Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Phân tích tính tất yếu khách quan của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.19 KB, 8 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN
MÔN: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
Đề bài: Dựa vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Hãy phân tích tính tất yếu khách quan của
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Họ và tên: Nguyễn Thị Thu Hà
Lớp: Quản trị nhân lực CLC 60

0


Hà Nội 2019

MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác đã "mở đường cho việc nghiên cứu rộng rãi
và toàn diện quá trình phát sinh, phát triển và suy tàn của các hình thái kinh tế - xã hội."
Ra đời từ giữa thế kỷ XIX, đến nay đã gần 2 thế kỷ, mặc dù, lịch sử loài người đã có
những bước phát triển to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực tiễn lịch
sử và kiến thức nhân loại đã có nhiều bổ sung và phát triển mới, nhưng học thuyết về
hình thái kinh tế - xã hội vẫn giữ nguyên giá trị. Với những giá trị khoa học và cách
mạng, đây chính là cơ sở triết học đặc biệt quan trọng để xác lập lí luận về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội.
Nhờ đi con đường ấy, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công, đã
tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc; giữ
vững độc lập, tự do cho dân tộc, xã hội phát triển công bằng, dân chủ, văn minh.
Nhận thức được ý nghĩa to lớn đó, em chọn đề tài này để tìm hiểu rõ hơn về đặc
điểm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tính tất yếu khách quan của thời kì quá


độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

1


NỘI DUNG
I. Lý luận chung
Trước C.Mác, đã có nhiều quan niệm khác nhau về sự vận động của lịch sử. Điển
hình như: Vicô (1668 - 1744) - nhà xã hội học người Ý, đã phân chia các thời kỳ lịch sử
như vòng đời của con người: thơ ấu, thanh niên, thành niên và tuổi già; nhà triết học duy
tâm Đức - Hêghen (1770 - 1831) lại phân chia thành 3 thời kỳ: phương Đông, Cổ đại và
Giécmani; nhà XHCN không tưởng Pháp - Phuriê (1771 - 1837) lại chia thành 4 thời kỳ:
mông muội, dã man, gia trưởng và văn minh; nhà nhân chủng học Henry Moócgan (1818
- 1881) thì phân chia thành 3 thời kỳ chính: mông muội, dã man và văn minh.
Theo quan điểm của C.Mác, khi phân tích quá trình phát triển của lịch sử nhân loại
theo lý luận cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội, ông cho rằng: "Sự phát triển của những
hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên." Quá trình thay thế lẫn nhau
của các hình thái đó có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng những quy
luật khách quan lại là nhân tố đóng vai trò quyết định. Dưới sự tác động của những quy
luật đó, xét trên tổng thể đó là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế - xã hội:
cộng sản nguyên thủy (công xã nguyên thủy), chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ
nghĩa (TBCN) và tương lai là cộng sản chủ nghĩa (CSCN). Theo đó, hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa cũng là một quá trình phát triển từ thấp lên cao. Cụ thể, khi
chuyển từ xã hội TBCN lên xã hội CSCN tất yếu phải trải qua thời kì quá độ (TKQĐ),
hay còn gọi là thời kì "những cơn đau đẻ kéo dài".
Thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa (XHCN) là thời kỳ cải biến cách mạng sâu
sắc, triệt để, toàn diện, từ xã hội cũ sang xã hội mới. Nó bắt đầu từ khi cách mạng vô sản
thắng lợi, giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào việc xây dựng xã hội mới
và kết thúc khi xây dựng thành công các cơ sở của xã hội XHCN về vật chất - kỹ thuật,
kinh tế, văn hoá, tư tưởng. Nói cách khác, thời kì này chỉ kết thúc khi đã xây dựng xong

cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng
của xã hội XHCN. Vì thế, nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt TKQĐ là xây dựng cơ sở vật
chất kĩ thuật của nền công nghiệp, cải tạo nông nghiệp, phục vụ cho chủ nghĩa xã hội,
tức là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
V.I,Lênin cũng đưa ra lí luận về hai khả năng khách quan và cũng từ đó là hai
quan điểm về hai con đường đi lên XHCN như sau:
 Quá độ trực tiếp: từ TBCN phát triển lên XHCN, thể hiện sự vận động theo quy
luật phát triển tuần tự, phù hợp với những nước đã trải qua sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản, thông qua cuộc cách mạng vô sản ở các nước tư bản phát triển.
 Quá độ gián tiếp (kiểu "đặc biệt của đặc biệt"): từ tiền TBCN/ tư bản trung bình
lên XHCN, thể hiện sự vận động theo quy luật phát triển nhảy vọt, tức là phải trải
2


qua những khâu trung gian, những bước quá độ cụ thể thông qua cuộc cách mạng
dưới sự lãnh đạo của các đảng cộng sản ở những nước chưa trải qua giai đoạn phát
triển của xã hội TBCN, trình độ kinh tế còn lạc hậu.
Vậy căn cứ nào để cho rằng TKQĐ lên XHCN là một tất yếu lịch sử?
Thứ nhất, xã hội tư bản dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xã hội phân
chia thành giai cấp, tình trạng áp bức, bóc lột giai cấp và tồn tại sự đối kháng giai cấp.
Còn xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu, tồn tại
dưới 2 hình thức sở hữu là nhà nước và tập thể, không phân chia thành giai cấp, không
có bóc lột, áp bức giai cấp và đối kháng giai cấp. Quá trình chuyển biến giữa hai xã hội,
mà chế độ xã hội mới - chế độ xã hội chủ nghĩa khác hoàn toàn về bản chất so với các
chế độ xã hội trước đó đòi hỏi phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài, đầy khó khăn,
thử thách, nhất là ở những nước còn ở trình độ tiền tư bản.
Ví dụ, chúng ta không thể ngay tức khắc tước quyền sở hữu của giai cấp địa chủ
và giai cấp tư sản. Hơn nữa, chỉ tước quyền sở hữu của họ thôi thì cũng chưa giải quyết
được vấn đề, mà còn phải thay thế sự quản lý của giai cấp bóc lột bằng sự quản lý do
giai cấp công nhân đảm nhận. Hơn nữa, cho dù bị đánh đổ thì họ vẫn có nhiều ưu thế

thực sự và lớn lao, vì họ không chỉ có tiền, bất động sản, có những mối quan hệ trong
nước và quốc tế, mà họ còn có kinh nghiệm về tổ chức quản lý, có trình độ học vấn cao.
Thứ hai, sự ra đời của xã hội mới bao giờ cũng dựa trên những kế thừa nhất định
của những nhân tố trong xã hội cũ tạo ra. Trên phương diện kế thừa cơ sở vật chất kĩ
thuật. mặc dù trong xã hội tư bản đã đạt được nhiều thành tựu, tạo ra tiền đề vật chất là
nền sản xuất đại công nghiệp với trình độ cao làm cơ sở vật chất cho sự ra đời và phát
triển của chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội phải được xây dựng trên nền sản
xuất đại công nghiệp với trình độ khoa học kĩ thuật cao. Để những thành tựu đó phục vụ
được trong chủ nghĩa xã hội lại cần thời gian để tổ chức, sắp xếp, từng bước cải tạo lại
sao cho phù hơp.
Thứ ba, các quan hệ xã hội của XHCN không tự phát nảy sinh trong lòng TBCN,
chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo XHCN. Sự phát triển của TBCN dù
đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các
quan hệ xã hội mới XHCN. Do vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và
phát triển những quan hệ đó.
Cuối cùng, những nguyên tắc xây dựng và bản chất của chủ nghĩa xã hội khác với
các xã hội trước; giai cấp thống trị cũ chỉ mới bị đánh bại về chính trị nhưng chưa bị
tiêu diệt hoàn toàn; những tàn dư của xã hội cũ còn in vết trong xã hội mới. Bởi vậy, có
thể nói công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc hoàn toàn mới mẻ, khó khăn,
phức tạp và chưa có tiền lệ, Giai cấp công nhân và nhân dân lao động với tư cách là
người chủ của xã hội mới, cần từng bước làm quen với những công việc đó.
Ngoài ra, tính tất yếu này được qui định một cách cụ thể bởi những đặc điểm văn
hóa, những đặc thù của xuất phát điểm của các nước, các chế độ xã hội khác nhau khi
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chính đặc điểm văn hóa và đặc thù của điểm xuất phát khi
bước vào thời kỳ quá độ sẽ qui định nội dung, đặc điểm, mục tiêu và nhiệm vụ của thời
kỳ quá độ của mỗi quốc gia. Điều này cũng có nghĩa, mỗi quốc gia sẽ có thời kỳ quá độ
từ TBCN lên XHCN đặc sắc riêng của mình.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tế - xã
3



hội khác nhau có thể diễn ra khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Đối với những nước
đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao khi tiến lên chủ nghĩa xã hội thì
thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn. Những nước đã trải qua giai đoạn phát triển chủ
nghĩa tư bản ở trình độ trung bình, đặc biệt là những nước còn ở trình độ phát triển tiền
tư bản, có nền kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ thường kéo dài với rất nhiều khó khăn,
phức tạp.
Tóm lại, chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội không thể ra đời tự
phát trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa hay các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Các xã hội
trước chỉ chuẩn bị những điều kiện vật chất để giai cấp công nhân thực hiện bước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân cũng không thể đem áp dụng ngay tức khắc
những nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó cần có thời gian để tiến hành cải
tạo những tàn dư của xã hội cũ, từng bước xây dựng các nhân tố mới.
II. Liên hệ thực tiễn
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc.
Từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất, cách mạng
dân tộc - dân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước
cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là chọn con đường phát triển
"rút ngắn" lên CNXH, tức con đường quá độ gián tiếp. Về mặt chính trị, bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa là bỏ qua việc xác lập sự thống trị của giai cấp tư sản, của kiến trúc
thượng tầng TBCN. Về kinh tế, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua sự thống trị
của quan hệ sản xuất TBCN, nhưng phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại
đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
 Đây là một tất yếu khách quan bởi những căn cứ sau đây:
Thứ nhất phải nói đến nhân tố thời đại. Căn cứ vào quan điểm Mác – Lênin
cho rằng, ở những nước nghèo nàn lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế vẫn có khả năng
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà không phải trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa. V.I.
Lênin đã chỉ rõ: "Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên xã hội chủ nghĩa. Đó là điều không thể

tránh khỏi."
Căn cứ vào xu thế phát triển của thời đại ngày nay là thời kì quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại. Đó cũng là thời kì độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, nên nhiều nước đã đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ
TBCN như Trung Quốc, Triều Tiên, Lào,... Thực tiễn đó đã khẳng định chủ nghĩa tử bản
là xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội xã hội chủ
nghĩa. Cho dù hiện nay, với những cố gắng để thích nghi với tình hình mới, chủ nghĩa tư
bản trên thế giới vẫn đang có những thành tựu phát triển nhưng vẫn không thể vượt ra
khỏi những mâu thuẫn cơ bản của nó - mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất. Mâu thuẫn này không dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc hơn.
Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư bản đóng vai trò lịch sử quan trọng khi thúc đẩy
4


phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xã hội hoá lao động dựa trên nền tảng chế độ tư
hữu tư bản chủ nghĩa. Quá trình này đã diễn ra một cách tự phát, tuần tự, kéo dài hàng
thế kỷ cùng với những đau khổ đối với con người.
Vì thế, ngày nay, trong những điều kiện lịch sử mới, chúng ta hoàn toàn có thể
đi theo "con đường phát triển rút ngắn", phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
tránh cho nhân dân ta những đau khổ của con đường tư bản chủ nghĩa. Hơn nữa, chủ
nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài người, chủ nghĩa xã hội mà con người
đang vươn tới là hình thái kinh tế xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản, đó là xã hội vì sự
nghiệp giải phóng con người, sự phát triển tự do và toàn diện của loài người. Chúng ta
quá độ thẳng lên CNXH nghĩa là đi theo dòng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy
luật phát triển tự nhiên của lịch sử.
Thứ hai, căn cứ vào điều kiện lịch sử và quá trình phát triển của cách mạng Việt
Nam, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản là sự lựa chọn của
Đảng ta: Ngay từ “Cương lĩnh chính trị năm 1930” đến “ Cương lĩnh xây dựng đất nước

trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” được trình bày ở Đại hội VII năm 1991,
Đảng ta đều thể hiện bản lĩnh chính trị về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trước hết, nước ta đi theo con đường quá độ gián tiếp lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua
tư bản chủ nghĩa lại đòi hỏi phải có những điều kiện khách quan và chủ quan như sau:
 Điều kiện khách quan: Có sự giúp đỡ, hỗ trợ của giai cấp vô sản ở các nước tiên
tiến đi trước, đặc biệt là sự giúp đỡ về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lí.
 Điều kiện chủ quan:
o Phải giành được chính quyền.
o Có Đảng Cộng sản vững mạnh cầm quyền lãnh đạo.
o Phải xây dựng được khối đoàn kết liên minh công - nông vững chắc.
o Thực hiện những bước quá độ, những bước đi trung gian mềm dẻo, linh
hoạt, sử dụng thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa như cây cầu nối.
o Biết nhìn vào cách thức đi lên XHCN của các nước tiên tiến đi trước, đồng
thời chọn lọc, học hỏi kinh nghiệm.
Căn cứ vào những điều kiện đó, Đảng ta đã đề ra những mục tiêu đúng đắn, có
phương hướng lãnh đạo thích hợp và sáng suốt. Sau khi giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước, từ nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nền kinh
tế nước ta nảy sinh một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng
hóa và thúc đẩy sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở
kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Nếu để nền kinh tế phát triển tự phát chuyển thành nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa, trên cơ sở phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ, do
tác động của quy luật giá trị thì sẽ hình thành chủ nghĩa tư bản, dẫn đến những hậu quả
như: Chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ bị mất; và chính nhân dân lao động lại
rơi xuống địa vị người làm thuê, bị bóc lột.
Từ sau khi Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo
thành công, chúng ta đã cởi bỏ được hai vòng xích, đã thoát khỏi cảnh một cổ hai tròng,
Đảng và Nhà nước thêm vững mạnh, nhân dân đã thêm niềm tin vào Đảng, quyết tâm đi
theo Đảng. Thành quả của cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cần được giữ
5



vững, cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân phải được cải thiện, nâng cao
nhiều so với những năm chiến đấu hy sinh. Bên cạnh đó, vẫn tồn tại hàng loạt những
vấn đề kinh tế, xã hội và chính trị cần được giải quyết cấp bách. Nhưng điều đó không
ngăn cản việc tiến lên chủ nghĩa xã hội; hơn nữa, việc giải quyết nó chỉ có thể bằng con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội có ý
nghĩa rất lớn lao trong những năm đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Chính điều đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong Hội nghị Cán bộ văn
hoá ngày 30/10/1958: “Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội để làm cơ sở vững chắc cho
việc đấu tranh thống nhất nước nhà. Muốn đấu tranh thống nhất nước nhà thắng lợi thì
nhất định phải xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
Mặt khác, lịch sử đã chứng minh, từ khi thực dân Pháp xâm lược đến năm 1930,
các phong trào cứu nước của nhân dân ta theo ý thức hệ phong kiến, tiểu tư sản, tư sản
đều bị thất bại. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, gắn kết được khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, lãnh đạo nhân dân đi từ thắng lợi này sang thắng lợi khác và đi đến
thắng lợi hoàn toàn. Điều đó đã khẳng định: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì
chỉ có thể là con đường cách mạng vô sản.
Tóm lại, nhờ đi theo con đường ấy, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám
thành công, đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Trong thời đại ngày nay, chỉ có độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội mới đem lại nhiều lợi ích và hạnh phúc thực sự cho toàn thể nhân dân lao động, giữ
vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện được mục tiêu: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ ba, khi bước vào thời kì quá độ, nước ta đối mặt với sự thiếu hụt trình độ cần
thiết về phát triển sản xuất hàng hóa, phát triển kĩ thuật; về xã hội hóa lao động; về dân
chủ, pháp chế; về cơ sở vật chất; về giao lưu quốc tế và phong cách công nghiệp - là
những điều kiện vật chất cơ bản cần trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới đang phát triển như
vũ bão, có những bước nhảy vọt nổi bật. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa kinh tế là một xu

hướng khách quan, ngày càng lôi cuốn nhiều nước tham gia. Điều đó cũng tạo điều kiện
thuận lợi cho tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta.
Có thể khẳng định, Việt Nam quá độ lên CNXH là phù hợp với quy luật phát triển
biện chứng của lịch sử. Đây là sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, vừa phù hợp với xu thế
của thời đại, lại vừa phù hợp với nguyện vọng của đông đảo nhân dân lao động.
Hiện nay, trên thế giới đã có nhiều nước theo con đường tư bản chủ nghĩa, mặc dù
trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển về kinh tế, nhưng chỉ có một số
ít nước có nền kinh tế phát triển, còn lại theo nhận xét của Kissingter - một nhà tư bản
tài chính thì "châu Phi đói, châu Á nghèo, châu Mĩ La-tinh nợ nần chồng chất". Bên
cạnh đó, chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô. Nhưng Đảng ta vẫn
vững vàng đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là con đường duy nhất đúng đắn. Chủ nghĩa xã
hội vẫn là khuynh hướng phát triển khách quan của thời đại. Nó không chỉ là lý tưởng
mà là hiện thực sinh động trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Nhận thức một cách đúng đắn, triệt để và nhất quán về con đường đi lên XHCN ở
Việt Nam đã giúp cho mỗi chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về những thuận lợi, khó
6


khăn; những thời cơ, nguy cơ và thách thức để từ đó với quyết tâm chính trị cao chúng
ta phải phấn đấu vượt qua, từng bước đi lên XHCN.

KẾT LUẬN
Trên đây là toàn bộ phần trình bày của em về đặc điểm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội theo lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và liên hệ đến tính tất yếu khách quan của
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Có thể nói, con đường lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là sự lựa chọn hoàn toàn đúng
đắn. Quyết tâm của nhân dân ta chính là lực lượng để vượt qua mọi khó khăn và xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Bài viết có sự tham khảo một số tài liệu trên internet và một số cuốn sách khác. Do hiểu
biết và cách sử dụng ngôn từ còn hạn chế, bài viết còn tồn tại những thiếu sót. Mong

quý độc giả thông cảm và đóng góp ý kiến!
Em xin chân thành cảm ơn!

7



×