Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Thực Hiện Pháp Luật Về Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Từ Thực Tiễn Huyện Hoài Nhơn, Tỉnh Bình Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH QUỐC PHONG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỂN
HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH QUỐC PHONG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỂN
HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN MINH ĐỨC

Hà Nội, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật thuộc Học viện
khoa học xã hội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Huỳnh Quốc Phong


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ TRONG
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ8
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi
hành án dân sự ................................................................................................... 8
1.2. Nguyên tắc thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự........... 17
1.3. Trình tự, thủ tục thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ... 23
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành
án dân sự.......................................................................................................... 31
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG
CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH
ĐỊNH. ............................................................................................................. 37
2.1. Những đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội của huyện Hoài Nhơn, tỉnh

Bình Định có liên quan đến thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân
sự ..................................................................................................................... 38
2.2. Tình hình cưỡng chế thi hành án dân sự tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình
Định ................................................................................................................. 39
2.3. Tình hình thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự huyện
Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định ............................................................................. 43
2.4. Những ưu điểm và hạn chế, bất cập trong việc thực hiện pháp luật về
cưỡng chế thi hành án dân sự tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định ............. 53
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH
ÁN DẤN SỰ TỪ THỰC TIỂN HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH
ĐỊNH .............................................................................................................. 59


3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi
hành án dân sự từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định ..................... 59
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án
dân sự .............................................................................................................. 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Nghĩa đầy đủ

Từ viết tắt

BLDS
BLTTDS


Bộ luật Dân sự
Bộ luật Tố tụng dân sự

CBCC

Cán bộ, công chức

CHV

Chấp hành viên

QSDĐ

Quyền sử dụng đất

TAND

Tòa án nhân dân

THA
THADS
TPL
UBND
VKSND
XHCN

Thi hành án
Thi hành án dân sự
Thừa phát lại

Ủy ban nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân
Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
THADS là công đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng, bảo đảm cho bản
án, quyết định của tòa án, quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh,
phán quyết của Trọng tài thương mại được thi hành trên thực tế, góp phần
tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, tổ chức, cá nhân. Qua đó, góp phần giữ vững ổn định chính trị
- xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước và bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
Để hiện thực hóa các quyền, nghĩa vụ đã được ghi nhận trong bản án,
quyết định của Tòa án cũng như quyết định của các cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền được thi hành theo thủ tục THADS thì bên cạnh việc động viên, thuyết
phục đương sự tự nguyện THA thì nhưng đương sự không tự nguyện THA thì
phải thực hiện biện pháp cưỡng chế THADS. Tuy nhiên, cưỡng chế THADS
trực tiếp tác động đến quyền về tài sản, về nhân thân của người phải THA và
những người có liên quan, làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và
nghĩa vụ của chủ thể. Do vậy, các quy định về cưỡng chế THADS cần phải
đáp ứng tiêu chí để bảo đảm hiệu quả của việc thi hành án, chống lại hành vi
trốn tránh, cản trở, chống đối, trì hoãn việc thi hành án, đồng thời phải bảo
đảm tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan.
Các quy định về biện pháp, trình tự, thủ tục cưỡng chế THADS được Luật
THADS quy định phù hợp với tính chất của từng nghĩa vụ thi hành án.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác THADS, trong giai đoạn xây
dựng và bảo vệ đất nước, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng đến
hoạt động xây dựng, hoàn thiện và các văn bản về pháp luật THADS, trong

đó đáng chú ý là Luật THADS năm 2008 và Luật THADS được sửa đổi, bổ

1


sung một số điều của Luật THADS năm 2014. Luật THADS ra đời là một sự
đột phá rất lớn để nâng cao hiệu quả công tác THADS, giúp bảo vệ tốt hơn
các quyền và nghĩa vụ dân sự của người được thi hành án, quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo bản án, quyết định
của Tòa án.
Mặc dù vậy, sau một thời gian áp dụng trên thực tế, pháp luật về
THADS đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế nhất định, nổi bật trong đó là những
bất cập khi thực hiện pháp luật về cưỡng chế THADS. Thực tiễn cho thấy:
Việc thực hiện pháp luật về cưỡng chế THADS hiện nay vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu thực tiễn đặt ra, vẫn còn tình trạng cưỡng chế kéo dài, cưỡng
chế không đúng tài sản, không đúng quy định của pháp luật gây gây bức xúc
cho người dân, cho dư luận xã hội. Ngoài ra, xét về phương diện xây dựng
pháp luật, một số quy định của pháp luật về cưỡng chế THADS chưa được
xây dựng trên những cơ sở lý luận đúng đắn, khoa học, còn có sự chồng chéo,
chưa phù hợp với điều kiện thực tế. Vì vậy, còn gây ra sự lúng túng cho người
có thẩm quyền khi thực hiện. Mặt khác, sự chống đối quyết liệt, thậm chí có
trường hợp dùng tính mạng của mình để đe dọa, cản trở việc cưỡng chế THA
luôn diễn ra khá phổ biến, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, xã
hội.
Tất cả những vấn đề trên, làm cho hoạt động thực hiện pháp luật về
cưỡng chế THADS chưa phát huy hết hiệu quả, quyền lợi của các bên đương
sự, từ đó tạo ra dư luận không tốt và gây bức xúc trong nhân dân.
Trước thực tiễn đó đã đặt ra những đòi hỏi khách quan về việc cần có sự
đầu tư nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật pháp luật về cưỡng chế THADS
cũng như những thực trạng và những phương hướng, giải pháp nhằm nâng

cao hiệu quả của công tác THADS. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một công
trình nghiên cứu nào tiếp cận chuyên sâu và tổng thể, cũng như đưa ra các

2


giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đối với vấn đề này. Xuất phát từ các lý do
nêu trên, là một CHV đang công tác tại Chi cục THADS huyện Hoài Nhơn,
tỉnh Bình Định, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Thực hiện pháp luật về cưỡng
chế thi hành án dân sự từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định” để
làm đề tài của Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật hành
chính là việc làm có tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài này đã có nhiều công trình nghiên cứu về cưỡng
chế THADS ở nhiều góc độ khác nhau thể hiện dưới dạng đề tài khoa học,
luận án, luận văn, sách, bài viết tạp chí cụ thể:
- “Bất cập trong quy định về việc lập kế hoạch cưỡng chế Thi hành án
dân sự”, Hồ Quân Chính, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Hà Nội, số chuyên đề
tháng 3/2014. Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến khó khăn trong việc
huy động lực lượng để cưỡng chế theo quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời của Tòa án. Trên cơ sở đó, tác giả cho rằng trước khi tổ chức cưỡng
chế THADS mà có huy động lực lượng thì CHV phải lập kế hoạch cưỡng chế;
trừ trường hợp tổ chức cưỡng chế nhưng không phải huy động lực lượng tham
gia cưỡng chế thì CHV chỉ ra thông báo cưỡng chế THA và quy định rõ cơ
chế phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong trường hợp phải cưỡng chế
ngay và có huy động lực lượng.
- Bài viết: “Một số vấn đề lưu ý về cưỡng chế THADS” của tác giả Tuấn
Lê, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề THADS, 2010. Trong bài viết
này, tác giả chỉ ra một số lưu ý trong đối với trình tự, thủ tục kê biên như:
Điều kiện, lập kế khoạch cưỡng chế, những trường hợp không được cưỡng

chế và Thông báo cưỡng chế…
- Đặc san: “Cưỡng chế THADS; khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu
nại, tố cáo về THADS theo quy định của Luật THADS năm 2008”, của ThS.

3


Lê Anh Tuấn và ThS. Bùi Công Quang trên đặc san tuyên truyền pháp luật số
6/20009, Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính
phủ. Trong đặc san này, các quy định về cưỡng chế THADS được phân tích
tương đối toàn diện, đầy đủ.
- Chuyên khảo “Một số vấn đề lý luận và thực tế về cưỡng chế thi hành
án dân sự” của Tiến sỹ Lê Anh Tuấn của Nhà xuất bản Tư pháp năm 2019.
Chuyên khảo này tác giả đã nêu một số vấn đề lý luận và thực tiễn cũng như
giải pháp nâng cao hiệu quả cưỡng chế THADS.
- “Giáo trình Kỹ năng THADS” gồm 02 tập, tập 1: Phần nghiệp vụ, và
tập 2: Phần chung, do Tiến sỹ Lê Thu Hà (chủ biên), Học viên Tư pháp xuất
bản năm 2012. Công trình này phân tích đầy đủ các góc độ của biện pháp
cưỡng chế trên cơ sở đưa ra khái niệm và sự phân tích tỷ mỉ từng biện pháp
cưỡng chế với những trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
- “Một số vướng mắc trong phối hợp thực hiện quy định về cưỡng chế
trả giấy tờ” của ThS. Lê Thị Duyên, kiến nghị Tòa án có thẩm quyền thụ lý
đơn khởi kiện của người dân về tranh chấp dân sự liên quan đến giấy chứng
nhận quyền sở hữu tài sản khi có yêu cầu của người dân, cơ quan, tổ chức;
Mỗi công trình đều nêu ra được những vấn đề nhất định về cưỡng chế
THADS, nhưng chưa toàn diện, chưa xoáy sâu vào những hạn chế hay chưa
có nhiều phương hướng, giải pháp hữu hiệu. Việc nghiên cứu, tìm hiểu kỹ các
quy định của pháp luật và các công trình nghiên cứu có liên quan đến cưỡng
chế THADS đã tạo ra cho Luận văn có góc tiếp cận theo hướng chuyên sâu và
tổng thể về hoạt động thực hiện pháp luật về cưỡng chế THADS và có thể

khắc phục được những hạn chế trong các công trình nghiên cứu trước. Trên
cơ sở đó, góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả việc thực hiện
pháp luật về cưỡng chế THADS, đáp ứng yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Có thể nói đề tài này không trùng lắp với các công trình đã công bố, có ý

4


nghĩa lý luận và thực tiển.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn hướng đến mục đích:
- Làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành đối với việc thực hiện
pháp luật về cưỡng chế THADS từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình
Định.
- Chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, bất cập và khó khăn vướng mắc khi
thực hiện các biện pháp cưỡng chế THA theo quy định của pháp luật;
- Đưa ra những phương hướng, giải pháp hiệu quả để khắc phụ những
hạn chế, bất cập và khó khăn vướng mắc đã nêu. Trên cơ sở đó, đề xuất một
số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật hiện hành.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu, Luận văn xác định các nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện pháp luật về
cưỡng chế THADS;
Hai là, Phân tích, đối chiếu với lý luận để đánh giá thực trạng các quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành về cưỡng chế THADS và khảo sát,
đánh giá việc thực hiện pháp luật về cưỡng chế THADS từ thực tiễn huyện
Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Trên cơ sở đó, chỉ ra những hạn chế, bất cập và
khó khăn vướng mắc cũng như xác định các nguyên nhân để làm cơ sở cho
việc đề xuất các phương hướng, giải pháp đột phá trong việc thự hiện pháp

luật về cưỡng chế THADS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về cưỡng chế
THADS và thực hiện pháp luật về cưỡng chế THADS từ thực tiễn huyện Hoài

5


Nhơn, tỉnh Bình Định. Trên cơ sở, đánh giá thực trạng và những ưu điểm, hạn
chế, bất cập trong việc thực hiện pháp luật về cưỡng chế THADS hiện nay để
đưa ra các phương hướng, giải pháp để nâng cao hiệu quả và hoàn thiện các
quy định của pháp luật về cưỡng chế THADS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn là những vấn đề lý luận và các
quy phạm pháp luật hiện hành của Việt Nam xoay quanh vấn đề thực hiện
pháp luật về cưỡng chế THADS, Các phân tính, đánh giá thực trạng việc thực
hiện pháp luật về cưỡng chế THADS qua thực tiễn địa bàn huyện Hoài Nhơn,
tỉnh Bình Định, từ năm 2014 đến nay (không nghiên cứu Thi hành án dân sự
trong quân đội và Thừa phát lại).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác –
Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Trong đó, các vấn
đề lý luận và thực tiễn về cưỡng chế THADS được phân tích trên quan điểm
biện chứng, sự tác động qua lại giữa các quy phạm pháp luật và thực tiễn thực
thi tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ thực trạng công tác thực hiện pháp luật về cưỡng chế THADS
từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, tác giả đã áp dụng một số

phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, chứng minh, so sánh,
phương pháp quy nạp, diễn dịch, diễn giải và phương pháp nghiên cứu xã hội
học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Luận văn có những ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau:
- Tổng hợp, phân tích và sắp xếp, hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ

6


bản về cưỡng chế THADS như: khái niệm, đặc điểm, vai trò của việc thực
hiện pháp luật về cưỡng chế THADS… Từ đó, giúp cho người đọc có thể
hiểu rõ, đánh giá chính xác bức tranh về việc thực hiện các biện pháp cưỡng
chế THADS. Đưa ra những phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả
việc thực hiện pháp luật về cưỡng chế THADS tại Việt Nam, phù hợp với yêu
cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền và đường lối đổi mới được Đảng và
nhà nước đề ra.
- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo trong lĩnh vực THADS, có thể là
tài liệu tham khảo để giảng dạy trong các trường đại học chuyên ngành về luật
học.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
Luận văn có kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý trong thực hiện pháp luật về
cưỡng chế THADS.
Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật về cưỡng chế THADS tại
huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về cưỡng chế THADS từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.


7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ TRONG THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thực hiện pháp luật về
cưỡng chế thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về thực hiện pháp luât về cưỡng chế thi
hành án dân sự
Khái niệm Thi hành án, Thi hành án dân sự
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm THA và
THADS.
Loại quan điểm thứ nhất cho rằng, THA là hoạt động tố tụng. Song,
THA là hoạt động tố tụng nào và nằm ở giai đoạn nào của quá trình tố tụng
thì lại có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, THA là một giai đoạn
tố tụng và là công đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng. Ý kiến khác cho
rằng, THA là một thủ tục tố tụng đặc biệt mang cả đặc trưng của tố tụng dân
sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính, THA vừa tôn trọng quyền tự định
đoạt của đương sự, vừa biểu hiện tính cưỡng chế của Nhà nước. Có loại ý
kiến cho rằng, THA thuộc loại tố tụng “hỗn hợp”, vì THA có rất nhiều trình
tự, thủ tục và đặc trưng giống các loại tố tụng khác.
Quan điểm thứ hai cho rằng: THA không phải là hoạt động tố tụng, bởi
THA có mục đích khác với mục đích tố tụng, THA là quá trình tiến hành các
hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực
pháp luật. Do đó, Thi hành án mang bản chất của hoạt động hành chính – tư
pháp. [4,tr1]
Quan điểm thứ ba cho rằng, THA là hoạt động tư pháp nên phải gắn
với khâu hoạt động xét xử để tạo một cơ chế chặt chẽ và có hiệu quả nhằm


8


đưa ra và đảm bảo thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết
định khác theo quy định của pháp luật. [3,tr17]
Tuy nhiên, để làm rõ thuật ngữ này, theo tác giả thì chúng ta cần hiểu rõ
mục đích, ý nghĩa, vai trò của THA cũng như THADS, trên cơ sở đó đưa ra
khái niệm phù hợp với thực tiễn và phản ánh toàn diện, đầy đủ về hoạt động
này.
Mục đích của THA và THADS là đưa bản án, quyết định của tòa án và
các cơ quan có thẩm quyền khác ra thi hành trên thực tế. Ý nghĩa của THA và
THADS là đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của Nhà nước, người dân, cá
nhân, tố chức. Đồng thời đảm bảo tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật
và cao hơn nữa là ổn định trật tự chính trị - xã hội, làm cơ sở để xây dựng và
phát triển kinh tế quốc gia. Xuất phát từ đó, chúng ta không nhất thiết phải coi
THA và THADS là hoạt động tố tụng, hay là hoạt động tư pháp hoặc là hoạt
động hành chính – tư pháp. Bởi thực chất nếu nó là hoạt động gì đi nữa thì
mục đích, ý nghĩa của nó mang lại chỉ có một. Chính vì vậy chúng ta cần hiểu
một cách đơn giản nhất về khái niện này như sau:
THA là hoạt động do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành
để thi hành bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của các cơ quan,
tổ chức khác do pháp luật quy định, nhằm bảo đảm lợi ích Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
THADS là thi hành các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án và các
quyết định khác về dân sự theo quy định của pháp luật.
Cưỡng chế, cưỡng chế THADS và thực hiện pháp luật về cưỡng chế
THA dân sự là gì?
Qua nghiên cứu, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau định nghĩa về
thuật ngữ cưỡng chế. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Nhà
xuất bản thanh niên ấn hành năm 2001 “cưỡng chế là dùng quyền lực nhà


9


nước bắt buộc người khác phải tuân theo”[23,tr196]. Theo cuốn Từ điển
Luật học do Nhà xuất bản Từ điển bách khoa ấn hành năm 1999 thì cưỡng chế
được giải thích là “những biện pháp bắt buộc cá nhân hay tổ chức phải thực
hiện và phục tùng mệnh lệnh nhất định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền”[21,tr323]. Theo cuốn Đại Từ điển tiếng Việt do tác giả Nguyễn Như
Ý (chủ biên), Trung tâm Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Bộ Giáo dục và
Đào tạo do Nhà xuất bản Văn hóa thông tin ấn hành năm 1998 thì cưỡng chế
là “bắt buộc phải tuân theo bằng sức mạnh quyền lực: tính chất cưỡng chế
của pháp luật”
Chỉ có tổ chức hay cá nhân được pháp luật quy định mới được ra quyết
định cưỡng chế, quyết định lực lượng cưỡng chế. Cưỡng chế phải được tiến
hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ. Cá nhân hay tổ chức là đối tượng cưỡng
chế có thể bị buộc phải làm hay không được làm một việc nhất định về quyền
tài sản hay quyền nhân thân. Biện pháp sử dụng trong cưỡng chế là bạo lực về
mặt vật hoặc tinh thần, thường được áp dụng khi quyết định đã có hiệu lực
pháp luật nhưng không được thực hiện một cách tự nguyện.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm của thuật ngữ
“Cưỡng chế” nhưng suy cho cùng: Cưỡng chế là cách sử dụng quyền lực nhà
nước bắt buộc cá nhân, tổ chức thực hiện hoặc không thực hiên một công việc
nhất định trái với ý muốn của họ.
Vậy cưỡng chế THADS là gì?
Hiện nay, pháp luật về THADS chưa có định nghĩa về khái niệm cưỡng
chế THADS mà chỉ có các quy định về đối tượng cưỡng chế, điều kiện cưỡng
chế và cách thức thực hiện các biện pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, qua nghiên
cứu các quy định đó, tác giả cho rằng: Cưỡng chế THADS là biện pháp cuối
cùng của hoạt động THADS, do CHV hoặc TPL thực hiện nhằm buộc người

phải THA có điều kiện THA nhưng không tự nguyện thi hành phải thực hiện

10


những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật.
Thực tế cho thấy, hiệu quả cưỡng chế THADS phụ thuộc rất nhiều vào
việc thực hiện pháp luật về cưỡng chế THADS. Thế nhưng, thực hiện pháp
luật là gì và thực hiện pháp luật về cưỡng chế THADS là gì?
Thực hiện pháp luật là hành vi của chủ thể (hành động hoặc không hành
động) không vượt quá khuôn khổ mà pháp luật quy định. Thực hiện pháp luật
có thể là một xử sự có tính chủ động, được tiến hành bằng một thao tác nhất
định nhưng đó cũng có thể là một xử sự có tính thụ động, tức là không tiến
hành vượt xử sự bị pháp luật cấm.
Từ đó rút ra khái niệm:
Thực hiện pháp luật về cưỡng chế THADS là hình thức thực hiện các
quy định của pháp luật về cưỡng chế THADS, do chủ thể là CHV hoặc TPL
tiến hành bằng cách ban hành các quyết định cưỡng chế THADS và tổ chức
thi hành quyết định đó để buộc người phải THA, người được THA, những cá
nhân, cơ quan, tổ chức liên quan phải thực hiện hoặc không được thực hiện
hành vi hoặc thực hiện nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật. Trên cơ sở đó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ
về tài sản, về dân sự của người phải THA, người được THA, những cá nhân,
cơ quan, tổ chức liên quan.
Qua khái niện trên, có thể rút ra các đặc điểm cưỡng chế THA dân
sự, như sau:
Thứ nhất, cưỡng chế THADS thể hiện tính quyền lực của nhà nước
Tính quyền lực nhà nước được thể hiện ở sự bắt buộc các tổ chức, cá
nhân tôn trọng và phối hợp thực hiện để đảm bảo sự thành công cho việc

cưỡng chế, trong đó kể cả việc huy động lực lượng cảnh sát để bảo vệ đoàn
cưỡng chế THA cũng như trấn áp những cá nhân có hành vi cản trở, chống

11


đối làm ảnh hưởng đến việc cưỡng chế thi hành án.
Vì vậy đặc điểm của cưỡng chế THADS là dùng quyền lực Nhà nước để
bảo vệ và khôi phục các quyền về tài sản, các quyền về dân sự khác cho
đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo bản án, quyết định
hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền đã có hiệu lực thi hành. Nhà nước
thực hiện cưỡng chế THADS thông qua chủ thể được Nhà nước trao quyền,
được sử dụng quyền lực nhà nước khi cưỡng chế THADS.
Thứ hai, cưỡng chế THADS được thực hiện thông qua nhiều biện pháp
cưỡng chế THADS khác nhau.
Hiện nay, theo pháp luật về THADS có các biện pháp cưỡng chế như:
khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải
thi hành án; Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; kê biên, xử lý tài
sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ; Khai
thác tài sản của người phải thi hành án. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao
quyền tài sản, giấy tờ; Buộc người phải THA thực hiện hoặc không được thực
hiện công việc nhất định.
Thứ ba, cưỡng chế THADS hướng đến nhiều chủ thể khác nhau:
Một là, chủ thể có thẩm quyền thực hiện pháp luật về cưỡng chế
THADS; hai là, những chủ thể bị thực hiện biện pháp cưỡng chế.
- Chủ thể có thẩm quyền thực hiện pháp luật về cưỡng chế THADS
Theo quy định của Luật THADS và Nghị quyết số 107/2015/NQ-QH
ngày 26/11/2015 của Quốc hội về thực hiện chế định TPL thì chủ thể có thẩm
quyền thực hiện biện pháp cưỡng chế THADS là CHV của cơ quan THADS
và TPL của Văn phòng TPL. Khi thực hiện pháp luật về cưỡng chế THADS,

CHV và TPL được ban hành quyết định cưỡng chế và tổ chức thực hiện quyết
định đó.
- Những chủ thể bị thực hiện biện pháp cưỡng chế

12


Theo quy định của pháp luật về THADS đối tượng chủ yếu bị cưỡng
chế THADS là người phải THA (người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan,
tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành[25,
khoản 3 Điều 3]), tuy nhiên trong một số trường hợp cụ thể đối tượng bị
cưỡng chế còn được mở rộng đến các đối tượng khác, gồm: người đang giữ
tài sản, giấy tờ của người phải thi hành án, gồm: Người thứ ba đang giữ tài
sản của người phải thi hành án ( Điều 91, Luật THADS) hoặc người thứ ba
đang giữ giấy tờ phải giao, trả của người phải thi hành án được xác định trong
khoản 1, Điều 116, Luật THADS.
Thứ tư, Cưỡng chế THADS là công việc chung của một hệ thống chính
trị, bắt buộc các cơ quan, ban ngành có liên quan phải tham gia phối hợp và
hỗ trợ.
Xuất phát từ sự chống đối của người phải thi hành án, nên việc tổ chức
cưỡng chế THADS bắt buộc phải có sự tham gia của nhiều cơ quan, ban
ngành liên quan, một mặt nhằm ngăn chặn các hành vi chống đối quyết liệt có
thể xảy ra làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của họ cũng như
của những người tham gia cưỡng chế; mặt khác tạo nên tính khách quan,
minh bạch theo đúng quy định của pháp luật.
Khi tổ chức cưỡng chế, tùy theo tính chất, mức độ chống đối của người
phải THA và những người xung quanh; tùy theo hình thức cưỡng chế thực
hiện mà mà đề nghị các cơ quan tổ chức nhà nước có liên quan tham gia, phối
hợp cưỡng chế phù hợp,
Thứ năm, thực hiện pháp luật về cưỡng chế THADS là biện pháp ép

buộc nhưng mang tính nhân văn, cụ thể:
Một là, khi cưỡng chế đối với một số tài sản đặc thù, người thực hiện
việc cưỡng chế phải trích lại một phần giá trị tài sản để đảm bảo cuộc sống tối
thiếu cho người bị cưỡng chế. Vấn đề này được Luật THADS quy định đối

13


với việc cưỡng chế: trừ vào thu nhập (Khoản 3, Điều 78 Luật THADS); Khi
kê biên hoa lợi là lương thực, thực phẩm (Điều 97, Luật THADS); giao tài
sản là nhà ở duy nhất (khoản 5, Điều 115 Luật THADS); Thu tiền từ hoạt
động kinh doanh của người phải THA (Điều 79 Luật THADS).
Hai là, không được tổ chức cưỡng chế trong một số thời điểm nhạy cảm,
như: thời điểm gần tết, những ngày lễ lớn, những ngày nghỉ và khoảng thời
gian nghỉ ngơi ban đêm của công dân. (khoản 2 Điều 46 Luật THADS).
Ba là, không được kê biên tài sản của người được THA dùng để phục vụ
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày hoặc phục vụ lợi ích cộng đồng, xã hội, như
quy định tại khoản 2, khoản 3, Điều 87 Luật THADS.
Bốn là, trước thời điểm khi tiến hành kê biên hoặc trước thời điểm bán
đấu giá tài sản bị cưỡng chế, đương sự vẫn có quyền thỏa thuận. Tuy nhiên,
thỏa thuận đó không được trái với quy định của pháp luật và chuẩn mực đạo
đức xã hội.
Năm là, không thực hiện cưỡng chế THADS trong trường hợp: Người
phải bị cưỡng chế bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở
lên; bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa
án (khoản 1 Điều 48 Luật THADS).
Có thể nói, so với các ngành luật khác, tính nhân văn của pháp luật về
cưỡng chế THADS là sự kết tinh giữa tình người và đạo lý pháp luật. Nhờ đó,
dù cưỡng chế THADS là biện pháp ép buộc nhưng vẫn đảm bảo quyền sống,
quyền mưu cầu hạnh phúc cho người phải THA.

1.1.2. Vai trò của thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
Thứ nhất, Cưỡng chế THADS nhằm bảo vệ pháp luật.
Pháp luật là quy tắc, hành vi của công dân do Nhà nước quy định, ban
hành buộc phải tuân theo, không được trái phạm, là tổng hợp các quy tắc xử
sự thể hiện ý chí của Nhà nước có tính bắc buộc chung do Nhà nước đặt ra

14


hoặc thừa nhận và được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng
chế. Các quy tắc xử sự do Nhà nước đặc ra hoặc thừa nhận không phải dễ
dàng được tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân tự nguyện thực hiện, do đó
trong trường hợp nhất định Nhà nước phải cưỡng chế để bảo đảm thực hiện.
Pháp luật THADS quy định đương sự tự nguyện thực hiện các quyền, nghĩa
vụ theo bản án, quyết định, tuy nhiên trong trường hợp đương sự không tự
nguyện THA thì phải cưỡng chế buộc thực hiện nghĩa vụ THADS.
Pháp luật về cưỡng chế THADS được thực hiện trong thực tiễn, tức là
quá trình hoạt động có mục đích mà các chủ thể pháp luật bằng hành vi của
mình thực hiện các quy định pháp luật về cưỡng chế THADS trong thực tế
đời sống, với hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và thực hiện
pháp luật về cưỡng chế THADS làm cho pháp luật được bảo vệ, bản án, quyết
định được thi hành. Vì vậy cưỡng chế THADS có vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ pháp luật, bảo đảm pháp luật về cưỡng chế THADS được thi hành
trên thực tế.
Thứ hai, Cưỡng chế THADS bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, tổ chức, công dân.
Quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân được bảo vệ
bởi nhiều cơ chế và ở nhiều giai đoạn khác nhau trong quá trình thực hiện cơ
chế bảo vệ. Trong việc thi hành bản án, quyết định dân sự có thể đương sự tự
nguyện thi hành nhưng cũng có thể không tự nguyện thi hành, do đó nếu

đương sự không tự nguyện thi hành thì phải có cơ chế bắc buộc phải thi hành,
cơ chế đó chính là cưỡng chế THADS. Nếu cưỡng chế THADS thành công
thì bản án, quyết định được tôn trọng và thi hành trên thực tế, quyền và lợi ích
theo bản án, quyết định được bảo đảm thi hành. Vì thế, cưỡng chế THADS có
vai trò bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, các đương sự, tổ chức và cá nhân.
Thứ ba, Cưỡng chế THADS góp phần nâng cao ý thức pháp luật của các

15


chủ thể trong xã hội.
Bản án, quyết định là sản phẩm của quá trình điều tra, truy tố và xét xử
của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền do pháp luật quy định; yêu cầu đặt ra là
bản án, quyết định được thi hành nghiêm minh để khẳng định tính đúng đắn,
hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành ấn dân sự, nâng cao
ý thức pháp luật về THADS. Tuy nhiên, trường hợp người phải THA hoặc cá
nhân, tổ chức liên quan chống đối, trì hoãn, cản trở việc THA thì cưỡng chế
THADS là biện pháp quan trọng đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật;
răn đe, phòng ngừa những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thi hành
án. Thông qua cưỡng chế THADS, ý thức pháp luật được nâng lên bởi sự
nhận thức pháp luật sâu sắc hơn từ nhiều chủ thể do họ chú trọng đến việc
hiểu pháp luật và thực hiện pháp luật. Mặt khác cưỡng chế THADS cũng là
kên tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật cho các chủ
thể trong xã hội trong việc nhận thức đúng các quy định pháp luật, hành vi vi
phạm, thiếu sót của mình để từ đó kịp thời sửa chữa, khắc phục và tuân thủ
nghiêm các quy định của pháp luật cũng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt
động xét xử của Tòa án đảm bảo uy tín của Tòa án và cơ quan THADS.
Chính vì thế cưỡng chế THADS góp phần làm cho các chủ thể có tư tưởng,
tình cảm thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính công bằng hay không công
bằng, đúng đăn hay không đúng đắn của pháp luật về cưỡng chế THADS,

nâng cao ý thức pháp luật.
Thứ tư, cưỡng chế THADS góp phần nâng cao hiêu của công tác điều
tra, truy tố, xét xử và THADS.
Qúa trình điều tra, truy tố, xét xử trải qua nhiều khâu, nhiều công đoạn,
với những hoạt động cụ thể được tiến hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy
định và phải được thi hành. Bản án, quyết định được các đương sự tự nguyện
thi hành thể hiện tính đúng đắn, hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét xử

16


và THADS. Tuy nhiên trong trường hợp phải cưỡng chế THADS thì có thể
thể hiện sự chưa đồng tình của người phải THA về tính đúng đắn của bản án,
quyết định và như vậy dẫn đến sự hoài nghi đối với công tác điều tra, truy tố,
xét xử và THADS. Vì thế phải soi lại quá trình, điều tra, truy tố, xét xử và
THADS để xác định có đúng đắng hay chưa, từ đó phát huy hiệu quả của
những hoạt động đúng đắn và khắc phục những hạn chế, tồn tại, vi phạm
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và THADS nhằm bảo đảm ngày càng
nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố xét xử và THADS. Mặt khác quá
trình hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và THADS đúng đắn nhưng người
phải THA không tự nguyện THA thì phải cưỡng chế THADS nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử và THADS, bản án, quyết
định được nghiêm chỉnh thi hành.
1.2. Nguyên tắc thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
Cưỡng chế THADS là việc sử dụng quyền lực nhà nước để buộc những
đối tượng phải THA tuân thủ, tôn trọng pháp luật nhằm đảm bảo quyền, lợi
ích hợp pháp cho cá dân, công dân, tổ chức, bảo vệ pháp chế VKSND nói
chung và đảm bảo hiệu lực thực thi của bản án, quyết định đã có hiệu lực. Tuy
nhiên, khi thực hiện pháp luật về cưỡng chế THADS, người có thẩm quyền
bắt buộc phải tuân thủ những nội dung và nguyên tắc do pháp luật quy định

như sau.
1.2.1. Nguyên tắc về thời gian tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự
Cưỡng chế THADS là biện pháp được thực hiện để buộc đối tượng có
nghĩa vụ THA thi hành đúng nội dung quyết định, bản án. Mặc dù vậy, không
phải vào thời điểm nào cũng có thể thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự.
Pháp luật về THADS quy định không được tổ chức cưỡng chế THADS vào
các thời điểm sau:
Khi chưa hết thời gian tự nguyện THA

17


Thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi
hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết
định thi hành án ( khoản 1 Điều 45 Luật THADS). Trong thời gian này, người
phải THA không bị cơ quan THADS áp dụng biện pháp cưỡng chế THA trừ
trường hợp cần ngăn chặn người phải THA có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài
sản hoặc hành vi khác nhằm trốn tránh việc thi hành án thì CHV áp dụng ngay
biện pháp cưỡng chế (khoản 2 Điều 45 Luật THADS).
Các mốc thời gian không thực hiện việc cưỡng chế THA dân sự
Ngoài quy định không tổ chức cưỡng chế THADS trong thời gian tự
nguyên THA, Luật THADS cũng quy định một số mốc thời gian không được
thực hiện biện pháp cưỡng chế THADS như sau:
- Không tổ chức cưỡng chế vào ban đêm (từ 22 giờ đến 06 giờ sáng
hôm sau)
Ban đêm là thời gian của mọi cá nhân, công dân nghỉ ngơi để đảm bảo
sức khỏe sau một ngày làm việc căng thẳng, vất vả. Vì vậy, để tôn trọng
quyền con người, Luật THADS quy định: Không tổ chức cưỡng chế thi hành
án trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau.
- Không tổ chức cưỡng chế vào các ngày nghỉ, ngày lễ

Ngày nghỉ, ngày lễ là những ngày pháp luật cho phép mọi công dân
được nghỉ ngơi, không phải làm việc. Ở Việt Nam, ngày nghỉ được quy định
là những ngày cuối tuần: thứ 7 và Chủ nhật; ngày lễ là những ngày: Tết
dương lịch (01/01), giỗ Tổ (10/3 âm lịch), 30/4 (ngày độc lập, thống nhất đất
nước), 01/5 (ngày quốc tế lao động) và ngày quốc khánh (02/9). Trong những
ngày này, cơ quan THADS không được phép tổ chức cưỡng chế, đây là quy
định được quy định tại khoản 2 Điều 46 Luật THADS.
- Không tổ chức cưỡng chế THA có huy động lực lượng trong những
thời gian nhạy cảm

18


Những thời gian nhạy cảm được quy định gồm: “15 ngày trước và sau
tết Nguyên đán; các ngày truyền thống đối với các đối tượng chính sách, nếu
họ là người phải thi hành án; các trường hợp đặc biệt khác ảnh hưởng
nghiêm trọng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, phong tục, tập
quán tại địa phương”. Trong những thời gian này, cơ quan THADS không tổ
chức cưỡng chế THA có huy động lực lượng (khoản 2, Điều 13 Nghị định
62/2015/NĐ-CP).
1.2.2. Nguyên tắc tài sản không được cưỡng chế
Nhằm bảo vệ quyền được sống, quyền mưu cầu hạnh phúc cho những
người phải THA, Luật THADS quy định các loại tài sản sau không được
cưỡng chế gồm:
Tài sản phục vụ mục đích sinh hoạt thiết yếu hàng ngày của người
phải thi hành án
Cuộc sống, sự tồn tại và phát triển con người không thể tách rời những
vật dụng sinh hoạt cần thiết vì thế pháp luật về THADS không cho phép
cưỡng chế các tài sản: lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người phải
thi hành án và gia đình trong thời gian chưa có thu nhập, thu hoạch mới; số

thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh của người phải thi hành án và gia đình;
vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng dùng để chăm sóc người ốm;
Đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa phương; Công cụ lao
động cần thiết, có giá trị không lớn được dùng làm phương tiện sinh sống chủ
yếu hoặc duy nhất của người phải thi hành án và gia đình; Đồ dùng sinh hoạt
cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình, (khoản 2 Điều 87, Luật
THADS).
Tài sản của người phải THA là doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Ngoài quy định về việc không được cưỡng chế, kê biên đối với tài sản

19


×