Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Bồi Thường Khi Nhà Nước Thu Hồi Đất Nông Nghiệp Theo Pháp Luật Đất Đai Từ Thực Tiễn Huyện Thanh Trì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (903.28 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG HỮU BẢN

BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THANH TRÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG HỮU BẢN

BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THANH TRÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ

HÀ NỘI, 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng và được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trương Hữu Bản


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ............... 8
1.1 Các khái niệm........................................................................................... 8
1.2 Lý luận pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
...................................................................................................................... 14
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp ............................................................................................ 25
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BỒI
THƯƠNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NỒNG NGHIỆP VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ
NỘI ................................................................................................................. 30
2.1 Thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp ........................................................................................................... 30
2.2 Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội .................................. 50
2.3. Thực tiễn bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thực tiễn tại
huyện Thanh Trì ........................................................................................... 58
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ ĐẢM BẢO
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU
HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THANH TRÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................. 63
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp được đánh giá là một trong những ngành nghề mũi nhọn
truyền thống của Việt Nam với gần 70% dân số làm nghề nông. Theo thống
kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong 9 tháng đầu năm 2018
mặc dù phải đối mặt với 14 loại hình thiên tai gây thiệt hại về kinh tế hơn
2.356 tỷ đồng nhưng khu vực nông - lâm - thuỷ sản vẫn đạt mức tăng trưởng
cao nhất trong giai đoạn 2012 – 2018. Tổng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng của
ngành nông nghiệp ước đạt 29,54 tỷ USD, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm
2017, bằng 73% kế hoạch năm và vượt 1,3% mục tiêu quý III đã đề ra [21,
tr1].
Trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, Nhà nước chủ trương
đẩy mạnh hoạt động nông nghiệp theo hướng tập trung, tăng cường áp dụng
các biện pháp kỹ thuật tiên tiến để nâng cao năng suất và hiệu quả khai thác
đất nông nghiệp hiện có. Đồng thời, để tạo điều kiện cho các ngành công
nghiệp phát triển, Nhà nước cũng có chính sách chuyển đổi một phần diện
tích đất nông nghiệp sang phục vụ các hoạt động công nghiệp, xây dựng cơ sở
hạ tầng kỹ thuật. Thực hiện chủ trương này, Nhà nước phải tiến hành thu hồi
đất nông nghiệp của người dân và bồi thường tương ứng với diện tích thu hồi.

Thực tế cho thấy hoạt động thu hồi đất là một trong những hoạt động có
tính nhạy cảm cao, dễ phát sinh tranh chấp, khiếu kiện vì ảnh hưởng trực tiếp
đến công việc, nguồn thu nhập và đời sống của người nông dân. Đơn cử tại
huyện Thanh Trì, thời gian vừa qua, vấn đề thu hồi và bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp trở thành một vấn đề nổi cộm cần nhanh chóng
giải quyết (đặc biệt liên quan đến các dự án khu đô thị Tây Nam Kim Giang
và dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 1A đoạn qua huyện Thanh Trì).

1


Thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan
như: những hạn chế, bất cập trong hệ thống quy định pháp luật liên quan đến
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, thiếu kinh nghiệm cũng
như thiếu sự linh hoạt trong quá trình thu hồi, bồi thường đất nông nghiệp dẫn
đến sự bất hòa về lợi ích giữa các bên… Do đó, việc nghiên cứu thực trạng
pháp luật, thực tiễn thi hành để đề xuất biện pháp hoàn thiện, bổ sung cho
hoạt động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đang ngày càng trở nên quan
trọng và cấp thiết. Chính vì vậy, người viết đã lựa chọn đề tài “Bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn
huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội” để làm luận văn tốt nghiệp trình độ
thạc sĩ luật học.
Tuy nhiên, do vấn đề về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp là một vấn đề pháp lý phức tạp với nhiều quy định pháp luật liên quan
và là một hoạt động có tính nhạy cảm cao. Điều này đã khiến cho quá trình
nghiên cứu, tìm hiểu và bình luận, đánh giá về nội dung đề tài của người viết
gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, người viết rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của Quý thầy cô, Quý đồng nghiệp và những người quan tâm đến đề tài
này để luận văn được hoàn thiện hơn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là một vấn đề mang
tính lý luận và tính thời sự nóng bỏng nên đã thu hút nhiều sự quan tâm của
các nhà nghiên cứu, nhà lập pháp cũng như các tổ chức, cá nhân hoạt động
liên quan đến lĩnh vực này. Do đó, tính đến thời điểm hiện nay, có rất nhiều
công trình nghiên cứu về vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp trên nhiều khía cạnh khác nhau. Có thể liệt kê một số công trình
nghiên cứu đáng chú ý như sau:

2


- Nhóm công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và kinh nghiệm của một số quốc gia
trên thế giới: Trong nhóm này, có thể đề cập đến bài viết “Vấn đề lý luận
xung quanh khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất” của TS Nguyễn
Quang Tuyến trong Tạp chí Luật học, số 1/2009; Bài viết “Pháp luật về bồi
thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của Singapore và Trung Quốc –
Những gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp luật về bồi thường, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất” của TS Nguyễn Quang Tuyến và THS.
Nguyễn Ngọc Minh trong Tạp chí Luật học, số 10/2010; ……
- Nhóm công trình nghiên cứu về hệ thống quy phạm pháp luật Việt
Nam điều chỉnh vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
có: Bài viết “Một số ý kiến trao đổi về vấn đề thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong Dự thảo Luật đất đai sửa đổi”
của TS. Nguyễn Thị Nga trong Hội thảo khoa học góp ý Luật đất đai sửa đổi
tại thành phố Hà Nội vào ngày 12/04/2013; Luận án “Pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam” của TS. Phạm Thu Thủy
tại Đại học Luật Hà Nội năm 2014; Bài viết “Pháp luật về trình tự, thủ tục
thu hồi đất, bồi thường và giải phóng mặt bằng và những vướng mắc nảy sinh
trong quá trình áp dụng” của TS. Nguyễn Thị Nga trong Tạp chí Luật học số

11/2010, ….
- Nhóm công trình nghiên cứu về vấn đề tổ chức thực thi và hoàn
thiện quy định pháp luật liên quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp gồm: Bài viết “Giải bài toán lợi ích kinh tế giữa ba chủ thể:
Nhà nước, người có đất bị thu hồi và chủ đầu tư khi bị thu hồi đất” của Ths.
Đặng Đức Long trên Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 5/2009; Báo cáo
“Tình hình thu hồi đất của nông dân thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tháng 7/2007…
3


Luận văn Thạc sĩ về "Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp qua thực tiễn tại Dự án khu đô thị Dương Nội, Quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội" của Nguyễn Thanh Thư, Học viện Khoa học xã hội
(năm 2015). Trong Luận văn đã đề cập và làm rõ hơn cơ sở lý luận về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và sự tác động của nó
đến đời sống, sinh hoạt của người dân có đất bị thu hồi. Thông qua đó Luận
văn đã phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp ở Khu đô thị Dương Nội, Quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội. Từ đó nêu lên một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn Thạc sĩ về "Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp và thực tiễn áp dụng tại Hà Nam" của Trần Thị Huyền
Lê, Đại học Quốc gia Hà Nội (năm 2015). Trong Luận văn đã làm rõ một số
vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ và hệ thống hóa các quy định pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Luận văn đã
đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Đưa ra định
hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và
nâng cao hiệu quả công tác thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu

hồi đất .
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu trong thời gian vừa qua đã tương đối
đầy đủ, đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của vấn đề bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất. Tác giả luận văn có sự tham khảo các kết quả nghiên cứu trong
các công trình này vào quá trình tìm hiểu các vấn đề của đề tài luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua hoạt động nghiên cứu các vấn đề lý luận và hệ thống quy
định pháp luật hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
4


nghiệp, người viết mong muốn tìm ra những điểm bất cập, hạn chế liên quan
đến vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đồng thời đề xuất những giải
pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thi
hành tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội nói riêng, cho Việt Nam nói
chung.
Căn cứ mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chính gồm:
(i) Làm sâu sắc thêm một số vấn đề lý luận chung về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp;
(ii) Thực trạng quy định pháp luật hiện hành về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp;
(iii) Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp dưới góc nhìn tại huyện Thanh Trì, thành
phố Hà Nội;
(iv) Nhận định những vướng mắc, bất cập còn tồn tại trong hệ thống quy
phạm pháp luật hiện hành và thực tiễn thi hành quy định pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp;
(v) Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật và đề xuất các
giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất nông nghiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu đối tượng là các quy định pháp luật Việt
Nam về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn thi
hành các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại
huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu, đánh giá và bình luận toàn bộ các nội
dung liên quan đến vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
5


Phạm vi nghiên cứu bao gồm nhưng không giới hạn bởi những khía cạnh sau:
vấn đề lý luận chung liên quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp, quy định pháp luật hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp và thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp…
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
Để đảm bảo mục đích nghiên cứu và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu
của đề tài, luận văn sử dụng xuyên suốt phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
chính sách đất đai.
Bên cạnh đó, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế, lịch sử … để nâng cao hiệu
quả của hoạt động nghiên cứu, đánh giá và bình luận các khía cạnh của vấn đề
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

6



6. Ý nghĩa lý luận thực tiễn
Luận văn có giá trị như một tài liệu tham khảo có sự kết hợp giữa tính
pháp lý và tính thực tiễn, giúp cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức quan tâm có
cách nhìn sâu sắc hơn về vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp. Đặc biệt, thông qua hoạt động phân tích, đánh giá, bình luận các quy
định pháp luật cùng thực tiễn thi hành tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội,
luận văn đã đề xuất các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật và
nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp. Người viết cho rằng đây sẽ là một trong những đóng góp mang
ý nghĩa quan trọng của luận văn trong việc hỗ trợ các cơ quan có thẩm quyền
xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật cũng như áp dụng các giải
pháp hữu ích để nâng cao hiệu quả thi hành quy định về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và 3 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì, thành phố
Hà Nội
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn huyện
Thanh Trì, thành phố Hà Nội

7


Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1 Các khái niệm
1.1.1 Khái niệm đất nông nghiệp
Đất nông nghiệp là một loại đất có tính đặc trưng riêng biệt so với các
loại đất khác trong hệ thống đất đai. Theo quan niệm truyền thống của người
Việt Nam thì đất nông nghiệp thường được hiểu là đất trồng lúa, trồng cây
hoa màu như: ngô, khoai, sắn và những loại cây được coi là lương thực. Tuy
nhiên, trên thực tế, việc sử dụng đất nông nghiệp tương đối phong phú, không
chỉ đơn thuần là để trồng lúa, hoa màu mà còn dùng vào mục đích chăn nuôi
gia súc, nuôi trồng thủy sản hay để trồng cây lâu năm … [9, tr 303].
Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp) có định
nghĩa về đất nông nghiệp như sau: “Đất nông nghiệp: Tổng thể các loại đất
được xác định là tư liệu sản xuất chủ yếu phục vụ cho việc trồng trọt và chăn
nuôi, nghiên cứu thí nghiệm về trồng trọt và chăn nuôi, bảo vệ môi trường
sinh thái, cung ứng sản phẩm cho ngành công nghiệp và dịch vụ” [10, tr427].
Áp dụng cách giải thích của Từ điển luật học, Luật đất đai năm 1987 –
Luật đất đai đầu tiên của Việt Nam – đã ghi nhận: “Đất nông nghiệp là đất
được xác định chủ yếu dùng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn
nuôi, kể cả nuôi trồng thủy sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về trồng trọt,
chăn nuôi” (Điều 23). Bên cạnh đất nông nghiệp, dựa trên mục đích sử dụng,
luật đất đai còn phân biệt thêm năm loại đất khác gồm: đất lâm nghiệp, đất
khu dân cư, đất chuyên dùng và đất chưa sử dụng. Kế thừa tinh thần của Luật
đất đai 1987, Luật đất đai 1993 tiếp tục công nhận cách định nghĩa về đất
nông nghiệp nêu trên. Có thể thấy, thời điểm này, đất nông nghiệp chỉ là một
8


trong sáu loại đất thuộc hệ thống đất đai quốc gia và có sự tách biệt rõ ràng

với đất lâm nghiệp. Điều này đã đem đến nhiều khó khăn cho người sử dụng
đất khi phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất để có thể xây dựng mô hình
trang trại kết hợp trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng rừng. Bởi trong quá trình
khai thác đất và nâng cao hiệu quả sản xuất, căn cứ chủ trương của Đảng, các
hộ gia đình, cá nhân thường có xu hướng kết hợp nhiều loại đất theo mô hình
trang trại.
Để giải quyết những vấn đề còn vướng mắc nêu trên, Luật đất đai năm
2003 ra đời đã loại bỏ khái niệm “đất nông nghiệp” và thay thế bằng “nhóm
đất nông nghiệp”. Theo đó, đất nông nghiệp được mở rộng hơn với nhiều loại
đất khác nhau gồm: đất trồng cây hàng năm như đất trồng lúa, đất đồng cỏ
dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác; đất trồng cây lâu năm; đất
rừng sản xuất; đất rừng phòng hộ; đất rừng đặc dụng; đất nuôi trồng thủy sản;
đất làm muối và đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ. Cách
thức quy định về nhóm đất nông nghiệp vẫn tiếp tục được ghi nhận tại Luật
đất đai 2013 – Luật đang có hiệu lực thi hành. Thực tế cho thấy, việc quy định
đất nông nghiệp theo phạm vi rộng như trên là hoàn toàn phù hợp và đã thực
sự mang lại hiệu quả cho hoạt động khai thác, sử dụng đất nông nghiệp, góp
phần phát triển nền kinh tế nông nghiệp theo hướng hiện đại. Bên cạnh đó,
việc phân tách từng loại đất trong nhóm đất nông nghiệp cũng tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình xây dựng quyền và nghĩa vụ đặc thù đối với người sử
dụng từng loại đất cũng như chế độ được hưởng khi Nhà nước thu hồi đất.
Từ các nội dung nêu trên, “đất nông nghiệp” được hiểu là tổng thể các
loại đất có chung đặt tính sử dụng và phục vụ chủ yếu cho mục đích sản xuất
nông lâm – ngư nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, nuôi thủy sản,
nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối … với tư cách
là tư liệu sản xuất chính.
9


Với vai trò là một loại đất trong hệ thống đất đai quốc gia, đất nông

nghiệp cũng mang đầy đủ các đặc trưng cơ bản của đất như: là một sản
phẩm của tự nhiên, có tính cố định, có giá trị sử dụng lâu dài phụ thuộc vào
khả năng khai thác của người sử dụng đất … Tuy nhiên, ngoài những đặc
điểm chung nêu trên, đất nông nghiệp còn mang nhiều đặc điểm có tính đặc
thù như sau:
Thứ nhất, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất quan trọng và không thể
thay thế trong hoạt động sản xuất nông nghiệp
Thực tế cho thấy, toàn bộ hoạt động sản xuất nông nghiệp (đặc biệt liên
quan đến trồng trọt) đều cần thực hiện trên một diện tích đất nông nghiệp có
độ màu mỡ phù hợp. Với vai trò là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng quan
trọng, đất đai là một môi trường sống không thể thiếu cho sự phát triển của
hoa màu, cây lương thực. Cho đến hiện nay, mặc dù khoa học đã có những
bước tiến vượt bậc nhưng vẫn không có bất cứ sản phẩm hoặc tư liệu nào có
thể thay thế vai trò của đất trong hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Thứ hai, hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào
chất lượng đất và cách thức khai thác, cải tạo đất của người sử dụng đất
Đất nông nghiệp là sản phẩm của tự nhiên và bị giới hạn trong một
khoảng không gian xác định, không thể tăng lên về số lượng. Tuy nhiên, sức
sản xuất của đất nông nghiệp lại vô hạn, tùy thuộc vào cách thức khai thác, sử
dụng và chăm sóc đất của người sử dụng đất. Trường hợp đất nông nghiệp
được bảo vệ, cải tạo tốt sẽ góp phần nâng cao năng suất của hoạt động nông
nghiệp và ngược lại, nếu đất nông nghiệp không được chăm sóc tốt, năng suất
cũng như chất lượng nông sản cũng sẽ giảm sút.
Có thể thấy, nếu như giá trị của đất sử dụng vào những mục đích khác
như đất xây dựng cơ sở hạ tầng, đất sản xuất kinh doanh công nghiệp…. phụ
thuộc vào vị trí của đất thì đối với đất nông nghiệp, giá trị của đất lại phụ
10


thuộc vào độ màu mỡ, phì nhiêu và sự chăm bón, cải tạo của người sử dụng

đất. Vì vậy, người sử dụng đất cần có những biện pháp chăm sóc, cải tạo đất
phù hợp để đảm bảo hiệu quả sử dụng đất và nâng cao năng suất khai thác
đất.
Thứ ba, đất nông nghiệp có thể chuyển đổi để phục vụ nhiều mục đích
khác nhau
Trong quá trình khai thác đất, phụ thuộc vào quy hoạch của nhà nước,
đất nông nghiệp có thể chuyển đổi để phục vụ các mục đích khác như chuyển
đổi từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp, chuyển đổi giữa các loại đất
trong nhóm đất nông nghiệp …. Bởi đất nông nghiệp mang đầy đủ đặc trưng
của các loại đất khác (chỉ chứa đựng thêm một số điểm riêng biệt của đất
nông nghiệp như độ phì nhiêu, màu mỡ …) nên đất nông nghiệp hoàn toàn có
thể chuyển sang các loại đất khác. Trong khi những loại đất khác lại khó có
khả năng chuyển đổi sang mục đích nông nghiệp do không có đặc trưng riêng
của đất nông nghiệp.
Tuy nhiên, khi đã chuyển đổi sang sử dụng cho các mục đích khác, việc
chuyển đổi lại để phục vụ cho mục đích nông nghiệp cũng sẽ tương đối khó vì
sau một thời gian sử dụng cho các mục đích khác, đất đã mất đi độ màu mỡ,
phì nhiêu vốn có. Khi đó, hoạt động sản xuất nông nghiệp trên những diện
tích đất này cũng sẽ không mang lại hiệu quả cao. Do vậy, trong quá trình
công nghiệp hóa – hiện đại hóa, các nhà làm luật cũng như các cá nhân, cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền quyết định chuyển đổi đất nông nghiệp cũng cần
có sự cân nhắc kỹ lưỡng trước khi thực hiện hoạt động chuyển đổi đất nông
nghiệp sang phục vụ các mục đích khác.
1.1.2 Khái niệm thu hồi đất nông nghiệp
Khái niệm “Thu hồi đất” được sử dụng tương đối phổ biến trong ngôn
ngữ pháp lý cũng như cuộc sống sinh hoạt đời thường. Trong khoa học pháp
11


lý hiện nay còn tồn tại nhiều cách định nghĩa về khái niệm “thu hồi đất” khác

nhau, trong đó điển hình là một số cách định nghĩa như sau:
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, khái niệm thu hồi đất được
hiểu là việc: “Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất
của người vi phạm quy định về sử dụng đất để nhà nước giao cho người khác
sử dụng hoặc trả lại cho chủ sử dụng đất hợp pháp bị lấn chiếm. Trường hợp
thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để
sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng” [10, tr173]. Khái niệm đã phần nào thể hiện rõ bản chất của hoạt động
thu hồi đất nói chung là chấm dứt quyền sử dụng của người sử dụng đất bằng
một quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này đã
khẳng định quyền định đoạt của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu
đối với đất đai. Tuy nhiên, khái niệm vẫn chưa bao quát được toàn bộ các
trường hợp thu hồi đất do khái niệm còn sử dụng phương pháp liệt kê các
trường hợp bị thu hồi đất.
Hay căn cứ quy định tại khoản 5 điều 4 Luật đất đai năm 2003: “Thu hồi
đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất
đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy
định của Luật này”. Khái niệm đã phản ánh đúng về chủ thể có thẩm quyền
thu hồi đất là Nhà nước (thông qua quyết định hành chính của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền). Tuy nhiên, khái niệm đang hạn chế phạm vi đối
tượng có thể bị Nhà nước thu hồi đất trong đó phải kể đến hộ gia đình, cá
nhân sử dụng đất – chủ thể sử dụng đất bị thu hồi đất phổ biến nhất hiện nay.
Khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong cách định nghĩa của Luật đất đai
2003, Luật đất đai năm 2013 đã ghi nhận:“Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà
nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao

12


quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật

về đất đai” (Khoản 11 Điều 3).
Từ khái niệm “thu hồi đất” nói chung, có thể hiểu khái niệm “thu hồi
đất nông nghiệp là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại đất
nông nghiệp và quyền sử dụng đất nông nghiệp đã giao cho các chủ thể sử
dụng đất theo quy định pháp luật đất đai” [24, tr29]. Như đã phân tích, vấn
đề thu hồi đất nông nghiệp là một vấn đề nhạy cảm, ảnh hưởng trực tiếp đến
cuộc sống của người nông dân (mất tư liệu sản xuất, mất công việc). Do đó,
thu hồi đất nông nghiệp vì bất cứ lý do nào, Nhà nước cũng cần đặc biệt chú
trọng đến vấn đề bồi thường, hỗ trợ cho người nông dân sớm ổn định cuộc
sống và tìm kiếm được định hướng mới.
1.1.3 Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Việt Nam là một quốc gia áp dụng chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Tùy thuộc vào chính
sách, kế hoạch phân bổ đất cho từng thời kỳ, Nhà nước có quyền trao quyền
sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này thông qua việc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn
liền với đất cho người sử dụng đất.
Mặc dù không có quyền sở hữu đối với đất đai nhưng người sử dụng đất
sẽ được công nhận quyền sử dụng đất với ý nghĩa là một quyền tài sản. Theo
đó, người sử dụng đất được quyền “định đoạt” quyền sử dụng đất hợp pháp
của mình thông qua các hình thức như chuyển nhượng, chuyển đổi, cho thuê,
cầm cố, thế chấp quyền sử dụng đất …
Với tư cách đại diện chủ sở hữu, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Nhà nước có quyền thu hồi đất đã cấp cho người nông dân
vì mục đích phát triển kinh tế, xã hội, vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên,
xét trong mối quan hệ giữa các quy định pháp luật hiện hành, khi Nhà nước
13


thu hồi đất nông nghiệp (đồng nghĩa với thu hồi quyền sử dụng đất – một

quyền tài sản của người dân), Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường cho
người dân bị thu hồi đất một giá trị tương ứng với giá trị quyền sử dụng đất đã
thu hồi. Khoản 12 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 đã định nghĩa: “Bồi thường
về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất
thu hồi cho người sử dụng đất”.
Tóm lại, có thể hiểu một cách đầy đủ về khái niệm bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất như sau:
“Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng,
phát triển kinh tế, phải bù đắp những tổn hại về đất và tài sản trên đất do
hành vi thu hồi đất gây ra cho người sử dụng đất tuân theo những quy định
của pháp luật đất đai” [24, tr37].
Đất nông nghiệp là một trong những loại đất cơ bản của hệ thống đất đai
nên áp dụng tương tự cách hiểu trên:
“Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là việc Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế, phải bù đắp những tổn hại về
đất và tài sản trên đất do hành vi thu hồi đất nông nghiệp gây ra cho người
sử dụng đất tuân theo những quy định của pháp luật đất đai” [28, tr37].
1.2 Lý luận pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp
1.2.1 Sự cần thiết của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp
Trong tiến trình phát triển của Việt Nam hiện nay, việc thu hồi một phần
đất nông nghiệp để phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội, vì mục đích
quốc phòng, an ninh quốc gia, lợi ích dân tộc và cộng đồng là một trong
14


những xu thế tất yếu, cần thiết. Với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước, nhu cầu về quỹ đất để thực hiện các hoạt động công nghiệp, xây
dựng cơ sở hạ tầng và phát triển đô thị ngày càng cao. Theo số liệu khảo sát
về diện tích của các loại đất ở Việt Nam hiện nay, đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ
cao hơn hẳn so với các loại đất khác. Bởi đến thời điểm hiện tại, nông nghiệp
vẫn là một ngành nghề chủ lực của Việt Nam và đa số người dân của Việt
Nam đang sống dựa trên thu nhập từ nông nghiệp. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu
về đất cho các hoạt động công nghiệp hóa, vì lợi ích quốc gia, đất nông
nghiệp là đối tượng được hướng tới hàng đầu. Ngoài ra, cùng với sự tiến bộ
khoa học – công nghệ, thời gian qua, Việt Nam đã áp dụng nhiều biện pháp
kỹ thuật tiên tiến vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, nâng cao sản lượng và
chất lượng nông phẩm trên một diện tích đất nông nghiệp. Trong tương lai,
hoạt động nông nghiệp của Việt Nam sẽ phát triển theo hướng tập trung, tăng
cường khai thác theo chiều sâu thay vì khai thác theo chiều rộng như trước
đây. Do đó, việc thu hẹp diện tích đất nông nghiệp để chuyển sang các mục
đích khác sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất theo chiều sâu trong khi
vẫn đảm bảo yếu tố an toàn lương thực cho người dân.
Mặc dù thu hồi đất nông nghiệp là một xu thế tất yếu, tuy nhiên, thu hồi
đất nông nghiệp cũng là một vấn đề nhạy cảm và rất dễ phát sinh tranh chấp.
Như đã phân tích tại mục 1.1.1 của Luận văn, đất nông nghiệp là tư liệu sản
xuất quan trọng, không thể thay thế của người nông dân và là một loại đất có
độ màu mỡ cao, nếu chuyển đổi sang mục đích khác sẽ khó khăn trong vấn đề
chuyển đổi lại thành đất nông nghiệp. Do đó, thu hồi đất nông nghiệp cũng
chính là thu hồi tư liệu sản xuất của người nông dân, ảnh hưởng nghiêm trọng
tới thu nhập và dẫn tới một lượng lớn người nông dân bị mất việc làm. Vấn đề
chuyển đổi nghề nghiệp sau khi bị thu hồi đất cũng là một vấn đề cần được
quan tâm. Bởi hầu hết nông dân đều có trình độ hiểu biết không cao nên việc
15


chuyển đổi nghề là vấn đề tương đối khó khăn trong bối cảnh cạnh tranh trên

thị trường việc làm tăng cao.
Hiện trạng thu hồi và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
ở Việt Nam trong thời gian vừa qua đã là một chứng cứ chứng minh rõ nét
cho quan điểm trên. Hàng loạt vụ khiếu kiện hành chính của người dân liên
quan đến hoạt động thu hồi, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
đã diễn ra trên phạm vi cả nước. Thậm chí có nhiều vụ việc được đẩy lên
thành “điểm nóng” với những cuộc biểu tình đông người tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoặc ngay tại nơi có đất bị thu hồi. Chính điều này đã
khiến các nhà lập pháp và cơ quan thực thi pháp luật cần nghiêm túc xem xét
lại và có những điều chỉnh quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất cho phù hợp.
Từ những phân tích nêu trên, có thể thấy việc điều chỉnh vấn đề thu hồi
và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp bằng pháp luật là một
yêu cầu tất yếu. Khi pháp luật có những quy định cụ thể về vấn đề thu hồi, bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp (như các trường hợp thu hồi
đất nông nghiệp, thẩm quyền thu hồi, trình tự, thủ tục thu hồi và chế độ bồi
thường, hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất), bản thân các cơ quan thực thi
pháp luật sẽ có căn cứ pháp lý rõ ràng để triển khai hoạt động thu hồi, bồi
thường cho người dân. Đồng thời, người dân có đất thuộc diện bị thu hồi cũng
có cơ sở thực hiện quyền giám sát, đấu tranh với những hiện tượng tham
nhũng, tiêu cực để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của mình, góp phần bảo đảm
kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.2.2 Các nguyên tắc của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp
Trong bất cứ lĩnh vực nào, pháp luật luôn được xem là một trong những
phương thức hiệu quả để thực hiện chức năng quản lý nhà nước và lĩnh vực
16


bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp cũng không phải là một

trường hợp ngoại lệ. Theo cách hiểu cơ bản nhất, pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của người dân nhằm giải quyết
hài hòa lợi ích ba bên (Nhà nước, chủ đầu tư và người có đất bị thu hồi). Với
mục đích nâng cao tính minh bạch của các quy định pháp luật, nâng cao hiệu
quả của hoạt động thu hồi, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
và đảm bảo tối đa quyền lợi của người dân, các quy phạm pháp luật điều
chỉnh vấn đề thu hồi, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp luôn
được xây dựng dựa trên hệ thống các nguyên tắc bắt buộc, mang tính định
hướng. Một số nguyên tắc cơ bản gồm:
Thứ nhất, người bị thu hồi đất có đủ điều kiện theo quy định của pháp
luật sẽ được bồi thường
Căn cứ quy định của Bộ luật dân sự, quyền sử dụng đất cũng là một
quyền tài sản nên khi Nhà nước thu hồi đất (đồng nghĩa thu hồi quyền tài sản)
của người dân, Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường cho người dân một
giá trị tương ứng. Quy định này đã thể hiện sự công bằng giữa các chủ thể
trong quan hệ thu hồi, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp dựa
trên sự trao đổi về lợi ích.
Cùng với đó, nguyên tắc này cũng là sự đảm bảo của Nhà nước đối với
người sử dụng đất nông nghiệp thuộc diện bị thu hồi. Chỉ cần người sử dụng
đất đáp ứng đủ các điều kiện của pháp luật sẽ được hưởng các chế độ bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất. Hiện nay, điều kiện để được bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp chủ yếu tập trung vào yếu tố nguồn gốc sử
dụng đất với các trường hợp như được giao đất, công nhận quyền sử dụng đất,
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và có giấy tờ hợp pháp chứng minh
17


hay sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất do Nhà nước cấp

nhưng đã sử dụng ổn định, lâu dài và không có tranh chấp.
Thứ hai, việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng
mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì
được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi
Nội dung nguyên tắc quy định, khi bị thu hồi đất nông nghiệp, người
sử dụng đất được hưởng một trong hai chế độ sau: (i) Giao đất có cùng
mục đích sử dụng với loại đất thu hồi (đây được xem là chế độ ưu tiên); (ii)
Trường hợp không có đất cùng mục đích sử dụng để bồi thường, Nhà nước
sẽ bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi (giá đất cụ
thể tùy thuộc vào từng thời điểm và do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban
hành). Nguyên tắc này thể hiện tính linh hoạt trong hoạt động bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, tạo cơ chế rộng mở để cơ quan nhà
nước có thẩm quyền được lựa chọn phương án bồi thường cho phù hợp với
tình hình thực tế của từng địa phương.
Theo đó, việc bồi thường bằng đất nông nghiệp sẽ tạo điều kiện cho
người dân có tư liệu để tiếp tục hoạt động nông nghiệp, không phải chuyển
đổi nghề nghiệp và nơi sinh sống. Do đó, bồi thường bằng đất có cùng mục
đích luôn là phương án được ưu tiên áp dụng trong các trường hợp bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất.
Tuy nhiên, đặt vào tình hình thực tiễn, việc bồi thường bằng đất nông
nghiệp có tính khả thi tương đối thấp do quỹ đất nông nghiệp của nước ta hiện
nay còn rất hạn hẹp. Thực tế cho thấy, phần lớn quỹ đất nông nghiệp đã được
phân chia hết cho người dân sử dụng với thời hạn tương đối dài (thậm chí khi
hết thời hạn được giao, nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất, người sử dụng
đất có quyền đề nghị gia hạn).
18


Trong khi đó, theo yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước, quỹ đất nông nghiệp lại đang đặt trong xu hướng thu hẹp lại để
chuyển đổi sang phục vụ các hoạt động phát triển kinh tế cộng đồng, xây
dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Vì vậy, thực tế có rất ít trường hợp người sử
dụng đất được bồi thường lại bằng một diện tích đất nông nghiệp tương ứng
với diện tích đất nông nghiệp bị Nhà nước thu hồi đất.
Thay vào đó, phần lớn người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi sẽ được
bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban
hành tại thời điểm thu hồi. Quy định này được đánh giá là một bước tiến đáng
ghi nhận của pháp luật vì phương án mang tính chất nhanh gọn, tăng cường
tính công bằng và giá bồi thường đất nông nghiệp cũng đã tiến gần hơn với
mức giá thị trường của đất nông nghiệp. Do đó, về cơ bản, quyền lợi của
người sử dụng đất có đất nông nghiệp bị Nhà nước thu hồi cũng được nâng
cao hơn so với thời điểm trước nhiều lần.
Thứ ba, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân
chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của
pháp luật
Đây được đánh giá là một nguyên tắc mang tính tổng hợp bao hàm sáu
nguyên tắc nhỏ: dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng
quy định pháp luật. Nguyên tắc yêu cầu hoạt động bồi thường phải tuân thủ
các quy định pháp luật hiện hành, đảm bảo sự công bằng về quyền lợi giữa
những người dân có đất bị thu hồi. Việc bồi thường phải được thực hiện công
khai, kịp thời để tạo lòng tin và tâm lý yên tâm cho người dân có đất bị thu
hồi.
Đồng thời, việc bồi thường phải đề cao tính dân chủ, theo đó, người có
đất bị thu hồi phải được quyền tham gia đóng góp ý kiến, được giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền khiếu nại, tố
19


cáo đối với những hành vi vi phạm trong quá trình bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất. Chỉ khi tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc nêu trên, hoạt động bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mới được minh bạch, đạt được
hiệu quả cao và triệt tiêu mầm mống của tranh chấp, khiếu khiện của người
dân.
Thứ tư, trường hợp người sử dụng đất thuộc diện được bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai với
Nhà nước theo quy định của pháp luật thì phải trừ đi khoản tiền phải thực
hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường, hỗ trợ để hoàn trả
ngân sách Nhà nước
Đây là một nguyên tắc chung của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi các loại đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng. Căn cứ quy định
pháp luật hiện hành, khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai
bao gồm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp cho Nhà nước nhưng đến
thời điểm thu hồi đất vẫn chưa nộp. Thực tiễn triển khai cho thấy, dù đã có
các quy định về việc xử lý vi phạm trong trường hợp chậm hoặc không thực
hiện nghĩa vụ tài chính cũng như các cơ quan nhà nước thường xuyên đôn đốc
nhắc nhở về trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước nhưng
hiện tượng chậm hoặc không thực hiện các nghĩa vụ tài chính vẫn diễn ra
tương đối phổ biến. Việc thực hiện nghĩa vụ tài chính là một trong những
nghĩa vụ quan trọng hàng đầu của người sử dụng đất, là căn cứ thể hiện quyền
sử dụng đối với đất. Do đó, để đảm bảo tính công bằng giữa những người sử
dụng đất, khi chấm dứt quyền sử dụng đất thông qua việc bị Nhà nước thu
hồi, người sử dụng đất có trách nhiệm hoàn thành toàn bộ nghĩa vụ còn tồn
đọng. Thay vì người sử dụng đất phải nộp một khoản tiền nghĩa vụ tài chính
còn tồn đọng để được nhận khoản tiền bồi thường, Nhà nước sẽ trực tiếp khấu
trừ trên khoản tiền bồi thường mà người sử dụng đất dự kiến được nhận.
20


Theo đó, điểm b khoản 1 Điều 30 Luật đất đai 2013 quy định: “Trường

hợp số tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính đến thời điểm có quyết định thu
hồi đất lớn hơn số tiền được bồi thường, hỗ trợ thì hộ gia đình, cá nhân tiếp
tục được ghi nợ số tiền chênh lệch đó; nếu hộ gia đình, cá nhân được bố trí
tái định cư thì sau khi trừ số tiền bồi thường, hỗ trợ vào số tiền để được giao
đất ở, mua nhà ở tại nơi tái định cư mà số tiền còn lại nhỏ hơn số tiền chưa
thực hiện nghĩa vụ tài chính thì hộ gia đình, cá nhân tiếp tục được ghi nợ số
tiền chênh lệch đó”. Đồng thời, pháp luật cũng nhấn mạnh tiền bồi thường để
trừ vào số tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính chỉ gồm tiền được bồi
thường về đất, tiền được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại (nếu có).
Không được trừ các khoản tiền bồi thường do ngừng sản xuất kinh doanh, bồi
thường thiệt hại về tài sản, bồi thường chi phí di chuyển và các khoản tiền
được hỗ trợ khác vào khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai.
Mục đích của quy định này là đảm bảo các chế độ hỗ trợ phát huy tối đa vai
trò của mình trong việc ổn định đời sống của người dân có đất bị thu hồi.
Thứ năm, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất nông nghiệp bị thu hồi
được bồi thường
Nguyên tắc này đã thể hiện tính đúng đắn của pháp luật, của Đảng và
Nhà nước. Bởi người sử dụng đất đã dùng khả năng tài chính và công sức của
bản thân để đầu tư tạo dựng tài sản trên đất như cây trồng, chuồng trại, gia
súc, gia cầm nên Nhà nước có trách nhiệm bồi thường khi việc thu hồi đất
nông nghiệp dẫn tới thiệt hại về những tài sản trên. Điều này đảm bảo quyền
được hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất của người sử dụng đất
theo quy định tại khoản 2 Điều 166 Luật đất đai 2013, đồng thời đảm bảo
nguyên tắc “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh
doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa” quy định tại khoản
3 Điều 51 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
21



×