Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

ngành công nghiệp Giấy-Bột giấy ở Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.46 KB, 10 trang )

ĐHLN Việt Nam Sinh viên :Hoàng văn Duơng
Phần I:
Tổng quan về hiện trạng ngành công
nghiệp Giấy-Bột giấy ở Việt Nam

Ngành giấy là một trong những ngành được hình thành từ rất sớm tại việt
nam,khoảng năm 284, Từ giai đoạn này đến đầu thế kỷ 20, giấy được làm bằng
phương pháp thủ công để phục vụ cho việc ghi chép, làm tranh dân gian vàng mã…
Năm 1912, nhà máy sản xuất bột giấy đầu tiên bằng phương pháp công nghiệp đi
vào hoạt động với công suất 4.000 tấn/năm tại Việt Trì. Trong thập niên 1960,
nhiều nhà máy giấy được đầu tư xậy dựng nhưng hầu hết đều có công suất nhỏ(dưới
20.000 tấn/năm)như Nhà máy giấy việt trì, Nhà máy bột giấy Văn Điển;Nhà máy
giấy Đồng Nai;Nhà máy giấy Tân Mai vv..Năm 1975,tổng công xuất thiết kế của
ngành giấy Việt Nam là 72.000 tấn/năm nhưng do ảnh hưởng của chiến tranh và
mất cân đối giữa sản lượng bột giấy và giấy nên sản lượng thực tế chỉ đạt 28.000
tấn/năm.
Năm 1982,Nhà máy giấy Bãi Bằng do Chính Phủ Thụy Điển tài trợ đã đi vào sản
xuất với công suất thiết kế là 53.000 tấn bột giấy/năm và 55.000 tấn giấy/năm,dây
truyền sản xuât khép kín,sử dụng công nghệ cơ-lý và tự động hóa.Nhà máy cũng
xây dựng được vùng nguyên liệu.cơ sở hạ tầng, cơ sở phụ trợ nghư điện,hóa chất và
trường đào tạo nghề phục vụ cho hoạt động sản xuất.
Ngành giấy có những bước phát triển vượt bậc,sản lượng giấy tăng rtung bình
11%/năm trong giai đoạn 2000-2006; tuy nhiên, nguồn nguồn cung như vậy chỉ đáp
ứng được gần 64% nhu cầu tiêu dùng(năm 2008)phần còn lại vẫn phải nhập khẩu.
Mặc dù đã có sự tăng trưởng đáng kể tuy nhiên tới nay đóng góp của ngành về tổng
giá trị sản xuất quốc gia vẫn rất nhỏ.

Paper industry is one of the branches are formed very early in Vietnam, about
284, from this period to the early 20th century, paper was made to manual methods
ĐHLN Việt Nam Sinh viên :Hoàng văn Duơng
for recording, making the competition votive time ...


In 1912, manufacturing of pulp by means of the first industrial operation with a
capacity of 4,000 tons per year in Vietnam Tri. In the 1960s, many paper mills are
investing to build but most have small capacity (under 20,000 tons per year) as plant
maintenance Vietnamese paper, paper pulp factory Van Dien, Dong Nai Paper
Factory, The Tan Mai Paper etc. .. in 1975, a total design capacity of Vietnam's
paper industry is 72,000 tons per year but due to the effects of war and the
imbalance between the production of pulp
In 1982, Bai Bang paper factory by the Swedish government funding went into
production with a design capacity of 53,000 tons of pulp per year and 55,000 tons of
paper per year production line closed, using technology engine-management
computer and automatically hoa.Nha also built the original lieu.co infrastructure,
ancillary facilities nghu electrical, chemical, and field training for production
activities.
Paper industry has developed significantly, increasing production of paper rtung
average 11% per annum in the period 2000-2006, however, such sources of supply
can only meet nearly 64% of consumer demand (2008) the rest is imported. Despite
significant growth to date but the contribution of industry in total national
production value is very small.
ĐHLN Việt Nam Sinh viên :Hoàng văn Duơng
Phần II: NỘI DUNG
Nội dung chủ yếu đi sâu vào các vấn đề sau:
1. Nguyên liệu giấy:
2. Biến động giá bột giấy.
3. Trình độ công nghệ ngành giấy Việt Nam-Ảnh hưởng đến môi trường và năng
lực cạnh tranh.
4. Về cung cầu sản xuất nội địa
5. Tiêu thu giấy nội địa
6. Chính sách thúê và ảnh hưởng của việc gia nhập WTO đối với ngành giấy.
7. Triển vọng ngành Giấy Việt Nam.
+Nguyên liệu giấy:

-Giấy là sản phẩm được sản xuất từ cellulose. Nguyên liệu của công nghiệp
giấy là gỗ, tre, nứa, phế phẩm xản xuất công –nông nghiệp như rơm rạ bã mía và
giấy loại, và các dạng thực vật khác. Hiện nay có nhiều loại giấy: giấy tốt in những
loại ấn phẩm đặc biệt, giấy in viết bình thường, giấy gói, giấy sinh hoạt. Trung bình
những năm qua, nước ta nhập khoảng trên dưới 100 ngàn tấn giấy các loại mỗi năm.
Tính về số giấy sản xuất trong nước thì Việt Nam mỗi năm tiêu thụ gần 300 ngàn
tấn, tính theo đầu người đạt xấp xỉ 4kg/năm. Đây là chỉ số rất quan trọng trong việc
đánh giá mức độ phát triển văn hóa. Theo chỉ số này Việt Nam đứng cuối cùng
trong khu vực và thuộc loại thấp nhất thế giới.
Ngành sản xuất giấy Việt Nam sử dụng hai loại nguyên liệu chủ yếu là tre nứa và gỗ
lá rộng mọc nhanh (bồ đề, mỡ, keo, bạch đàn, khuynh diệp,…). Một vài cơ sở sử
dụng bã mía nhưng không đáng kể. Để sản xuất khoảng 130150 ngàn tấn bột giấy
một năm như hiện nay, ngành giấy sử dụng khoảng 700 ngàn tấn nguyên liệu qui
chuẩn (độ ẩm 50%). Nếu tính sinh khối rừng nguyên liệu tăng trưởng mỗi năm
khoảng 12÷15 tấn/ha và sản lượng rừng nguyên liệu giấy đến kỳ khai thác của Việt
Nam dưới 100 tấn/ha, thì diện tích rừng bị khai thác cho ngành giấy không phải
nhỏ.
-Lượng giấy cũ sử dụng để tái sinh trong sản xuất ở nước ta còn thấp, tuy chưa
có thống kê chính xác nhưng được đánh giá khoảng 1015% so với tổng lượng bột
giấy sử dụng. Đó là con số quá khiêm tốn vì ở nhiều nước trên thế giới chỉ số này
đạt trên dưới 50%. Nhiều vùng trong khu vực (Hàn Quốc, Đài Loan) nhập khẩu rất
nhiều giấy cũ để chế biến và tái sử dụng rất có hiệu quả vì vừa không phải khai thác
rừng tự nhiên, lại vừa không phải tổ chức sản xuất bột giấy vừa tốn kém, vừa ô
nhiễm môi trường.
- Ở Việt Nam công nghiệp giấy còn rất nhỏ bé. Năng lực sản xuất bột giấy mới
ĐHLN Việt Nam Sinh viên :Hoàng văn Duơng
chỉ đáp ứng được
1
/2 nhu cầu sản xuất giấy. Mõi năm sản xuất bột giấy đạt
khoảng 150170 ngàn tấn/năm, năng suất thiết kế của các cơ sơ sản xuất giấy vào

khoảng 250 ngàn tấn/năm..Do đó ngành công nghiệp giấy luôn phải phụ thuộc vào
nguồn bột giấy nhập khẩu.Gần đây sản lượng giấy trong nước đạt khoảng 200250
ngàn tấn/năm, trong đó bột giấy khoảng 120150 ngàn tấn. Lượng bột giấy thiếu
hụt được bù đắp bằng việc xử lý giấy cũ và bột nhập khẩu. Hiện nay chỉ có công ty
giấy Bãi Bằng và công ty cổ phần Giấy Tân Mai chủ động đáp úng được 80% tổng
sản lượng bột giấy của mình.
-Vùng nguyên liệu cho các nhà máy giấy.
Khả năng đáp ứng nhu cầu thấp và không đồng đều, nguyên liệu tập trung chủ yếu
ở miền bắc và miền trung , trong khi năng lực sản xuất chủ yếu ở miền nam.
Tổng diện tích rừng ở nước ta là 1.548 ngàn ha và tập chung chủ yếu ở Đông Bắc
Bộ và Tây Nguyên. Tuy nhiên hiện nay khả năng cung cấp của rừng hiện tại trên
thực tế còn khá thấp do phần lớn các địa phương chưa tận dụng được hết diện tích
đất trống đồi núi trọc.
+Biến động giá bột giấy.
Sản xuất giấy bằng nguyên liệu bột giấy từ gỗ,chi phí nguyên liệu chiếm từ 45%-
65% giá thành sản phẩm. Cùng với việc hàng năm các doanh nghiệp giấy Việt Nam
phải nhập khẩu một lượng bột giấy lớn thì việc biến động giá bột giấy có ảnh hưởng
rất lớn đến tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp giấy trong nước.Từ
tháng 12/2005 đến tháng 7/2008 giá bột giấy lien tục tăng.Tuy nhiên bắt đầu từ
tháng 8/2008 dưới ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu với hàng
loạt dây truyền sản xuất bột giấy bị đóng cửa,tiêu dùng giấy giảm sút trầm trọng đã
đẩy giá bột giấy vào sự suy giảm chưa từng có.Tốc độ ngày càng tăng nhanh
hơn,giá bột giấy chạm đáy vào T2/2009 thấp hơn cả giá bột giấy năm 2005.
Bât đầu từ tháng 3/2009 giá bottj giấy thế giới có xu hướng phục hồi do nhu cầu của
Trung Quốc tăng cao.6 tháng đầu năm nhập khẩu bột giấy của Trung Quốc đã đạt 7
triệu tấn, tăng 41% so với cùng kỳ năm trước.Đến tháng 7 năm 2009 giá bột giấy
các loại đã tăng tối thiểu 20% so với mức đáy trước đó.
+Trình độ công nghệ ngành giấy Việt Nam-Ảnh hưởng đến môi trường và năng
lực cạnh tranh.
-Nhìn chung trình độ công nghệ giấy Việt Nam rất lạc hậu.Điều này gây ra ô

nhiễm môi trường trầm trọng và cũng làm giảm năng lực cạnh tranh của nhành giấy.
Hiện nay nước ta có 3 phương pháp sản xuất bột giấy chính là phương pháp sử dụng
hóa chất, phương pháp cơ-lý,phương pháp tái chế giấy loại,đều các là các phương
pháp sử dụng nhiều hóa chất,năng lượng tạo ra sản phẩm sản xuất giấy in báo, sản
phẩm không đòi hỏi chất lượng cao vv..Công nghệ sản xuất bột giấy bao gồm công
nghệ công nghệ bột sulfat tẩy trắng, công nghệ sản xuất bột theo phương pháp hoái
nhiệt cơ, và phương pháp xút không thu hồi hóa chất, hoặc công nghệ sản xuât theo
phương pháp kiềm lạnh-đều là công nghệ lạc hậu dấn tới các vấn đề về môi trường .
-Bột giấy ở nước ta được sản xuất chủ yếu ở Bãi Bằng bằng phương pháp nấu
kiềm. Công ty giấy Bãi Bằng có sản lượng bột giấy chiếm 2030% sản lượng bột
ĐHLN Việt Nam Sinh viên :Hoàng văn Duơng
giấy toàn ngành. Bột giấy ở đây được nấu từ gỗ bồ đề, mỡ, bạch đàn, keo,…
(khoảng 50%) và tre nứa (khoảng 50%), theo phương pháp sulfate (dịch nấu là hỗn
hợp các dung dịch NaOH và Na
2
S). Dịch đen sau nấu được thu hồi, cô đặc và đốt
(không phải nơi nào cũng xử lý như vậy, có nơi thải trực tiếp ra nguồn nước).
Khoảng 55% sinh khối nguyên liệu hòa tan vào dịch đen biến thành CO
2
khi đốt.
Hóa chất nấu được bổ sung ở dạng sulfate natri (nên gọi là phương pháp sulfate) và
được thu hồi để dùng lại. Bởi vậy, ô nhiễm sinh ra ở khu này chủ yếu là khí có
mùi, chất hữu cơ, hóa chất kiềm tính rò rỉ và khói lò đốt thu hồi.
Tổng lượng clo dùng cho tẩy trắng khoảng 100 kg (Cl
2
hoạt tính) cho một tấn bột.
Lượng xút là khoảng 30 kg/tấn bột. Nếu tính mỗi ngày ở đây người ta sản xuất
khoảng 150 tấn bột giấy tẩy trắng thì riêng ở khâu tẩy người ta đã sử dụng và thải ra
khoảng 15 tấn Clo và các hợp chất của nó, 4050 tấn xút. Thêm vào đó là khoảng
15 tấn hợp chất hữu cơ bị hòa tan trong quá trình tẩy trắng và đi ra theo nước thải.

Như vậy, có thể thấy được mức độ tác động tới môi trường ở công đoạn này là rất
đáng kể.
-Công đoạn sản xuất giấy bao gồm nghiền bột, pha chế với các chất phụ gia, xeo
giấy và hoàn thiện sản phẩm. Tải trọng môi trường ở giai đoạn này không lớn vì
nước sản xuất được quay vòng sử dụng theo chu trình khép kín, nước thải chỉ đem
theo một lượng nhỏ hóa chất không độc hại, có pH thường là 5,56,0 [16], và một
tỷ lệ rất nhỏ sơ sợi vụn, ngắn thoát qua lưới xeo. Việc áp dụng các tiến bộ khoa học
kỹ thuật trong sử dụng quay vòng nước trắng (nước trong chu trình) như sử dụng
chất tuyển nổi thu hồi xơ sợi và chất phụ gia, tận thu xơ sợi trên tuyến nước thải
như ở công ty giấy Bãi Bằng đã làm giảm đáng kể tình trạng ô nhiễm môi trường.
-Tuy nhiên, điều đáng nói là ngoài công ty giấy Bãi Bằng có thiết kế công nghệ
và trang thiết bị khá hoàn chỉnh, nhiều xí nghiệp giấy khác sản xuất theo phương
pháp công nghệ rất “không môi trường”. Đó là công nghệ nấu bột giấy từ những
loại nguyên liệu khác nhau bằng dung dịch xút (NaOH) ở nhiệt độ cao
(130170
0
C), không có thu hồi hóa chất. Toàn bộ dịch đen sau nấu (hỗn hợp của
các hóa chất và các thành phần nguyên liệu đã hòa tan) được thải ra môi trường.
Các xí nghiệp sản xuất giấy theo công nghệ như vậy có nước thải với hàm lượng
BOD
5
và COD rất cao, vượt xa tiêu chuẩn cho phép.
-Ở hầu hết các địa phương có các cơ sở sản xuất giấy thì đó chính là các điểm
nóng về ô nhiễm môi trường công nghiệp. Đó là công ty giấy Bãi Bằng và nhà máy
giấy Việt Trì ở Phú Thọ, công ty giấy Đồng Nai, công ty giấy Tân Mai (Đồng Nai),
công ty giấy Vĩnh Huê, công ty giấy Linh Xuân ở Thủ Đức (Tp Hồ Chí Minh), các
công ty giấy Hải Phòng, Thanh Hóa…
Ngoài nguyên nhân công nghệ sản xuất có độ ô nhiễm cao, một nguyên nhân quan
trọng là khâu xử lý chất thải còn rất hạn chế. Ngoài công ty giấy Bãi Bằng có một
vài biện pháp xử lý sơ bộ, hầu hết các cơ sở không có hệ thống trang thiết bị xử lý

chất thải. Các chất thải tạo thành trong sản xuất hoàn toàn tự do đi ra môi trường
nước và không khí. Về phương diện này, lịch sử 35 năm phát triển của ngành giấy
Việt Nam đã để lại gánh nặng đáng kể. Trong bối cảnh sản xuất kinh doanh khó
khăn hiện nay các doanh nghiệp hầu như không có khả năng đầu tư trang thiết bị xử

×