Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Lý Luận Tuần Hoàn Và Chu Chuyển Tư Bản Của Các Mác. Ý Nghĩa Của Nó Đối Với Vấn Đề Huy Động Và Sử Dụng Vốn Ở Nước Ta Hiện Nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.25 KB, 18 trang )

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC-LÊNIN II

ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN TƯ BẢN CỦA CÁC
MÁC. Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG
VỐN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.


LỜI MỞ ĐẦU
Trong mọi nền kinh tế, sự gia tăng tư bản và giá trị thặng dư luôn là quan tâm hàng đầu của các
nhà tư bản. Để có thể đạt được những mục tiêu đó, thì tuần hoàn và chu chuyể ntư bản chính là những
định hương cơ bản mà nền kinh tế phải dựa vào. Mà trong đó lí luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản
của C.Mác chính là kim chỉ nam dẫn đường cho sự nghiệp xây dựng kinh tế vững mạnh của hầu hết các
quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Là một nước đang phát triển trong thời kì quá độ lên CNXH, mà sự nghiệp công nghiêp hóa- hiện
đại hóa là mục tiêu hàng đầu thì Việt Nam đang có những cơ hội và thách thức rất lớn. Và để thực hiện
nhiệm vụ công nghiệp hóa- hiện đại hóa đó thì việc huy động và sử dụng vốn một cách hiệu quả là rất
quan trọng. Bởi lẽ, vốn là một vật chất quan trong trong mọi hoạt động của nền kinh tế, nhu cầu về vốn
nổi lên như một vấn đề cấp bách. Thực tế trong những năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu
đáng ghi nhận về việc quản lí và sử dụng vốn, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những bất cập cần phải giải
quyết. Vì vậy việc nghiên cứu và vận dụng lí luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản của C.Mác để tìm ra
phương pháp huy động và sử dụng vốn là vô cùng cần thiết.
Có thể thấy rằng,tuần hoàn và chu chuyển là điều kiện để tư bản lớn lên và đồng thời tạo ra giá trị
thặng dư nhờ đó mà nền kinh tế mới phát triển được. Nó còn giống như một con đường mà bất kỳ một
nhà tư bản nào muốn tồn tại và phát triển thì buộc phải đi, vì chỉ khi hiểu được bản chất, những điều
kiện và các yếu tố liên quan đến quá trình lưu thông thì người ta mới có thể tham gia vào quá trình sản
xuất và tạo ra giá trị thặng dư. Không những thế, ngày nay nền kinh tế còn chịu nhiều yếu tố tác động về
mọi mặt, vì vậy việc bám sát vào quá trình tuần hoàn và chu chuyển có thể giúp cho các nhà tư bản phát
triển dây truyền sản xuất, định hướng và hoạch định chiến lược một cách đúng đắn và phù hợp hơn, nhờ
đó mới có thể đứng vững và tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Việc tìm hiểu về lí luận tuần hoàn
và chu chuyển là một yếu tố cần thiết cho tiền đề phát triển của nền kinh tế, điều này góp phần làm cho


mọi người hiểu rõ hơn về quá trình lưu thông của tư bản và giá trị thặng dư. Vì vậy, lí luận tuần hoàn và
chu chuyển tư bản đóng một vai trò quan rọng trong nền kinh tế, nó mang ý nghĩa to lớn trong việc huy
động và sử dụng vốn trong nền kinh tế nước ta hiện nay.

Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn về tuần hoàn và chu chuyển tư bản trong kinh tế cũng như
nhiệm vụ xây dựng CNXH với nền kinh tế thị trường định hứng XHCN ở nước ta, chúng tôi đã lựa
chọn đề tài: “ Lí luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản của C.Mác. Ý nghĩa của nó đối với vấn đề huy
động và sử dụng vốn ở nước ta hiện nay”. Xây dựng đề tài thảo luận này, chúng tôi tập chung nghiên
cứu về thực trạng sử dụng vốn, cách thức vận dụng lí luận tuần hoàn và chu chuyển của tư bản vào nên
kinh tế một cách hiệu quả và đưa ra một số biện pháp huy động vốn hiệu quả và nâng cao hiệu quả vốn
đầu tư. Với đề tài này, chúng tôi mong muốn người đọc sẽ hiểu được tầm quan trong của lí luận kinh tếchính trị Mác- Lênin nói chung và lí luận tuần hoàn và chu chuyển của tư bản của Mác nói riêng, từ đó
có cái nhìn khách quan về việc huy động và sử dụng vốn ở nước ta hiện nay.


Bài thảo luận dựa trên phương pháp tìm hiểu, so sánh, thống kê, phân tích số liệu trong thực tế,
cùng với phân tích những luận điểm trong giáo trình “ Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa MácLênin” và một số giáo trình, tư liệu khác…
Kết cấu của đề tài bao gồm hai phần lớn( ngoài phần mở đầu và kết luận):
Phần I: Lí luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản của Mác
Phần II: Ý nghĩa của lí luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản của Mác đối với vấn đề huy động
và sử dụng vốn ở Việt Nam hiện nay
Trong bài thảo luận của nhóm còn rất nhiều những sai sót, khuyết điểm, mong rằng giảng viên và
các bạn sinh viên sẽ đóng góp ý kiến để bài thảo luận được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!


NỘI DUNG BẢI TIỂU LUẬN
Phần 1: LÝ LUẬN TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN TƯ BẢN CỦA C.MÁC
I - TUẦN HOÀN CỦA TƯ BẢN
1. Khái niệm tư bản
Tư bản là quan hệ sản xuất

Tư bản chính là các công cụ lao động, tư liệu sản xuất. Định nghĩa như thế nhằm che giấu
thực chất việc nhà tư bản bóc lột công nhân làm thuê.
Thực chất tư liệu sản xuất không phải là tư bản mà nó chỉ là một điều kiện cần thiết để sản
xuất trong bất cứ một xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành vật sở
hữu của các nhà tư bản và được dùng để bóc lột lao động làm thuê. Như vậy, tư bản không phải
là vật mà là mối quan hệ sản xuất nhất định giữa người với người trong quá trình sản xuất.
Từ quá trình tạo ra giá trị thặng dư ta có định nghĩa về tư bản:” Tư bản là giá trị đem lại giá
trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê”. Tư bản thể hiện mối quan hệ giữa giai cấp
tư sản và giai cấp vô sản. Trong đó giai cấp tư sản là người sở hữu tư liệu sản xuất, còn giai cấp
vô sản là lao động làm thuê bị giai cấp tư sản bóc lột.
2. Tuần hoàn của tư bản
2.1 Ba giai đoạn tuần hoàn của tư bản.
2.1.1 Giai đoạn thứ nhất - giai đoạn lưu thông.
TLSX
T-H
SLĐ
Tư bản xuất hiện dưới hình thái tiền là tư bản tiền tệ (T). Tiền được sử dụng để mua tư liệu
sản xuất (TLSX) và sức lao động (SLĐ). Hàng hóa tư liệu sản xuất và hang hóa sức lao động
phải phù hợp với nhau về số lượng và chất lượng. Trong đó giai đoạn này, tư bản này tồn tại
dưới hình thái tư bản tiền tệ thực hiện chức năng là phương tiện mua hai yếu tố tư liệu sản xuất
và sức lao động, và sau khi mua xong, tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất.
2.1.2 Giai đoạn thứ hai - giai đoạn sản xuất.
TLSX
H

….SX…H’
SLĐ

Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản sản xuất (TBSX), có chức năng
thực hiện sự kết hợp hai yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động để sản xuất ra hàng hóa mà trong

giá trị của nó có giá trị thặng dư. Trong các giai đoạn tuần hoàn của tư bản thì giai đoạn sản xuất
có ý nghĩa quyết định nhất, vì nó gần trực tiếp với mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
2.1.3 Giai đoạn thứ ba - giai đoạn lưu thông.


H’ - T’
Hàng hoá được tạo ra trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa mang hình thái tư bản hàng
hoá (H), trong đó chứa đựng không chỉ có giá trị tư bản ứng trước mà còn có giá trị thặng dư.
Trong giai đoạn này, tư bản hàng hoá có chức năng thực hiện giá trị hàng hoá trong đó có giá trị
thặng dư hay chức năng chuyển hoá tư bản hàng hoá thành tư bản tiền tệ.
Sự vận động qua ba giai đoạn nói trên là sự vận động có tính tuần hoàn: từ hình thái tiền
tệ ban đầu của vòng tuần hoàn rồi quay về dưới hình thái tiền tệ cuối của vòng tuần hoàn; quá
trình đó tiếp tục và lặp lại không ngừng. Như vậy, sự vận động liên tiếp qua ba giai đoạn, trong
mỗi giai đoạn, tư bản mang một hình thái nhất định và có một chức năng nhất định được gọi là
tuần hoàn tư bản.
Nghiên cứu sự biến hoá từ tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất rồi đến tư bản hàng hoá,
mà sự vận động của chúng như một chuỗi những biến hoá hình thái của tư bản cho thấy tư bản
không phải là vật ở trạng thái tĩnh, mà nó lấy vật làm hình thái tồn tại trong quá trình vận động.
Thực tiễn sản xuất và lưu thông cho thấy không phải lúc nào các giai đoạn và các hình
thái tư bản trong quá trình tuần hoàn đều ăn khớp với nhau mà không có sự ách tắc và gián đoạn.
Mỗi sự ách tắc, gián đoạn ở một giai đoạn nào đó đều gây rối loạn hay đình trệ cho sự tuần hoàn
của tư bản. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến thời gian tư bản nằm lại ở mỗi giai đoạn. Do vậy, thu
hẹp hay kéo dài các thời gian đó đều ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của tư bản.
Tuần hoàn của tư bản chỉ tiến hành một cách bình thường khi hai điều kiện sau đây được
thoả mãn. Đó là: các giai đoạn của chúng diễn ra liên tục; các hình thái tư bản cùng tồn tại và
được chuyển hoá một cách đều đặn.
Trong các loại tư bản, chỉ có tư bản công nghiệp (với nghĩa các ngành sản xuất vật chất)
mới có hình thái tuần hoàn đầy đủ gồm ba giai đoạn và mới lần lượt mang vào và trút bỏ ba hình
thái tư bản.
2.2 Các hình thái tuần hoàn của tư bản công nghiệp

Trong sự vận động liên tục của tư bản công nghiệp, mỗi hình thái của tư bản đều có thể làm
điểm mở đầu và làm điểm kết thúc của tuần hoàn, tạo nên ba hình thái tuần hoàn khác nhau của
tư bản công nghiệp: Tuần hoàn của tư bản tiền tệ, tuần hoàn của tư bản sản xuất và tuần hoàn
của tư bản hàng hoá.
2.2.1 Tuần hoàn của tư bản tiền tệ:
TLSX
H

…SX ….H’’ -T’ (viết gọn lại là T-T’)

SLĐ
Mở đầu và kết thúc đều là tiền, ở đây sự vận động của tư bản biểu hiện ra là sự vận động của
tiền, còn hàng hoá hay sản xuất chỉ là những yếu tố trung gian để tiền đẻ ra tiền. Hình thái tuần


hoàn này phản ảnh rõ rệt nhất mục đích, động cơ vận động của tư bản là làm tăng giá trị hay giá
trị thặng dư, mà giá trị thặng dư như C.Mác nói hình thức biểu hiện chói lọi nhất của nó là hình
thái tiền. Bởi vậy T - T' là hình thái biểu hiện phiến diện nhất, che giấu quan hệ bóc lột nhất,
nhưng cũng đặc trưng nhất cho sự vận động của tư bản.
2.2.2 Tuần hoàn của tư bản sản xuất:
TLSX
SX - H’ - T’ - H
SLĐ

…SX

Trong hình thái này, mở đầu và kết thúc là sản xuất, còn hàng hoá và tiền tệ chỉ là những yếu tố
trung gian, toàn bộ quá trình lưu thông H' - T' - H chỉ là điều kiện cho sản xuất.
Tuần hoàn của tư bản sản xuất không chỉ ra được mục đích và động cơ vận động của tư bản,
nhưng lại phản ảnh rõ nét nguồn gốc của tư bản và nguồn gốc của tích luỹ tư bản, vì giá trị thặng

dư được sinh ra và lớn lên trong quá trình tuần hoàn này.
2.3 Tuần hoàn của tư bản hàng hóa
TLSX
H’ - T’ - H
….SX…..H’
SLĐ
Trong hình thái tuần hoàn này, điểm mở đầu và kết thúc đều là hàng hoá và sự vận động của nó
biểu hiện ra là sự vận động của hàng hoá. Còn sản xuất và tiền tệ chỉ là những hình thức trung
gian, chỉ là điều kiện cho sự vận động của hàng hoá. Hình thái tuần hoàn này phản ánh rõ vai trò
của lưu thông hàng hoá và tính liên tục của lưu thông hàng hoá.
Mở đầu tuần hoàn là tư bản hàng hoá (H'), sự chuyển hoá H' - T' bao gồm cả tiêu dùng sản xuất
và tiêu dùng cá nhân. Do đó, hình thái tuần hoàn này không chỉ là hình thái vận động của tư bản
công nghiệp cá biệt, mà còn là hình thái thích hợp để phân tích sự vận động của tư bản xã hội.
Tóm lại, tuần hoàn của tư bản công nghiệp là sự thống nhất của ba hình thái tuần hoàn của tư
bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hoá. Tính thống nhất này phụ thuộc vào những điều
kiện bảo đảm cho tính liên tục không gián đoạn của các giai đoạn, các hình thái tư bản và tỷ lệ
phân chia tư bản thành ba hình thái tuần hoàn nói trên. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc nhiều yếu
tố, nhiều hoàn cảnh khác nhau ở từng ngành khác nhau. Trong những thập niên gần đây ở nhiều
nước tư bản chủ nghĩa xuất hiện những yếu tố làm cho quy mô tư bản ứng trước ngày càng tăng
như: do cạnh tranh, do công nghệ hiện đại, do khó khăn về tiêu thụ và việc vươn tới những thị
trường ngày càng xa và với yêu cầu chất lượng cao. Nhưng cũng có những yếu tố làm giảm quy
mô tư bản ứng trước như công nghệ mới, tổ chức quản lý khoa học, quan hệ tín dụng, tốc độ chu
chuyển tư bản.
II - CHU CHUYỂN CỦA TƯ BẢN


Khi nghiên cứu tuần hoàn của tư bản, vấn đề thời gian và tốc độ vận động, những nhân tố ảnh hưởng
đến tốc độ chu chuyển và tác dụng của nó chưa được đề cập. Nhưng các vấn đề đó lại có tầm quan trọng
để hiểu rõ hơn nền kinh tế tư bản chủ nghĩa trong điều kiện của kinh tế thị trường. Những vấn đề này
thuộc nội dung của lý luận chu chuyển tư bản.

1. Chu chuyển tư bản, thời gian chu chuyển và tốc độ chu chuyển tư bản
Nghiên cứu tuần hoàn tư bản là nghiên cứu mặt chất của sự vận động tư bản, còn nghiên cứu chu
chuyển tư bản là nghiên cứu mặt lượng hay nghiên cứu tốc độ vận động của tư bản. Mặc dù có
sự khác nhau, nhưng cả hai đều nghiên cứu sự vận động của tư bản. Bởi vậy, tuần hoàn tư bản và
chu chuyển tư bản có quan hệ mật thiết với nhau.
1.1 Chu chuyển tư bản
Chu chuyển tư bản là sự tuần hoàn tư bản nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới, diễn
ra liên tục và lặp đi lặp lại không ngừng. Chu chuyển tư bản phản ánh tốc độ vận động nhanh
hay chậm của tư bản.
1.2 Thời gian chu chuyển tư bản
Thời gian chu chuyển tư bản là thời gian tính từ khi tư bản ứng ra dưới một hình thái nhất
định cho đến khi thu về cũng dưới hình thái ban đầu, có kèm theo giá trị thặng dư. Thời gian
chu chuyển tư bản cũng là thời gian tư bản thực hiện được một vòng tuần hoàn. Tuần hoàn tư
bản bao gồm quá trình sản xuất và quá trình lưu thông, nên thời gian chu chuyển của tư bản
cũng bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.
Thời gian chu chuyển = Thời gian sản xuất + Thời gian lưu thông.
Trong đó, thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất. Thời gian này
lại bao gồm thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất.
Thời gian sản xuất = Thời gian lao động + Thời gian gián đoạn lao động + Thời gian dự trữ
sản xuất.
Thời gian lao động là thời gian người lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản
phẩm. Đây là thời kỳ hữu ích nhất, vì nó tạo ra giá trị hàng hoá.
Thời gian gián đoạn lao động là thời gian đối tượng lao động tồn tại dưới dạng bán thành
phẩm nằm trong lĩnh vực sản xuất, nhưng không chịu tác động trực tiếp của lao động mà
chịu sự tác động của tự nhiên như thời gian để cây lúa tự lớn lên, rượu ủ men, gạch mộc
hoặc gỗ phơi cho khô... Thời kỳ này có thể xen kẽ với thời kỳ lao động hoặc tách ra thành
một thời kỳ riêng biệt; có thể dài ngắn khác nhau tuỳ thuộc vào các ngành sản xuất, các sản
phẩm chế tạo và phụ thuộc vào công nghệ sản xuất.
Thời gian dự trữ sản xuất là thời gian các yếu tố sản xuất đã được mua về, sẵn sàng tham gia
quá trình sản xuất, nhưng chưa thực sự được sử dụng vào quá trình sản xuất, còn ở dạng dự

trữ tạo điều kiện cho sản xuất diễn ra liên tục. Quy mô dự trữ phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như: đặc điểm của các ngành, tình hình thị trường và năng lực tổ chức, quản lý sản xuất...


Cả thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất đều không tạo ra giá trị sản
phẩm. Sự tồn tại hai thời kỳ này là không tránh khỏi nhưng nói chung thời gian của chúng
càng dài, hay sự chênh lệch giữa thời gian sản xuất với thời gian lao động càng lớn thì hiệu
quả hoạt động của tư bản càng thấp. Rút ngắn thời gian này có tác dụng quan trọng để nâng
cao hiệu quả sử dụng tư bản.
Thời gian lưu thông là thời kỳ tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Thời gian này bao gồm
thời gian mua và thời gian bán, kể cả thời gian vận chuyển.
Thời gian lưu thông = Thời gian mua + Thời gian bán.
1.3 Tốc độ chu chuyển của tư bản
Tốc độ chu chuyển tư bản là khái niệm dùng để chỉ sự vận động nhanh hay chậm của tư bản
ứng trước. Đơn vị tính tốc độ chu chuyển tư bản bằng số vòng hoặc số lần chu chuyển tư bản
thực hiện được trong một khoảng thời gian nhất định, chẳng hạn trong một năm. Nếu gọi (N)
là tốc độ chu chuyển tư bản, gọi (ch) là thời gian của một vòng chu chuyển tư bản, (tính theo
đơn vị ngày hoặc tháng) và gọi (CH) là thời gian tư bản vận động trong một năm (360 ngày
hoặc 12 tháng), ta có công thức tính tốc độ chu chuyển tư bản là:
N
Từ công thức trên cho thấy tốc độ chu chuyển tư bản vận động tỷ lệ nghịch với thời gian chu
chuyển tư bản. Thời gian của một vòng chu chuyển tư bản càng ngắn thì tốc độ chu chuyển
tư bản càng nhanh và ngược lại.
Thí dụ 1: Một tư bản có thời gian chu chuyển là 90 ngày/vòng, theo công thức trên ta có số
vòng chu chuyển trong năm của tư bản đó là:
N = 4 vòng/năm
Thí dụ 2: Một tư bản có thời gian chu chuyển tư bản là 6 tháng/vòng, theo công thức trên ta
có:
N = 2 vòng/năm
2. Tư bản cố định và tư bản lưu động

Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận và có thời gian chu chuyển khác nhau về mặt giá trị, do đó
ảnh hưởng đến thời gian chu chuyển của toàn bộ tư bản. Căn cứ vào sự khác nhau trong phương
thức (đặc điểm) chu chuyển về mặt giá trị nhanh hay chậm của các bộ phận tư bản để phân chia
tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
2.1 Tư bản cố định
Tư bản cố định là bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thái giá trị của những máy móc, thiết
bị, nhà xưởng..., tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển
hết một lần, mà chuyển từng phần vào sản phẩm trong quá trình sản xuất. Đặc điểm của tư
bản cố định là về hiện vật, nó luôn luôn cố định trong quá trình sản xuất, chỉ có giá trị của nó
là tham gia vào quá trình lưu thông cùng sản phẩm, hơn nữa nó cũng chỉ lưu thông từng
phần, còn một phần vẫn bị cố định trong tư liệu lao động, phần này không ngừng giảm


xuống cho tới khi nó chuyển hết giá trị vào sản phẩm. Chính đặc điểm của loại tư bản này đã
làm cho thời gian mà tư bản cố định chuyển hết giá trị của nó vào sản phẩm bao giờ cũng dài
hơn thời gian một vòng tuần hoàn.
2.2 Tư bản lưu động
Tư bản lưu động là bộ phận tư bản được hoàn lại hoàn toàn cho nhà tư bản sau khi hàng hoá
sản xuất ra được bán xong. Trong đó, bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thái nguyên liệu,
nhiên liệu, vật liệu phụ..., giá trị của nó được chuyển toàn bộ vào giá trị hàng hoá trong quá
trình sản xuất. Còn bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thái tiền công, đã bị người công nhân
tiêu dùng và được tái tạo trong quá trình sản xuất hàng hoá. Đặc điểm của loại tư bản này là
chu chuyển nhanh về mặt giá trị. Nếu tư bản cố định muốn chu chuyển hết giá trị của nó phải
mất nhiều năm, thì trái lại tư bản lưu động trong một năm giá trị của nó có thể chu chuyển
nhiều lần hay nhiều vòng. Đối với tư bản cố định, trong quá trình hoạt động tất yếu bị hao
mòn. Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình:
Hao mòn hữu hình là hao mòn do sử dụng hoặc do bị phá huỷ của tự nhiên gây ra làm cho tư
bản cố định mất giá trị và giá trị sử dụng.
Hao mòn vô hình là hao mòn do ảnh hưởng của sự tiến bộ khoa học - công nghệ.
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, những máy móc, thiết bị

được sản xuất ra có giá cả thấp hơn và có hiệu suất lớn hơn, làm cho những máy móc, thiết
bị cũ giảm giá trị ngay khi giá trị sử dụng của nó vẫn còn nguyên vẹn hoặc mới suy giảm
một phần.
Bởi vậy, việc thu hồi nhanh giá trị tư bản cố định có ý nghĩa rất quan trọng trong cạnh tranh
trên thương trường. Trong điều kiện đó, buộc các nhà tư bản phải tìm mọi cách để khấu hao
nhanh tư bản cố định. Tỷ lệ khấu hao tài sản cố định thường được tính rất cao ngay từ những
năm đầu chế tạo sản phẩm, lợi dụng giá sản phẩm cao của đầu chu kỳ sản phẩm, sau đó giảm
dần tỷ lệ khấu hao cùng với việc giảm giá sản phẩm ở cuối chu kỳ của nó. Quy mô sản lượng
ban đầu càng lớn càng có lợi cho việc thu hồi giá trị tư bản cố định. Những yêu cầu đó
không phải lúc nào cũng được thực hiện dễ dàng. Bởi vậy, các nhà tư bản, một mặt, tìm cách
phát triển hệ thống tự động hoá linh hoạt, cùng với những máy móc thiết bị tương ứng để có
thể tạo ra nhiều dạng sản phẩm hoặc những sản phẩm
chuyên môn hoá theo các đơn đặt hàng khác nhau; mặt khác, phát triển hệ thống doanh
nghiệp vừa và nhỏ để dễ dàng đổi mới tư bản cố định trong điều kiện cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại và cạnh tranh gay gắt. Đồng thời, các nhà tư bản vẫn tiếp tục sử dụng
những biện pháp cổ điển như tăng cường độ lao động, tổ chức lao động theo ca kíp, tiết kiệm
chi phí bảo quản và chi phí cải thiện điều kiện lao động của người công nhân. Bằng cách đó
nhằm thu hồi nhanh giá trị tài sản cố định đã sử dụng và góp phần rút ngắn khoảng cách lạc
hậu về các thế hệ kỹ thuật và công nghệ.


Phần II: Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
Như chúng ta đều biết, doanh nghiệp là tế bào cơ bản của nền kinh tế quốc dân, là nơi kết hợp
một cách có hiệu quả các nguồn lực để tạo ra của cải cho xã hội, là nguồn gốc tạo nên sức mạnh kinh tế.
Sự giàu có của một quốc gia. Trong giai đoạn hiện nay của nước ta việc quản lý và sử dụng vốn hiệu
quả của các doanh nghiệp là một vấn đề tương đối phức tạp. Giữa lý luận và hiện thực còn có nhiều
vướng mắc mâu thuẫn chưa thực sự giải quyết được. Vì vậy nghiên cứu học thuyết “tuần hoàn và chu
chuyển tư bản” với điều kiện hiện có của doanh nghiệp là rất cần thiết cho mỗi doanh nghiệp để xác
định được vị trí và chỗ đứng trên thị trường

2.1. Thực trạng nước ta hiện nay
Trước năm 1986, nền kinh tế nước ta phát triển theo mô hình tập trung quan liêu bao cấp nên hầu hết
các doanh nghiệp đều là của nhà nước. Sự phát triển của các doanh nghiệp rất trì trệ, lạc hậu do thiếu
vồn và do thói ỷ lại vào nhà nước của các doanh nghiệp. Chủ yếu trong thời kỳ này là các doanh nghiệp
hoạt động theo sự chỉ đạo của nhà nước, chưa phát huy được yếu tố nhân lực cũng như nguồn vốn của
nhà nước.
Từ sau năm 1986 đến nay, nền kinh tế nước ta đã chuyến sang một thời kỳ mới. Môi trường hoạt
động của các doanh nghiệp có những biến đổi sâu sắc: nền kinh tế nhiều thành phần, nền kinh tế khép
kín trước đây đã chuyển dần sang nền kinh tế mở, các doanh nghiệp nhà nước được tiếp cận với thị
trường mới, kỹ thuật mới, cách quản lý mới. Nhưng đồng thời đứng trước những thử thách khắc nghiệt
của sự xâm nhập cạnh tranh quyết liệt của các hàng ngoại trong cơ chế thị trường. Vai trò, trách nhiệm,
đường lối quản lý của doanh nghiệp có sự đổi mới sâu sắc, tình trạng thiếu đồng bộ của chính sách luật
lệ quản lý đã từng bước được sự khắc phục. Trong điều kiện đó, hệ thóng doanh nghiệp nước ta bước
đầu được sắp xếp lại, số lượng các doanh nghiệp nhà nước tuy giảm so với trước nhưng những doanh
nghiệp đang hoạt động vẫn chiếm giữ những ngành then chốt. Nhiều doanh nghiệp đã trụ vững và đã
phát huy được vai trò định hướng, trung tâm liên kết các thành phần kinh tế.
Tuy có đổi mới quan trọng, nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn những mặt yếu kém:
 Số lượng doanh nghiệp nhiều nhưng phần lớn là quy mô nhỏ, bố trí phân tán, 2/3 số doanh
nghiệp có quy mô dưới 200 lao động, 4% số doang nghiệp có quy mô trên 1000 lao động có quy mô
trên 1000 lao động, 81,7% doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng Việt Nam.
 Trình độ công nghệ, Kỹ thuật quá lạc hậu, mức độ hoàn chỉnh đồng bộ thấp, do đó hao phí vật
chất lớn, chất lượng sản phẩm kém, sản xuất không năng suất nên không có khả năng cạnh tranh,
hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp.
 Sự đóng góp của doanh nghiệp vào ngân sách nhà nước tương đối lớn nhưng chưa tương xứng
với sự đầu tư của nhà nước cho các doanh nghiệp.
 Hệ thống quản lý các doanh nghiệp còn nhiều yếu kém.
 Đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề trình độ chuyên môn thấp, chưa được đào tạo căn bản hệ
thống.



 Từ những thực tế nói trên, chúng ta phải sớm đưa ra những biện pháp để khắc phục những tồn
tại yếu kém trên.
2.2. Giái pháp khắc phục :
Trong mỗi doanh nghiệp việc tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả la một trong những vấn đề quan
trong nhất để có thể duy trì và phát triển doanh nghiệp. Ngay từ xa xưa các nhà kinh tế đã đánh giá
cao vai trò của vốn. Mác đã trình bày vai trò của vốn qua nhiều học thuyết trong đó có “tuần hoàn
và chu chuyển”. Dựa trên những luận điểm đó chúng ta có thể đưa ra một số những phương pháp,
biện pháp, công cụ quản lý nhằm sử dụng hiệu quả nhất các nguồn vốn của doanh nghiệp.
2.2.1.Lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm
Hiệu quả sử dụng vốn trước hết, được quyết định bởi việc doanh nghiệp có khả năng sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm. Trong điều kiện kinh tế thị trường quy mô và tính chất sản xuất, kinh doanh không
phải do chủ quan doanh nghiệp quyết định mà do thị trường quyết định.Vì vậy, giải pháp đầu tiên có
ý nghĩa quyết định hiệu quả kinh doanh, phương án sản phẩm. Các phương án đó phải được xây
dựng trên cơ sở tiếp cận thị trường. Có như vậy sản phẩm sản xuất ra của doanh nghiệp mới có khả
năng tiêu thụ được, quá trình sản xuất mới tiến hành bình thường, tài sản cố định mới có khả năng
tiêu thụ được, quá trình sản xuất mới tiến hành bình thường, tài sản cố định mới có khả năng phát
huy hết công suất, vốn lưu động chu chuyển đều đặn.
2.2.2.Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn vốn
Ngoài nguồn vốn ngân sách nhà nước đầu tư thì các doanh nghiệp cần huy động những nguồn
vốn bổ sung nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh tiến hành bình thường và mở rộng quy mô hoặc đầu
tư chiến sâu. Các nguồn huy động bổ sung vốn bao gồm nhiều nguồn: nguồn vốn doanh nghiệp tư bổ
sung, vay ngân hàng, vay các đối tượng khác, liên doanh liên kết.
2.2.3.Đối với việc tạo vốn đầu tư
Để hình thành và thúc đẩy các nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp, chính phủ ban hành đồng
bộ, đầy đủ cơ chế chính sách về huy động vốn để tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp thực
hiện việc huy động vốn.
- Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng: nhà nước cần có chính sách lãi suất tiền vay hợp lý,
phù hợp với tình hình thực tế hiện tại của các doanh nghiệp, có chính sách chú trọng việc mở rộng
vay dài hạn để doanh nghiệp vừa có khả năng đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị, vừa cân đối khả
năng trả nợ… Muốn vậy, nhà nước cần tiếp tục cải cách chính sách tiền tệ tạo ra điểm gặp nhau

giữa cung và cầu về vốn, mục tiêu chính là giải quyết 3 vấn đề: chính sách lãi suất, tỷ giá và quản
lý ngoại hối.
- Đối với các tổ chức xã hội, đoàn thể: khuyến khích các tổ chức xã hội( bảo hiểm xã hội và các
công ty bảo hiểm thương mại…), tham gia cho doanh nghiệp vay vốn để tận dụng nguồn vốn
nhàn rỗi của các cơ quan này, đồng thời mở rộng thị trường cốn trong nước, đáp ứng nhu cầu vốn
đầu tư của doanh nghiệp.


- Đối với quần chúng nhân dân, người lao động: xây dựng một chính sách huy động vốn cụ thể,
trong đó quy định trần lãi suất, hình thức vay trả… Nên gắn lợi ích người lao động với hình thức
huy động vốn như việc làm, thu nhâp…
- Đối với khu vực doanh nghiệp:
 Khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng hình thức thuê mua, thuê vận hành. Đây là
những giải pháp cho doanh nghiệp thiếu vốn muốn đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị. Song để
áp dụng hình thức này chúng ta cần hình thành những công ty thuê mua có chức năng hỗ trợ
doanh nghiệp trong việc lựa chọn bạn hàng, đánh giá chất lượng máy móc thiết bị…
 Thực hiện việc liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp với các thành phần kinh tế
khác để thu hút nguồn tài chính, trình độ quản lý, công nghệ của những đối tác này. Song có
một vấn đề nhà nước caanff quan tâm là quyền lợi của doanh nghiệp trong kinh doanh.
 Cho phép những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả vay lại những nguồn vốn viện trợ của
nước ngoài.
 Chính phủ cần xúc tiến, đẩy mạnh việc ra đời thị trường chứng khoán để tạo môi trường
cho việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp.
 Tiếp tục sắp xếp, củng cố khu vực doanh nghiệp, đẩy mạnh công tác cổ phần hóa
Việc sắp xếp khu vực doanh nghiệp thời gian qua đã có những bước tiến đáng mừng thu hẹp
lại khu vực DNNN, nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này.
2.2.4. Đối với việc quản lý và sử dụng vốn trong doanh nghiệp
Để thực hiện tốt công tác này phải có sự kết hợp từ hai phía:nhà nước và doanh nghiệp,trong
đó khuyến khích nâng cao tinh thần trách nhiệm của doanh nghiệp(cá nhân và tập tể cán bộ công
nhân viên).Nhà nước chỉ đóng vai trò giám sát.

Về phía nhà nước:

Nhà nước cần sớm triển khai việc đánh giá hệ số tín nhiệm đối với các doanh nghiệp để
từ đó áp dụng những ưu đãi với mực độ khác nhau đối với từng doanh nghiệp,những doanh
nghiệp có hệ số tín nhiệm cao sẽ được ưu tiên vay vốn trước,vay số lượng lớn,trong trường hợp
cần thiết có thể lấy uy tín làm yếu tố đảm bảo vay.

Bất kỳ một dự án vay vốn nào của doanh nghiệp đều phải được xem xét tính hiệu quả và
khả năng trả nợ mới được phép triển khai.Tăng cường công tác hoạt động kiểm tra giám sát để kịp
thời phát hiện những sai phạm trong việc huy động vốn,việc lập đề án,việc sử dụng vốn,việc tích
lũy vốn trả nợ.

Cơ quan quản lý doanh nghiệp cần xây dựng những nguyên tắc kiểm tra,kiểm soát
thường niên các bấo cáo tài chính của doanh nghiệp chế độ giám sát tình hình sử dụng và huy
động vốn tại doanh nghiệp,có ý kiến kịp thời trước sự thay đổi nguồn vốn tại doanh nghiệp.Phải
gắn quyền lợi và trách nhiệm quản lý doanh nghiệp trước sự thiếu hụt mất mát tài sản tiền vốn
Về phía doanh nghiệp:

Vấn đề cốt lõi để quản lý sử dụng tốt nguồn vốn là hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp phải thực sự hiệu quả,doanh nghiệp phải làm ăn có lợi nhuận phải có tích lũy.Muốn
vậy doanh nghiệp phải tự đánh giá lại mình về khả năng cạnh tranh,nguồn lực của doanh
nghiệp.Từ đó xây dựng kế hoạch kinh doanh cho phù hợp.Nghị định 59/CP ban hành ngày


3/10/1996 đã quy định cụ thể hơn cơ chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh của doanh
nghiệp,song cần xây dựng hoàn chỉnh các chính sách kinh doanh,phương hướng phát triển cuả
từng ngànnh,từng lĩnh vực một cách cụ thể để từng doanh nghiệp xác định,nhiệm vụ,kế hoạch cho
mình

Nghị định 59/CP là một bước tiến trong việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý,sử dụng

và phát triển tài sản và tiền vốn tại doanh nghiệp.Tuy nhiên quyền lợi và trách nhiệm của ban lãnh
đạo,ban kiểm soát nội bộ doanh nghiệp cần được quy định cụ thể hơn.Mức độ chịu trách
nhiệm,biện pháp xử lý,cấp quyết định xử lý

Nhanh chóng hình thành ban kiểm soát,kiểm toàn nội bộ doanh nghiệp để giúp doanh
nghiệp kịp thời phát hiện những sai sót về sử dụng vốn trong hoạt động.
Quy định trách nhiệm của cá nhân,tập thể trong việc đi vay,cho vay,bảo lãnh vay,sử dụng
vốn vay và trả nợ

2.3. Phương hướng hoạt động:
2.3.1Xác định đường lối sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp
 Như chúng ta đã biết, hiện nay nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần tương ứng
với nó là nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Bên cạnh các chính sách kinh tế khuyến khích thành lập
doanh nghiệp ngày một nhiều. Song việc thành công hay thất bại do rất nhiều yếu tố tác động. Nhưng
nhân tố then chốt là sự quyết định của nhà tư bản.
 Ngay từ đầu, daonh nghiệp phải xác định cho mình một hướng đi đúng đắn, thích hợp nhất, đó là
việc trả lời ba câu hỏi: sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào?, sản xuất chi ai?. Chỉ khi doanh nghiệp
trả lời được ba câu hỏi này một cách đầy đủ, rõ ràng chính xác nhất thì hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp sẽ được giải quyết tốt. Như vậy có thể nói, các doanh nghiệp đã thực hiện
quá trình tuần hoàn tư bản.
 Trả lời cho câu hỏi sản xuất cái gì doanh nghiệp cần có chiến lược phân tích nhu cầu thị trường
xem thị trường đang thiếu cái gì, mà nhu cầu về mặt hàng này đang tăng mà nó sẽ mang lại nhiều lợi
nhuận nhất cho doanh nghiệp trong khả năng vốn hiện có. Sau đó nhà tư bản sẽ bỏ vốn ra để mua tư
liệu sản xuất như nguyên vật liệu, sức lao động, nhà xưởng… Đây là giai đoạn vốn của doanh nghiệp
từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái hiện vật. Ở giai đoạn này nhà tư bản phải biết cân đối vốn
để mua tư liệu sản xuất và trả lương cho công nhân theo tỷ lệ thích hợp. Nếu một trong hai nhân tố
đó không được phân bổ phù hợp sẽ làm cho quá trình sản xuất không hiệu quả ảnh hưởng tới sự tuần
hoàn và chu chuyển của tư bản.
 Dựa vào phân tích tốc độ chu chuyển của vốn các doanh nghiệp không chỉ lên kế hoạch sản xuất
kinh doanh mà còn phải xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn bằng cách hình thành các quỹ như:

quỹ đầu tư phát triển, quỹ khấu hao, quỹ phúc lợi. Sau một thời gian sản xuất những quỹ này được
đưa ra sử dụng mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, nhập các dây truyền sản xuất hiện đại làm tăng
năng suất lao động, giảm chi phí cá biệt, giảm giá thành sản phẩm, để tăng tính cạnh tranh trên thị
trường.


2.3.2.Nâng cao hiệu quả quản lý doanh nghiệp
 Đổi mới và kiện toàn bộ máy quản lý từ trên xuống dưới, chỉ số thông qua đổi mới giúp chúng ta
làm việc tốt hơn, các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Thông qua đổi mới chúng ta xóa bỏ
được cơ chế quản lý cũ, quan liêu, bao cấp chỉ biết đến các chính sách, mệnh lệnh mà không có các
biện pháp khuyến khích lao động, khuyến khích phát triển.
 Nâng cao năng lực của các cán bộ quản lý. Chúng ta phải thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức mới cho họ, chỉ có làm như vậy mới đáp ứng được xu thế của thời đại. Một cán bộ quản lý có
năng lực, có tri thức là một điều kiện không thể thiếu được cho các doanh nghiệp.
 Cần nghiên cứu chuyển các tổ chức quốc doanh sang chế độ trách nhiệm hữu hạn, lấy vốn pháp
định làm cơ sở cho việc xử lý các quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp cũng như giữa các doanh
nghiệp và tổ chức tín dụng.
 Tránh tình trạng hai sổ sách trong công tác kế toán, chỉ giap sự quản lý cho các cơ quan chuyên
môn phụ trách, đảm nhiệm, các cơ quan cấp trên chỉ đinh hướng xem xét kế hoạch phát triển.
 Quản lý sản xuất cần phải thấy rõ được số lượng, khối lượng và chất lượng của sản phẩm, tránh
tình trạng sản xuất tràn lan không tiêu thụ được sản phẩm.
 Sản xuất cần năng động, bắt kịp nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng.
 Quản lý, đầu tư nguồn vốn có hiệu quả, có mục đích tránh tình trạng đầu tư không trọng điểm,
không đem lại kết quả gây ra thất thoát ngân sách cho nhà nước.
 Quản lý người lao động là quản lý một thực thể sinh học chứ không phải là quản lý một cái máy
chúng ta phải có các chính sách kinh tế để kích thích người lao động làm việc tốt hơn hiệu quả hơn
2.3.3Tiết kiệm tư bản ứng trước
 Các máy móc thiết bị sau một thời gian dài hoạt động sẽ bị hao mòn dần, chuyển một phần giá
trị vào sản phẩm. Ngoài việc cải thiện máy móc, nhập thêm những dây truyền sản xuất tiên tiến, hiện
đại các doanh nghiệp phải dựa vào kinh nghiệm sản xuất kinh doanh mà dự tính những công việc

khấu hao tài sản cố định.
 Mặt khác để tránh hao mòn vô hình, doanh nghiệp phải hết sức tiết kiệm các chi phí bảo quản và
sửa chữa bằng cách nâng cáo ý thức người lao động đối với việc sử dụng máy móc, tăng cường sử
dụng hết công suất để thu hồi vốn nhanh và thu nhiều lợi nhuận trong thời gian ngắn nhất.
2.3.4.Đưa ra các giải pháp tăng tốc chu chuyển vốn
Muốn quay vòng vốn nhanh để tiếp tục một chu kỳ sản xuất mới các doanh nghiệp ở nước ta
trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thường đưa ra các giải pháp sau để rút ngắn thời
gian sản xuất:
 áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại để tăng năng suất lao động. Bên cạnh nhập khẩu một số dây
truyền hiện đại các doanh nghiệp không nên bỏ qua những dây truyền có khả năng sử dụng bằng
cách bán lại cho những doanh nghiệp cần nó.
 Mở rộng quan hệ để liên doanh, liên kết. Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất trên thế
giới do đó liên doanh liên kết là con đường ngắn nhất để bắt kịp với sự tiến bộ của thế giới.
 Cải thiện bộ máy tổ chức và quản lý lao động. Hiện nay một số doanh nghiệp nhà nước có cơ
cấu tổ chức cồng kềnh, dẫn đến việc giải quyết công việc chậm chạp,chồng chéo lên nhau, vi phạm


quyền hạn và trách nhiệm của người này với người khác. Vì vậy các doanh nghiệp cần phải tinh giảm
tối đa cơ cấu hành chính. Còn đối với người lao động trực tiếp phải bố trí thời gian làm việc hợp lý
40 giờ một tuần đồng thời trả lương và những phần thưởng xứng đáng cho người lao động để họ có
thời gian và vật chất để cải thiện đời sống, khiến họ làm việc có năng suất và hiệu quả hơn
Còn để rút ngắn thời gian lưu động cần sử dụng các biện pháp sau:
 Các doanh nghiệp phải thường xuyên nghiên cứu thị trường, nắm bắt được tâm lý, nhu
cầu của người tiêu dùng để từ đó có quyết định mở rộng hay thu hẹp sản xuất mặt hàng của
doanh nghiệp trên thị trường.
 Thường xuyên cải tiến mặt hàng, làm phong phú các chủng loại, phù hợp với mọi đối
tượng, độ tuổi, giới tính. Sự đa dạng của hàng hóa đem lại lợi ích rất lớn: không những thỏa
mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng mà còn tận dụng những tư liệu sản xuất chưa dùng
đến và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh.
 Áp dụng các hình thức thanh toán linh hoạt, xác định rõ các thị trường để phân phối các

hàng hóa sao cho thích hợp nhất.
2.3.5.Hạn chế rủi ro trong kinh doanh
Trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh diễn ra hết sức khốc liệt, nó tạo ra nhiều cơ hội làm ăn
mới song cũng chứa đầy thử thách và đe dọa. Nắm bắt được quy luật tuần hoàn và chu chuyển vốn,
các doanh nghiệp tận dụng nhiều cơ hội để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
2.3.6.Tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh
Đây là một vấn đề quan trọng giúp quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành thông suốt đều
đặn,nhịp nhàng giữa các khâu dự trữ,sản xuất,tiêu thụ.Nhằm hạn chế tối đa tình trạng ngừng việc của
máy móc,ứ đọng vật tư…gây lãng phí yếu tố sản xuất và làm chậm tốc độ luân chuyển vốn.

 Quản lý vốn cố định
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định các doanh nghiệp cần:
 Bố trí dây truyền sản xuất hợp lý,khai thác hết công suất thiết kế,giảm chi phí khẩu hao trong giá
thành sản phẩm
 Xử lý dứt điểm những tài sản cố định không cần dung hư hỏng chờ thanh lý nhằm thu hồi vốn cố
định chưa sử dụng vào luân chuyển,bổ sung them vốn cho sản xuất.
 Phân cấp quản lý tài sản cố định cho các phân xưởng,bộ phận trong nội bộ doanh nghiệp giảm
tối đa thời gian ngừng việc giữa ca hoặc ngừng việc để sửa chữa.
 Doanh nghiệp phải thường xuyên quan tâm đến việc bảo toàn vốn cố định,tránh mất mát hư
hỏng trước thời hạn khẩu hao.
 Quản lý vốn lưu động
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động phụ thuộc vào việc sử dụng tiết kiệm và tăng doanh nhanh tốc
độ luân chuyển vốn lưu động.Do vậy các doanh nghiệp cần có các biện pháp quản lý như sau:


 Xác định đúng nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho từng kỳ sản xuất.Nếu tính không đúng dẫn
đến tình trạng thiếu vốn sẽ khó khan về khả năng thanh toán,sản xuất bị ngừng trệ,hoặc thừa vốn dẫn
đến lãng phí làm chậm tốc độ luân chuyển vốn.
 Tổ chức tốt quá trình thu mua,dự trữ vât tư,hạn chế để tình trạng ứ đọng làm mất phẩm chất vật
tư,gây ứ đọng vốn lưu động.

 Tổ chức đa dạng các hình thức tiêu thụ sản phẩm,mở rộng thị trường trong và ngoài nước nhằm
tiêu thụ sản phẩm nhanh,vươn lên làm chủ thị trường.
 Tiết kiệm các yếu tố chi phí quản lý doanh nghiệp,chi phí lưu thông nhằm góp phần giảm chi phí
sản xuất tăng lợi nhuận.
2.3.7 Mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất,kinh doanh
 Trong điều kiện cách mạng công nghệ,việc mạnh dạn áp dụng kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất kinh
doanh là một trong những điều kiện quyết định lợi thế và khả năng phát triển của doanh nghiệp
 Kỹ thuật tiến bộ và công nghệ hiện đại là điều kiện vật chất để doanh nghiệp sản xuất ra những
sản phẩm mới,hợp thị hiếu,chất lượng cao,nhờ đó doanh nghiệp có thể tăng khối lượng sản phẩm tiêu
thụ,tăng giá bán,tăng lợi nhuận.Đồng thời nhờ áp dụng kỹ thuật tiến bộ,doanh nghiệp có thể rút ngắn
chu kỳ sản xuất sản phẩm,giảm tiêu hao nguyên vât liệu hoặc sử dụng các loại vật tư thay thế nhằm
tăng tốc độ luân chuyển vốn,tiết kiệm chi phí vật tư,hạ giá thành sản phẩm.
 Nhìn chung TSCĐ,công nghệ sản xuất ở đa số các doanh nghiệp của nước ta hiện nay rất lac
hậu,do vậy các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với các sản phẩm nhập ngoại
cả về chất lượng,kiểu dáng,giá bán.Để áp ứng nhu cầu thị trường trong nước và từng bước tăng khối
lượng,chủng loại sản phẩm có khả năng xuất khẩu,các doanh nghiệp phải manh dạn đầu tư đổi mới
thay thế TSCĐ cũ,lạc hậu bằng TSCĐ mới,hiện đại,thay đổi công nghệ sản xuất.Sự đầu tư đổi mới
kỹ thuật,công nghệ có thể làm cho tỷ trọng vốn cố định trên tổng số vốn sản xuất-kinh doanh tăng
lên,tổng chi phí nguyên vật liệu,chi phí tiền lương công nhân sản xuất..kết quả cuối cùng là sản xuất
và tiêu thụ được nhiều sản phẩm chất lượng cao,tăng giá bán,tăng khối lượng lợi nhuận thu được và
tăng hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh.
2.3.8. Tổ chức tốt công tác hoạch toán,kế toán và phân tích hoạt động kinh tế
 Qua số liệu,tài liệu kế toán,đặc biệt là các báo cáo kế toán tài chính doanh nghiệp thường xuyên
nắm được số vốn hiện có,cả về mặt giá tri và hiện vật,nguồn hình thành và các biến động tăng,giảm
vốn trong kỳ,mức độ đảm bảo vốn lưu động,tình hình và khả năng thanh toán…Nhờ đó,doanh nghiệp
đề ra các giải pháp đúng đắn để xử lý kịp thời các vấn đề tài chính nhằm đảm bảo cho quá trình kinh
doanh thuận lợi theo kế hoạch đề ra như huy động vốn bổ sung,xử lý số vốn thừa,đẩy mạnh tiến độ
tiêu thụ sản phẩm,thu hồi khoản phải thu,thanh toán các khoản nợ đến hạn trả….
 Tuy nhiên, kế toán là hệ thống thông tin thực hiện,các số liệu,tài liệu kế toán tự nó chưa thể chỉ
ra những biện pháp cần thiết để tăng cường quản lý vốn.Do vậy,định kỳ doanh nghiệp phải thực hiện

phân tích hoạt động kinh tế,trong đó có phân tích tình hình tài chính và hiệu quả sử dụng vốn.Thông
qua tìm ra nguyên nhân để có biện pháp khắc phục kịp thời.

KẾT LUẬN


Việt Nam là một quốc gia đang phát triển trên con đường mà chủ nghĩa Mác – Lênin đã để lại.
Tuy vậy, không phải là chúng ta đi một cách dập khuôn và máy móc theo họ mà phải kế thừa, phát huy
và vận dụng một cách sáng tạo những điều đó vào tình hình cụ thể của đất nước ta. Như chúng ta đều
biết, doanh nghiệp là tế bào cơ bản của nền kinh tế quốc dân, là nơi kết hợp một cách có hiệu quả các
nguồn lực để tạo ra của cải cho xã hội, là nguồn gốc tạo nên sức mạnh kinh tế, sự giàu có của một quốc
gia. Trong giai đoạn hiện nay của nước ta, việc quản lý và sử dụng vốn hiệu quả của các doanh nghiệp
là một vấn đề tương đối phức tạp. Giữa lý luận và hiện thực còn có nhiều vướng mắc mâu thuẫn chưa
thực sự giải quyết được. Vì vậy nghiên cứu học thuyết “tuần hoàn và chu chuyển tư bản” với điều kiện
hiện có của doanh nghiệp là rất cần thiết cho mỗi doanh nghiệp để xác định được vị trí và chỗ đứng trên
thị trường . Với học thuyết “tuần hoàn và chu chuyển tư bản” của Mác, ta đã có những tiền đề và cơ sở
lý luận cho sự phát triển nền kinh tế của đất nước theo con đường đúng đắn, hợp lý nhất. Học thuyết này
mang một ý nghĩa thực tiễn to lớn không chỉ ở thời điểm nó ra đời mà còn có tác dụng ngay cả thời
điểm hiện nay. Với lý luận này chúng ta có thể nhìn nhận rõ hơn về vấn đề tuần hoàn và chu chuyển tư
bản cũng như nguồn vốn trong các doanh nghiệp. Là cơ sở cho các doanh nghiệp nhìn nhận đúng hơn
vai trò của vốn để từ đó xây dựng những phương án, giải pháp cho vấn đề sử dụng vốn trong doanh
nghiệp. Đây là nhân tố và tiền đề cho sự phát triển của mỗi quốc gia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

8.

Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin – Đại học Thương Mại
Bài giảng
Các tạp chí: Nghiên cứu và phát triển, Phát triển Kinh tế, Nghiên cứu kinh tế
Cổng thông tin điện tử của: Chính phú, Tổng cục thống kê
Thời báo kinh tế Việt Nam
Tạp chí Kinh tế phát triển
Tạp chí quản lý nhà nước
Báo Kinh tế - Chính trị xã hội




×