa dân tộc là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần
của dân tộc, là những nét độc đáo rất riêng không hề trộn lẫn của dân tộc này với dân
tộc khác.
Đối với mỗi dân tộc, văn hóa là căn cước, là chứng chỉ, nú chỉ rừ anh là ai, thiếu nú
anh khụng tồn tại như một giá trị. Bản sắc dân tộc bao gồm cả hai mặt: Một mặt, nú là cỏi
cốt lừi bờn trong, cỏi sức mạnh tiềm tàng, bền vững, nú chi phối tư tưởng, hành vi của
dân tộc. Mặt khác, nó là biểu hiện ra bên ngoài thành những phong tục, tập quán trong sinh
hoạt, thường được gọi là hỡnh thức, màu sắc, hay sắc thỏi dõn tộc. Về mặt lịch sử, cỏi “tự
nhiờn thứ hai”, cỏi tự nhiờn rất người, hay văn hóa không phải được tạo ra một lần và tồn tại
mói mói, mà ở cỏc cộng đồng người khác nhau, không gian và phương thức sống khác nhau

thỡ văn hóa sẽ mang những diện mạo khác nhau (đó là bản sắc).
Bản sắc văn hóa dân tộc là hệ giá trị các di sản văn hóa, là những kinh nghiệm
được con người tích lũy trong quá trỡnh thớch ứng với tự nhiên, với môi trường mà họ
đang sinh sống; là những chuẩn mực trong ứng xử giữa cá nhân với nhau, giữa cá nhân


với cộng đồng, giữa cộng đồng này với cộng đồng khác. Đó là những thói quen trong nếp
nghĩ, là những tri thức đó tớch lũy được, là biểu tượng, là niềm tin trong thế giới tinh
thần…được trải nghiệm trong lịch sử, được chuyển giao một cách rất tự nhiên giữa các
thế hệ người (trong hệ thống cấu trúc tạo thành bản sắc văn hóa dân tộc không ngoại trừ
văn hóa các dân tộc thiểu số - văn hóa tộc người).
Văn hóa dân tộc thiểu số là tổng thể các yếu tố: Tiếng nói, chữ viết, lối sống, phong
cách sống, cách ứng xử với môi trường tự nhiên; các mối quan hệ xó hội, cỏc sắc thỏi
tõm lý, tỡnh cảm, những tập quỏn trong sinh hoạt đời thường, trong phong tục, lễ nghi,
tín ngưỡng; trong chu kỳ sống của đời người, trong quan niệm về vũ trụ nhân
sinh…Những yếu tố này được hỡnh thành trong lịch sử, nú cú tớnh đặc thù, đặc trưng,
bền vững và ổn định, được chuyển giao và phát triển không ngừng từ thế hệ này qua thế
hệ khác, được hoàn thiện dần cùng với sự phát triển của tộc người [9, tr.39].
Nói cách khác: Văn hóa tộc người là tổng thể những giá trị văn hóa vật chất và tinh
thần của một dân tộc - tộc người cụ thể, được hỡnh thành và phỏt triển cựng với quỏ
trỡnh phát triển tộc người, trong quan hệ giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa các dân
tộc khác, góp phần làm phong phú, đa dạng nền văn hóa của cả cộng đồng.
Trong quỏ trỡnh giao lưu văn hóa, những yếu tố đặc trưng cốt lừi của mỗi dõn tộc
vẫn được giữ lại, duy trỡ và phỏt huy, nú làm nờn những sắc thỏi văn hóa độc đáo không
trộn lẫn với dân tộc khác. Trong thực tiễn, ý thức tộc người được nảy sinh từ văn hóa tộc
người, nếu văn hóa tộc người bị mai một thỡ ý thức tộc người đó cũng sẽ mất dần, bản
thân tộc người cũng sẽ tàn lụi và thậm chớ khụng cũn cả tờn gọi; núi cỏch khỏc, nếu dõn
tộc nào tự đánh mất những sắc thái văn hóa mang tính bản sắc thỡ cũng chớnh là đánh
mất mỡnh. Để bảo tồn và phát triển văn hóa tộc người không chỉ nói tới các yếu tố cụ thể
của văn hóa dân tộc đó mà cũn phải chỳ ý tới những con người, chủ thể sáng tạo ra nền

văn hóa ấy; tức là, song hành giữa yếu tố văn hóa cụ thể cần bảo tồn, bảo vệ và những
con người cụ thể đó tạo ra sắc thỏi văn hóa của họ.
1.2. Vai trò nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc


1.2.1. Những điều kiện khách quan tác động đến vai trũ giữ gỡn, phỏt huy bản sắc
văn hóa dân tộc của nhân tố chủ quan trong giai đoạn hiện nay
Mỗi nền văn hóa đều là sản phẩm của một cộng đồng người, trong mối quan hệ giữa
con người với môi trường tự nhiên, môi trường xó hội; trong cỏc mối quan hệ ấy con
người đó sỏng tạo ra cỏc giỏ trị văn hóa, các hệ thống chuẩn mực: Chân, thiện, mỹ và các
quan hệ nhân văn. Chính vỡ thế, mụi trường sống, hoàn cảnh hiện thực mà chủ thể sáng
tạo văn hóa đang sống và hoạt động (ĐKKQ) là yếu tố quy định sự hỡnh thành cỏc giỏ trị
văn hóa, đến quá trỡnh bảo tồn, phỏt huy cỏc giỏ trị văn hóa đó. Khi nói đến văn hóa là
nói đến giá trị, nhưng giá trị văn hóa không tồn tại một cách đơn lẻ, nhất thời, mà được
tập hợp trong một môi trường nhất định, cụ thể, sinh động, với những con người, những
chủ thể sáng tạo, giữ gỡn, phỏt huy cỏc giỏ trị văn hóa đó.
Triết học Mỏc – Lờnin chỉ rừ, trong mối quan hệ giữa mụi trường, hoàn cảnh và con
người, giữa ĐKKQ và NTCQ… thỡ mụi trường hoàn cảnh, hay ĐKKQ giữ vị trí chi phối
chủ yếu đến mọi hoạt động của chủ thể, quyết định vai trũ của NTCQ. Quy luật hỡnh
thành và phỏt triển văn hóa thông qua mối tương quan giữa văn hóa với các phương diện
khác của đời sống xó hội chớnh là sự khẳng định vai trũ của con người trong quá trỡnh
chắt lọc những tinh hoa văn hóa tạo nên sự phong phú cho đời sống vật chất và tinh thần
của mỡnh. Những mặt, những nhõn tố (mang tớnh cụ thể) tạo nờn hoàn cảnh hiện thực
(cú tớnh thời điểm) ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của con người, đến sự sáng tạo, giữ
gỡn và phỏt triển văn hóa như: yếu tố kinh tế, yếu tố chính trị - xó hội, xu hướng biến đổi
đạo đức, lối sống và nhu cầu hưởng thụ văn hóa
Thứ nhất, những tác động của môi trường kinh tế.
Văn hóa và môi trường kinh tế là những phương diện khác nhau của đời sống xó
hội, nhưng giữa chúng tồn tại mối quan hệ biện chứng; trong mối quan hệ đó, cơ sở kinh

tế sẽ quyết định nội dung, tích chất, hỡnh thức biểu hiện của văn hóa.
Đánh giá về vấn đề này Ph. Ăngghen từng nói: Sự phát triển về chính trị, pháp luật,
triết học, tôn giáo, văn hóa và nghệ thuật đều dựa vào phát triển kinh tế, nhưng tất cả các
lĩnh vực đó cũng ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế. Cách tiếp cận văn
hóa dưới góc độ kinh tế chính trị học của C.Mác và Ph.Ăngghen đó chỉ rừ nguồn gốc


phỏt sinh của văn hóa là từ cơ sở kinh tế, từ một nền kinh tế nhất định, nền kinh tế như
thế nào sẽ sản sinh và quy định bộ mặt tinh thần, sắc thái văn hóa của xó hội như thế ấy.
Nói về điều này, Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII) Đảng cộng sản Việt Nam viết:
Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế.
Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xó hội trờn
mọi phương diện chớnh trị, kinh tế, xó hội, luật phỏp, kỷ cương…biến thành nguồn
lực nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển [16, tr.55].
Trong thời đại ngày nay, trước tác động của quốc tế hóa kinh tế, văn hóa và bản sắc
văn hóa dân tộc chắc chắn sẽ có những biến đổi.
Một mặt, về kinh tế, khi hội nhập quốc tế sẽ đem lại những ý nghĩa về hạnh phúc,
về sự tiến bộ xó hội đích thực cho nhân loại, nó đó trực tiếp thỳc đẩy quá trỡnh phõn
cụng lao động và hợp tác quốc tế, đẩy nhanh sự chuyên môn hóa trong sản xuất của các
quốc gia và trong các quốc gia. Làm cho nền kinh tế mỗi nước không chỉ gói gọn trong
phạm vi quốc gia thuần túy. Các vấn đề liên quan đến đời sống con người như: nhu cầu
ăn, uống, lao động, thông tin…được đáp ứng trên phạm vi toàn cầu, chất lượng cuộc sống
của người dân, sự thịnh vượng về kinh tế của các quốc gia được nâng cao rừ rệt, mối
quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong văn hóa được khẳng định. Sự tiếp thu khoa
học và công nghệ hiện đại đó tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá, lưu
giữ, phát triển những giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc, tạo cơ hội giao lưu, tỡm hiểu,
tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, làm giàu thêm những giá trị văn hóa
truyền thống.
Mặt khác, khi hội nhập kinh tế quốc tế cũng có thể hướng con người đến lối sống
thực dụng, cá nhân, ích kỷ, mê đắm lợi ích vật chất và xu hướng làm giàu không lành

mạnh…Điều này dẫn tới phân hóa giàu nghèo, suy thoái đạo đức cá nhân và gia đỡnh.
Một số người do kiếm được đồng tiền một cách dễ dàng, phi pháp nên có lối sống trác
táng, góp phần làm tăng các tệ nạn xó hội, súi mũn văn hóa truyền thống. Hơn nữa, trong
quá trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế, một số cỏc quốc gia kộm phỏt triển bị phụ thuộc vào
cỏc nước giàu, dẫn tới nguy cơ bị đồng hóa, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, làm suy
giảm sức mạnh dân tộc và có thể dẫn đến mất chủ quyền quốc gia. Văn hóa các dân tộc


thiểu số vùng cao cũng bị tác động và ảnh hưởng tương tự: Điện khí hóa toàn quốc đó
làm cho cuộc sống mọi mặt của đồng bào được nâng lên rừ rệt, nhưng cũng có một thực
tế là lưới điện quốc gia phát triển đến đâu thỡ cối xay tay, cối gió gạo nước, đuống gỗ
(một loại cối gió gạo của người Mường)… vắng bóng đến đó. Cơ chế thị trường, kinh tế
hàng hóa, sản xuất công nghiệp phát triển thỡ nhà sàn, khung cửi, quần áo dân tộc…cũng
mai một dần; sự mở rộng của thị trường băng đĩa đó làm cho nhu cầu thưởng thức các
loại hỡnh nghệ thuật dõn gian của giới trẻ giảm đi và đang có nguy cơ mất hẳn.
Nhưng cho dù nhỡn nhận quỏ trỡnh tỏc động của quốc tế hóa kinh tế dưới góc độ
tích cực hay tiêu cực, thỡ chỳng ta vẫn phải khẳng định: quốc tế hóa kinh tế mà đỉnh cao
của nó là toàn cầu hóa là một xu thế khách quan không thể đảo ngược, nó đó, đang và sẽ
tiếp tục phát triển. Vấn đề là ở chỗ, xu thế khách quan này được diễn ra thông qua hoạt
động có ý thức của con người (chủ thể kinh tế). Nên đối với mỗi quốc gia, để không bị tụt
hậu về kinh tế trên trường quốc tế, cần chuẩn bị tốt nội lực, sáng suốt trong lựa chọn
đường đi nước bước, nhận thức đúng bản chất thời đại, để hạn chế đến mức thấp nhất
những tác động tiêu cực và hội nhập thành công.
Thứ hai, những tác động của lĩnh vực chính trị - tư tưởng.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế như hiện
nay, ngoài những tác động tích cực thỡ quốc tế hóa kinh tế cũng sẽ tạo cơ hội để các thế
lực thù địch thông qua những tác động của tư tưởng chính trị để tuyên truyền những quan
điểm sai trái, các chiêu bài tự do, dân chủ…nhằm công kích đường lối lónh đạo của một
số quốc gia, lôi kéo quần chúng nhân dân vào những hoạt động chống lại lợi ích của
chính quốc gia mỡnh. Qua đó, nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, xóa bỏ sự thống

nhất trong nền văn hóa của chính quốc gia đó.
Với chiến lược “diễn biến hũa bỡnh”, cỏc thế lực phản cỏch mạng dựng nhiều hỡnh
thức truyền thông, quảng bá và đặc biệt với sự hỗ trợ của hệ thống khoa học công nghệ
cao như: mạng Internét, phát thanh truyền hỡnh bằng vệ tinh toàn cầu cụng xuất
lớn…nhằm tấn cụng vào hệ tư tưởng và văn hóa XHCN từ bên trong, xóa nhũa bản sắc
văn hóa của các dân tộc, nhằm mục đích cuối cùng là đồng hóa văn hóa toàn thế giới.

×