Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Pháp luật hoa kỳ, canada, trung quốc về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với ô nhiễm dầu và bài học kinh nghiệm đối với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.09 KB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐINH THỊ VÂN ANH

PHÁP LUẬT HOA KỲ, CANADA, TRUNG QUỐC
VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI
Ô NHIỄM DẦU VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật quốc tế
Mã số: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS.GVC Nguyễn Lan Nguyên

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới
sự hướng dẫn của TS.GVC Nguyễn Lan Nguyên. Các kết quả nêu trong Luận
văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ
và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN




MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục viết tắt
LỜI CAM ĐOAN..............................................................................................
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của TS.GVC Nguyễn Lan Nguyên. Các kết quả nêu trong
Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội.....................................................................................................................
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn................................................................................................
Tôi xin chân thành cảm ơn!...............................................................................
NGƯỜI CAM ĐOAN.......................................................................................
MỤC LỤC.........................................................................................................
DANH MỤC VIẾT TẮT.................................................................................
MỞ ĐẦU...........................................................................................................
Chương 1...........................................................................................................
TỔNG QUAN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT.............................
NƯỚC NGOÀI VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI................
ĐỐI VỚI Ô NHIỄM DẦU................................................................................
1.1. Thực trạng ô nhiễm dầu trên biển................................................................................4
1.1.1. Nguồn gây ô nhiễm dầu trên biển:.......................................................................6
1.1.2. Tác hại nghiêm trọng của các hiện tượng ô nhiễm dầu........................................8
1.2. Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với ô nhiễm dầu..........10



1.3. Tổng quan pháp luật quốc tế về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với ô nhiễm
dầu....................................................................................................................................15

1.3.2. Các tập quán quốc tế.............................................................................
Tập quán quốc tế là quy tắc xử sự do một số quốc gia áp dụng trong quan
hệ quốc tế, dần dần được các quốc gia khác chấp nhận và áp dụng như
một quy phạm pháp luật quốc tế. Tuy nhiên không phải tất cả các tập
quán quốc tế đều được công nhận là nguồn của luật quốc tế hiện đại.
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế có những tập quán chỉ áp dụng trong
quan hệ giữa hai một hay một nhóm quốc gia, và có những tập quán được
đại bộ phận hoặc tất cả các quốc gia thừa nhận và áp dụng. Những tập
quán quốc tế có thể kể đến như: Các điều kiện thương mại quốc tế
(INCOTERMS) đã được Phòng thương mại quốc tế Paris (Paris ICC) tập
hợp và ban hành từ năm 1936 (sửa đổi vào các năm 1953, 1968, 1976,
1980, 1990 và 2000); Bản quy tắc trọng tài của UNCITRAL; Quy tắc
York – Antwerp về tổn thất chung...................................................................
1.3.3. Những nguyên tắc chung của luật được các quốc gia văn minh thừa
nhận.................................................................................................................
Trong khoa học pháp lý, nguyên tắc của pháp luật được hiểu là những tư
tưởng, quan điểm chính trị - pháp lý chỉ đạo quá trình xây dựng và thi
hành pháp luật. Và như vậy có thể khẳng định nguyên tắc cơ bản của luật
quốc tế hiện đại là những tư tưởng, quan điểm chính trị - pháp lý chỉ đạo
làm cơ sở xây dựng và thi hành luật quốc tế hiện đại. Những nguyên tắc
cơ bản của pháp luật quốc tế về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô
nhiễm dầu là những tư tưởng chỉ đạo cơ bản, có tính chất xuất phát điểm,
thể hiện tính toàn diện, linh hoạt và có ý nghĩa bao trùm, quyết định nội
dung và hiệu lực của luật quốc tế về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu.
.........................................................................................................................


4


Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc (UNCED) đã
họp năm 1992 tại Rio de Janeiro, Brazil.. Tại đây, các đại biểu tham gia
đã thống nhất những nguyên tắc cơ bản và phát động một chương trình
hành động vì sự phát triển bền vững có tên là Chương trình Nghị sự 21 và
đưa ra 27 nguyên tắc chung, xác định những quyền và trách nhiệm của
các quốc gia nhằm làm cho thế giới phát triển bền vững, trong đó nguyên
tắc thứ 16 quy định “Các nhà chức trách quốc gia nên cố gắng đẩy mạnh
sự quốc tế hóa những chi phí môi trường và sự sử dụng các biện pháp
kinh tế, căn cứ vào quan điểm cho rằng về nguyên tắc người gây ô nhiễm
phải chịu phí tổn ô nhiễm, với sự quan tâm đúng mức đối với quyền lợi
chung và không ảnh hưởng xấu đến nền thương mại và đầu tư quốc tế”.
Nguyên tắc này hiện nay đã được hầu hết các quốc gia thừa nhận.................
Nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” đã được ghi nhận trong
văn kiện của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) được coi là
nguồn của pháp luật quốc tế và được các quốc gia áp dụng...........................
Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia......................................................
Trong phạm vi lãnh thổ của mình, quốc gia có quyền tối cao về lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Mọi vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
của một quốc gia phải do quốc gia đó quyết định, các quốc gia khác cũng
như các tổ chức quốc tế không có quyền can thiệp vào; mọi tổ chức, cá
nhân cư trú trên lãnh thổ của quốc gia phải tuân thủ pháp luật của quốc
gia, nếu điều ước quốc tế mà quốc gia ký kết hoặc tham gia không có quy
định khác.........................................................................................................
Trong quan hệ quốc tế, quyền độc lập của quốc gia thể hiện ở chỗ quốc
gia có quyền tự quyết định mọi vấn đề đối nội và đối ngoại của mình, các
quốc gia khác không có quyền can thiệp hoặc áp đặt; không có một thế

lực nào, cơ quan nào đứng trên quốc gia, có quyền áp đặt pháp luật và bắt

5


quốc gia phải thực hiện. Quốc gia chỉ có nghĩa vụ tuân thủ các nguyên tắc
cơ bản của luật quốc tế hiện đại, các quy định của điều ước quốc tế mà
quốc gia ký kết hoặc tham gia, đồng thời tôn trọng các tập quán quốc tế
cũng như các điều ước quốc tế do quốc gia khác ký kết phù hợp với các
nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại....................................................
Tôn trọng chủ quyền quốc gia còn có nghĩa là tôn trọng sự thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ quốc gia được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp
quốc (Điều 2) và nhiều văn kiện quan trọng khác của Đại hội đồng Liên
hợp quốc, trong đó có Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày
24/10/1970 về những nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu
nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp
quốc.................................................................................................................
Nguyên tắc các quốc gia có trách nhiệm hợp tác với nhau.............................
Vấn đề hợp tác giữa các quốc gia là vấn đề của riêng luật quốc tế hiện đại.
Bản thân tên nguyên tắc cũng thể hiện đầy đủ nội dung của nó là các quốc
gia có nghĩa vụ phải hợp tác với nhau. Và một trong những mục đích của
Liên hợp quốc là thực hiện hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề quốc
tế trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường. Trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu muốn
đạt hiệu quả cao thì phụ thuộc rất nhiều vào sự hợp tác của các quốc gia.
Điều 197 Công ước luật biển 1982 quy định “Các quốc gia hợp tác trên
phạm vi thế giới và nếu có thể thì trên phạm vi khu vực, trực tiếp hay qua
trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, trong việc hình thành
và soạn thảo các quy tắc và các quy phạm, cũng như các tập quán và thủ
tục đươc kiến nghị mang tính chất quốc tế phù hợp với Công ước, để bảo

vệ và gìn giữ môi trường biển, có tính đến các đặc điểm có tính chất khu
vực”. Một điều khoản khác trong Công ước Luật biển 1982 (Điều 123)

6


quy định sự hợp tác của các quốc gia ven biển kín hay nửa kín. Các quốc
gia ở ven bờ một biển kin hay nửa kín cần hợp tác với nhau trong việc sử
dụng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ của họ theo Công ước. Các
quốc gia này cố gắng phối hợp trong việc sử dụng các quyền và thực hiện
các nghĩa vụ của họ có liên quan đến việc bảo vệ và giữ gìn môi trường
biển..................................................................................................................
Nguyên tắc tôn trọng các quyền cơ bản của con người...................................
Về mặt lý luận cũng như trên thực tế, tôn trọng các quyền cơ bản của con
người là tôn trọng các quyền không thể thiếu để cá nhân, con người có thể
tồn tại và phát triển bình thường với tư cách là một thành viên cộng đồng
xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Những quyền đó gồm: quyền
sống và quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được tôn trọng danh dự và
phẩm giá, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng … Tất cả các quốc gia có
nghĩa vụ tôn trọng, bảo đảm các quyền cơ bản của con người trên tất cả
các lĩnh vực chính trị, dân sự,, kinh tế - xã hội và văn hóa, hợp tác với các
quốc gia khác trong việc bảo vệ và phát triển quyền con người, thực hiện
các cam kết quốc tế về bảo vệ quyền con người.............................................
1.3.4. Các án lệ và các học thuyết của các chuyên gia có chuyên môn cao
nhất về luật quốc tế của các quốc gia..............................................................
Án lệ được hiểu là các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực do tòa án
hoặc cơ quan trọng tài ban hành (có thể kể đến các bản án, quyết định của
Tòa án trọng tài thương mại của Phòng thương mại quốc tế Paris) được sử
dụng làm khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc tương tự xảy ra sau này. Ở
các nước phát triển và các nước thuộc hệ thống Common Law. Trong hệ

thống pháp luật Common Law, án lệ trở thành nguồn quan trọng, chủ yếu,
nó tồn tại như một nguồn luật. Học thuyết về án lệ đã bám rễ rất sâu trong
hệ thống pháp luật nước Anh. Rupert Cross đã nêu ra quan điểm lý luận

7


về học thuyết về án lệ tồn tại trong hệ thống Common Law là nguyên tắc
cơ bản trong hoạt động của các co quan tòa án, từ đó các vụ việc giống
nhau cần được xét xử như nhau. Từ thời cổ đại trong hệ thống pháp luật
Civil Law, án lệ được coi là nguồn thứ cấp. Truyền thống pháp luật Civil
Law từ thời cổ đại đã nhìn nhận vai trò rất giới hạn của cơ quan tư pháp
trong quyết định các vụ việc cụ thể không có luật điều chỉnh. Tuy nhiên
trong hệ thống pháp luật của các nước thuộc hệ thống Civil Law thời hiện
đại đã coi trọng vai trò của án lệ. Hệ thống các bản án có giá trị nhất định
đối với các vụ việc trong tương lai. Chẳng hạn như các quyết định của
Tòa án Hiến pháp ở Đức sẽ được tuân theo bởi các Tòa án cấp dưới trong
hệ thống cơ quan tòa án của nước này.............................................................
1.4. Tổng quan pháp luật nước ngoài về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do ô nhiễm dầu................................................................................................
Nói đến pháp luật nước ngoài về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô
nhiễm dầu là nói đến hai lĩnh vực: một là, pháp luật quốc gia về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu; hai là, việc ký kết, tham gia
các điều ước quốc tế về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu
của các quốc gia..............................................................................................
1.4.1. Pháp luật quốc gia về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm
dầu...................................................................................................................
Ở phần này tác giả luận văn tập trung vào nghiên cứu việc ký kết, tham
gia các điều ước quốc tế về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm
dầu của 3 quốc gia Hoa Kỳ, Canada và Trung Quốc......................................

* Hoa Kỳ........................................................................................................
Có thể nói xu hướng tham gia các điều ước quốc tế về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do ô nhiễm dầu là xu thế chung và khá phổ biến hiện nay
trên thế giới trong việc thiết lập quy chế bồi thường thiệt hại do ô nhiễm

8


dầu. Tuy nhiên Hoa Kỳ, cường quốc kinh tế số 1 thế giới và cũng là quốc
gia đứng đầu thế giới về nhập khẩu dầu thô, lại lựa chọn cho mình một
hướng đi riêng và khác biệt. Hoa Kỳ không ký kết hay tham gia các điều
ước quốc tế về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu mà thiết
lập nên một quy chế đền bù riêng có thông qua việc ban hành Đạo luật về
ô nhiễm dầu năm 1990 (viết tắt là OPA 1990). Hoa Kỳ trở thành quốc gia
đầu tiên và cũng là đại diện tiêu biểu nhất cho xu thế thứ hai trên thế giới
trong việc thiết lập quy chế đền bù thiệt hại do ô nhiễm dầu thông qua
một đạo luật riêng biệt.....................................................................................
.........................................................................................................................
Chương 2.........................................................................................................
PHÁP LUẬT HOA KỲ, CANADA VÀ TRUNG QUỐC..............................
VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI.........................................
ĐỐI VỚI Ô NHIỄM DẦU..............................................................................
2.1. Pháp luật Hoa Kỳ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với ô nhiễm dầu........37
2.1.1. Nhận xét chung...................................................................................................37
2.2. Pháp luật Canada về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với ô nhiễm dầu.........48
2.3. Pháp luật Trung Quốc về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với ô nhiễm dầu. 54
2.3.2.Quy định của pháp luật Trung Quốc về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với ô
nhiễm dầu.........................................................................................................................58

Chương 3.........................................................................................................

BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM........................................
VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM........
VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI.........................................
ĐỐI VỚI Ô NHIỄM DẦU..............................................................................
3.1.1. Việc gia nhập các công ước quốc tế về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với
ô nhiễm dầu..................................................................................................................73
3.1.2.2. Một vài đánh giá về các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại đối với ô nhiễm dầu..........................................................80
3.1.2.3. Thực trạng giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong các vụ ô nhiễm dầu ở
Việt Nam.......................................................................................................................82
3.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam từ việc nghiên cứu pháp luật của Hoa Kỳ,
Canada và Trung Quốc về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do đối với ô nhiễm dầu..84
9


3.2.1. Một số nhận xét..................................................................................................84
3.2.2. Bài học kinh nghiệm có thể vận dụng đối với Việt Nam...................................86
3.3.1. Đề xuất liên quan đến việc tham gia các điều ước quốc tế về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại đối với ô nhiễm dầu...........................................................................89
3.2.2. Đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối
với ô nhiễm dầu............................................................................................................91

KẾT LUẬN.....................................................................................................

10


DANH MỤC VIẾT TẮT
BTTH:


Bồi thường thiệt hại

BLHH:

Bộ luật hàng hải 2005

BUNKERS 2011: International Convention on Civil Liability for Bunker Oil
Pollution Damage, 2011
(Công ước quốc tế về Trách nhiệm dân sự và Bồi thường
thiệt hại do ô nhiễm dầu từ kho nhiên liệu của tàu, 2001)
CLC 1969:

International Convention on Civil Liability for Oil
Pollution Damage, 1969
(Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với các thiệt
hại do ô nhiễm dầu 1969)

CLC 1992:

International Convention on Civil Liability for Oil
Pollution Damage, 1992
(Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với các thiệt
hại do ô nhiễm dầu 1992)

FUND 1971:

International Convention on the Establishment of an
International Fund for Compensation for Oil Pollution
Damage, 1971
(Công ước quốc tế về thiết lập Quỹ quốc tế để bồi thường

thiệt hại do ô nhiễm dầu 1971)

FUND 1992:

International Convention on the Establishment of an
International Fund for Compensation for Oil Pollution
Damage, 1992
(Công ước quốc tế về thiết lập Quỹ quốc tế để bồi thường
thiệt hại do ô nhiễm dầu 1992)


HNS 1996:

International Convention on Lliability and Compensation
for Damage in connection with the Carriage of Hazadous
and Noxious Substances by Sea, 1996
(Công ước quốc tế về trách nhiệm và bồi thường tổn thất
liên quan đến vận chuyển các chất nguy hiểm và độc hại
bằng đường biển 1996)

IOPC 71:

International Oil Pollution Fund 1971
(Quỹ quốc tế đền bù thiệt hại do ô nhiễm dầu từ tàu 1971)

IOPC 92:

International Oil Pollution Fund 1992
(Quỹ quốc tế đền bù thiệt hại do ô nhiễm dầu từ tàu 1992)


MEPL:

Luật bảo vệ môi trường của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
năm 1982

NPFC:

National Pollution Funds Center
(Trung tâm quỹ ô nhiễm quốc gia Hoa Kỳ)

OPA 1990:

Oil Pollution Act
(Đạo luật ô nhiễm dầu 1990)

OSLTF:

Oil Spill Liability Trust Fund
(Quỹ ủy thác trách nhiệm pháp lý dầu tràn)

SDRs:

Special Drawing Rights
(Quyền rút vốn đặc biệt)

USCG:

United States Coast Guard

Grt:


Gross tonage
(Dung tải đăng ký)


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Theo đánh giá của Viện Khoa học và Tài nguyên Môi trường biển Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam: Từ năm 1989 đến nay, vùng biển
nước ta có khoảng 100 vụ tràn dầu do tai nạn tàu, các vụ tai nạn này đều đổ ra
biển từ vài chục đến hàng trăm tấn dầu [17, tr.23].
Các vụ tràn dầu xảy ra trong thời gian qua đều gây thiệt hại đến môi
trường, ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp và lâu dài đến hoạt động và đời
sống của xã hội. Thiệt hại do ô nhiễm dầu trước mắt và lâu dài cũng như các
thiệt hại mà những người có liên quan trực tiếp phải gánh chịu như hàng hải,
đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản, nông nghiệp, ngư nghiệp, du lịch,… là rất lớn,
nhưng việc bồi thường thực tế mà những người bị thiệt hại nhận được thì lại
không đáng kể, không đủ trang trải thiệt hại, khắc phục sự cố và làm sạch môi
trường. Có thể thấy vụ tàu chở dầu Neptune Aries (Singapore) đâm vào cầu tàu
cảng Cái Tiên trên sông Sài Gòn làm tràn 1.584 tấn dầu DO và hơn 150 tấn xăng
dầu các loại từ các đường ống dẫn dầu của cầu cảng. Thiệt hại ước tính 28 triệu
USD, nhưng chủ tàu chỉ chấp nhận bồi thường thiệt hại một (01) triệu USD vận
dụng theo quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 1990. Sau đó, do mối
quan hệ giữa hai nước và qua thương lượng, chủ tàu mới chấp nhận bồi thường
4,2 triệu USD [17, tr.48]. Số tiền bồi thường quả là ít ỏi và chênh lệch quá lớn so
với thực tế thiệt hại. Nhưng điều đáng lưu ý là các nhà môi trường Việt Nam (đại
diện Sở Khoa học Môi trường tp. Hồ Chí Minh và Cục Môi trường) đã không
biết rằng quy định về giới hạn trách nhiệm dân sự chủ tàu của Bộ luật Hàng hải
Việt Nam chỉ áp dụng đối với tàu Việt Nam nên đã để chủ tàu nước ngoài vận
dụng Luật Hàng hải Việt Nam theo hướng có lợi cho họ.

Qua ví dụ này cho thấy các quy định pháp luật của nước ta về ô nhiễm
dầu nói chung và bồi thường thiệt hại đối với ô nhiễm dầu nói riêng chưa đủ
1


đáp ứng yêu cầu mà thực tiễn đặt ra. Một nhu cầu cấp bách và thiết yếu đặt ra
hiện nay là phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước về ô
nhiễm dầu đặc biệt là các quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại đối với ô
nhiễm dầu.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật quốc tế và
pháp luật ba quốc gia Hoa Kỳ, Canada và Trung Quốc về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại đối với ô nhiễm dầu. Qua đó tim ra những bài học kinh
nghiệm và nêu lên những đề xuất nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam về vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với ô nhiễm dầu.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào việc phân tích các quy
định của một số công ước quốc tế quan trọng (CLC 1992, FUND 1992 …) và
các quy định của pháp luật ba quốc gia Hoa Kỳ, Canada, Trung Quốc về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại đối với ô nhiễm dầu từ đó cho thấy sự cần thiết của
việc Việt Nam gia nhập các công ước quốc tế về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại đối với ô nhiễm dầu và xây dựng một đạo luật chuyên biệt về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại đối với ô nhiễm dầu.
4. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay đã có nhiều nghiên cứu dưới dạng tạp chí, chuyên đề, đề tài,
luận văn thạc sỹ nghiên cứu về vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với
ô nhiễm dầu. Tuy nhiên các tác giả chỉ mới đề cập đến hệ thống pháp luật quốc
tế nói chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với ô nhiễm dầu. Luận văn
đi vào nghiên cứu pháp luật của ba quốc gia điển hình là Hoa Kỳ, Canada và
Trung Quốc. Vì vậy có thể nói đây là một cách tiếp cận khá mới mẻ, tài liệu

tham khảo còn khá ít nên tác giả cũng gặp nhiều khó khăn trong quá trình sưu
tầm tài liệu và viết.

2


5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phương pháp
thống kê, so sánh, tổng hợp và phân tích.
6. Những điểm mới của Luận văn
Đây là công trình khoa học nghiên cứu tương đối đầy đủ và hệ thống
các quy định của pháp luật ba quốc gia Hoa Kỳ, Canada, Trung Quốc và pháp
luật Việt Nam về vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với ô nhiễm dầu.
Về mặt lý luận và thực tiễn, luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu tương
đối đầy đủ, toàn diện về hệ thống pháp luật của ba quốc gia điển hình Hoa
Kỳ, Canada và Trung Quốc về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với ô
nhiễm dầu với mục đích đưa ra những bài học kinh nghiệm nhằm hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Do vậy với kết quả đạt được, luận văn sẽ góp phần giải quyết một số
vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn của pháp luật về bồi thường thiệt hại đối
với ô nhiễm dầu, góp phần hoàn thiện những nội dung cơ bản nhất của pháp
luật Việt Nam về vấn đề này trước thực trạng ô nhiễm dầu ngày càng gia tăng
cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành ba chương:
Nội dung chính của các chương cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với ô nhiễm dầu
Chương 2: Pháp luật Hoa Kỳ, Canada và Trung Quốc về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại đối với ô nhiễm dầu

Chương 3: Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam và đề xuất giải pháp
hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với ô
nhiễm dầu

3


Chương 1
TỔNG QUAN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT
NƯỚC NGOÀI VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
ĐỐI VỚI Ô NHIỄM DẦU
1.1. Thực trạng ô nhiễm dầu trên biển
Ngày nay dầu mỏ là một trong những mối quan tâm hàng đầu đối với tất
cả các nước trên thế giới, nó đe dọa nguồn an ninh năng lượng của toàn cầu.
Hầu như dầu mỏ và các sản phẩm từ dầu mỏ có mặt trong tất cả các hoạt động
kinh tế cũng như sinh hoạt hàng ngày của con người. Đi đôi với những lợi ích
từ việc thu hồi dầu, chúng ta còn phải đối mặt với những nguy cơ ô nhiễm do
chúng gây ra. Dầu có những tính chất đặc biệt do vậy khi xảy ra sự cố tràn dầu
hay rò rỉ dầu đều gây ra các ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường.
Trong lịch sử hiện đại, nhân loại đã từng chứng kiến những vụ tràn dầu
lớn, để lại hậu quả nặng nề cho môi trường biển. Có thể điểm qua một số vụ ô
nhiễm dầu điển hình trên thế giới từ 1967- 2010 [12, tr. 30] như sau:
Ngày 18/3/1967, tại vùng eo biển La Manche (Đại Tây Dương). Tàu
chở dầu Torrey Canyon đã mắc cạn ở bờ biển của nước Anh, hệ quả là làm
tràn 38 triệu gallon dầu.
Ngày 15/12/1976, tại Vịnh Buzzards, bang Massachusetts, Mỹ, tàu
Argo Merchant va vào đất liền và vỡ tại đảo Nantucket, làm tràn 7,7 triệu
gallon dầu
Ngày 16/3/1976, tại biển Portsall, Pháp, siêu tàu chở dầu Amoco Cadiz
làm tràn 68 triệu gallon.

Tháng 4/1977 xảy ra vụ nổ giếng dầu tại dàn khoan dầu Ekofisk khiến
81 triệu gallon dầu thô tràn ra Biển Bắc.
Ngày 19/7/1979 hai tàu Atlantic Empress và Aegean Captain đâm nhau
tại Tobago, Barbados làm tràn 46 triệu gallon dầu thô và 41 triệu gallon dầu
(khi lai dắt tàu A.E.).
4


Ngày 1/11/1979, tại vịnh Mexico, khoảng 2,6 triệu gallon dầu tràn ra
biển khi tàu Burmah Agate va chạm với tàu chở hàng Mimosa.
Ngày 4/2/1983, dàn khoan dầu Nowruz bị rò rỉ khiến 80 triệu gallon
dầu tràn ở Vịnh Ba Tư, Iran.
Ngày 23/3/1989, tại eo biển Prince William, Alaska, Hoa Kỳ, tàu chở
dầu Exxon Valdez va vào rặng san hô và làm tràn 10 triệu gallon dầu vào
nước biển, gây nên vụ tràn dầu nghiêm trọng nhất lịch sử nước Mỹ.
Ngày 19/12/1989, tại biển Las Palmas, đảo Canary, nổ siêu tàu chở dầu
của Iran Kharg-5 làm tràn 19 triệu gallon dầu thô ra biển Đại Tây Dương.
Ngày 8/6/1990, tại biển Galveston, Texas, Hoa Kỳ, tàu mega Borg khiến
5,1 triệu gallon dầu tràn ra biển sau khi xảy ra một vụ nổ trong phòng bơm.
Ngày 10/8/993, tại Vịnh Tampa, xà lan Bouchard B155, tàu chở hàng
Balsa 37 và xà lan Ocean 255 va vào nhau, làm tràn khoảng 336 gallon dầu.
Ngày 15/2/1996, tại biển xứ Wales, siêu tàu chở dầu Sea Empress va
vào đất liền tại vịnh Milford Haven, làm tràn 70 triệu lít dầu thô.
Ngày 12/2/ 1999, tại bờ biển Đại Tây Dương thuộc Pháp, tàu chở dầu
Erika bị vỡ và chìm ngoài khơi Britanny, làm tràn 3 triệu gallon dầu nặng.
Ngày 18/1/2000, đường ống dẫn dầu (thuộc doanh nghiệp Nhà nước
Brazil) bị vỡ làm 343.200 gallon dầu nặng tràn ra Vịnh Guanabara, ngoài
khơi bờ biển Rio de Janeiro
Ngày 28/7/2003, tàu chở dầu Tasman Spirit mắc cạn và nứt làm đôi,
làm một trong số 4 bồn chứa dầu bị vỡ, tràn 28.000 tấn dầu thô, tại cảng

Karachi, Pakistan.
Tháng 8-9/2005, Bão Katrina làm vỡ nhiều đường ống dẫn dầu, bồn
chứa và nhà máy công nghiệp khiến 7 triệu gallon tràn trên biển, tại bang
Louisiana của Hoa Kỳ.

5


Ngày 7/12/2007, Tàu Hebei Spirit đụng phải một dây thép nối giữa một
tàu kéo và một xà lan làm tràn 2,8 triệu gallon dầu thô tại 5 dặm ngàoi khơi
bò biển phía tây Hàn Quốc
Ngày 20-24/4/2010, dàn khoan dầu Deepwater Horizon (BP) bị nổ và
chìm khiến 60.000 thùng dầu thô bị tràn mỗi ngày tại vịnh Mexico, Hoa Kỳ.
Như vậy, có thể nhận thấy, nguồn gây ô nhiễm dầu trên biển rất đa
dạng, phong phú, không chỉ do các tai nạn đâm va tàu chở dầu mà còn có thể
do hoạt động của chính bản thân con tàu, từ sự cố tại các dàn khoan, thậm chí
nhiều trường hợp nguồn gây ô nhiễm xuất phát từ đất liền.
1.1.1. Nguồn gây ô nhiễm dầu trên biển:
Về nguồn gây ô nhiễm hiện nay tồn tại hai cách phân loại một là cách
phân loại theo quy định của Công ước luật biển 1982 và hai là cách phân loại
theo thống kê của Tổ chức hàng hải quốc tế - IMO.
Theo quy định của Công ước luật biển quốc tế 1982, nguồn gây ô
nhiễm môi trường biển bao gồm 06 loại:
- Ô nhiễm bắt nguồn từ đất liền (Điều 207)
- Ô nhiễm do hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc thẩm quyền tài
phán quốc gia và hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra (Điều 208 – 209)
- Ô nhiễm do sự nhận chìm (Điều 210)
- Ô nhiễm do tàu thuyền gây ra (Điều 211)
- Ô nhiễm có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển (Điều 212)
Theo thống kê của Tổ chức hàng hải quốc tế (IMO) thì nguồn gây ô

nhiễm môi trường biển gồm 05 loại chính:
- Ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền như ô nhiễm gây ra bởi những vật
liệu (thông qua năng lượng) được thải vào môi trường biển có nguồn gốc từ
đất liền, thông qua các cửa sông, đường ống và các cấu trúc

6


- Ô nhiễm do đổ các chất thải công nghiệp và các chất thải từ thành phố
được vận chuyển bằng tàu nhằm đổ xuống biển hoặc đốt ở trên biển, kể cả
việc đổ những vật liệu thu được khi nạo vét luồng, cửa sông
- Ô nhiễm gây ra bởi việc đổ trực tiếp những vật liệu độc hại phát sinh
từ việc thăm dò khai thác khoáng vật từ đáy biển
- Ô nhiễm từ và thông qua khí quyển, do thải những vật liệu độc hại
(hoặc năng lượng) vào khí quyển do hoạt động của con người trên đất liền, do
tàu hoặc máy bay, những vật liệu này sẽ rơi xuống biển cùng với nước mưa
hoặc tuyết
- Ô nhiễm do tàu biển gây ra, tức là ô nhiễm gây ra bởi các hoạt động
thải từ tàu biển (do làm sạch két hoặc thay nước ballast) hoặc gây ra bởi các
tai nạn hàng hải (sau khi xảy ra va chạm hoặc tàu bị mắc cạn)
Trong cả hai cách phân loại trên, nguồn gây ô nhiễm môi trường biển
do dầu từ tàu biển gây ra đều được nhắc đến.
Ô nhiễm biển do dầu bao gồm các nguồn chính là: ô nhiễm từ tàu biển,
ô nhiễm do hoạt động khai thác dầu khí, ô nhiễm từ đất liền. Trong đó ô
nhiễm dầu từ tàu biển bao gồm: ô nhiễm do hoạt động vận tải biển và do sự
cố, tai nạn của các con tàu xảy ra trên biển.
Ô nhiễm dầu do hoạt động vận tải biển: Theo tài liệu thống kê của Liên
hợp quốc thì lượng dầu ra biển có liên quan đến các hoạt động của hàng hải là
2 – 3 triệu tấn/năm, chiếm 30% lượng dầu đổ ra biển theo các con đường khác
nhau, thậm chí người ta còn cảnh báo rằng hoạt động hàng hải và các tai nạn

của các con tàu chiếm 46 – 47% tổng lượng dầu rò rỉ xuống biển. Hàng năm có
gần 02 tỷ tấn dầu được vận chuyển chủ yếu bằng con đường hàng hải cho thấy
khả năng gây ô nhiễm biển do dầu từ hoạt động hàng hải rất lớn [24, tr.6].
Ô nhiễm dầu do tràn dầu từ tàu dầu: Mặc dù nguồn gây ô nhiễm dầu từ
tàu bị tai nạn, sự cố trên biển chỉ chiếm 25% số vụ gây ô nhiễm dầu – nhưng
7


lại đổ một lượng rất lớn dầu xuống biển. Tai nạn gây tràn dầu kéo theo một
lượng lớn dầu thô đổ ra biển bởi tàu chở dầu thường có trọng tải lớn, tạo nên
các cơn “thủy triều đen”. Tràn dầu từ tàu dầu tạo ra khoảng 400.000 tấn/năm,
đa số xảy ra trong cảng khi tiến hành các hoạt động hàng hải thông thường
như xếp, dỡ và tiếp nhận nhiên liệu. Hầu hết các vụ này tương đối nhỏ, trên
92% là ít hơn 7 tấn, và tính tổng số là khoảng 20.000 tấn/năm. Có thể kể đến
một số vụ tai nạn tràn dầu như: tàu Amoco Cadiz đắm ngày 16/03/1978 tại
vùng biển Porstall của Pháp đã đổ ra biển 223.000 tấn dầu; tàu Exxon Vaidez
tràn 40.000 tấn dầu thô xuống biển làm chết hàng tỷ cá hồi, 250 ngàn chim
biển, 2800 rái cá biển, 300 hải cẩu, 250 đại bàng trắng, 22 cá voi tại Alaska
năm 1983; tháng 3 năm 2001 dàn khoan lớn nhất của công ty dầu khí Brasin
Petrobras bị sự cố làm tràn 26.000 tấn dầu ra biển [24, tr.6].
Ô nhiễm dầu do hoạt động dầu khí trên biển: Hiện nay dầu đã được
phát hiện ở thềm lục địa và biển của trên 30 nước, nhiều vùng có khối lượng
tập trung lớn như vịnh Pecxich, vịnh Mêhicô, Bắc Mỹ … Theo tính toán,
lượng dầu thất thoát khi khai thác chiếm 0,23% trên mặt biển, khu vực khai
thác dầu khí thường xuyên xuất hiện những “con rắn dầu” – hậu quả của tràn
dầu – do việc ban hành cẩu thả, đứt vòi bơm và do các con tàu thả trộm nước
dàn chứa dầu ra biển. Các vụ tai nạn gây ô nhiễm nghiêm trọng, như phụt dầu
từ giếng dầu, là ít khi xảy ra nhưng ¾ của tổng số 50.000 tấn dầu tràn hàng
năm từ công trình ngoài khơi [24, tr.6].
Ô nhiễm dầu từ bờ chủ yếu là từ các nhà máy lọc dầu cũng như từ các

nhà máy công nghiệp khác; dầu thải được đổ ra biển qua hệ thống sông ngòi
và thoát nước.
1.1.2. Tác hại nghiêm trọng của các hiện tượng ô nhiễm dầu
Có thể nói, ô nhiễm biển do dầu luôn được xem là nguồn ô nhiễm nguy
hiểm của môi trường biển, trong đó, nguồn ô nhiễm do dầu từ tai nạn tàu (tàu

8


chở dầu bị đắm, đâm va … trên biển và đại dương) là đáng quan tâm nhất, bởi
hơn 60% tổng sản lượng dầu mỏ khai thác trên thế giới được vận chuyển bằng
đường biển [24, tr.4]. Với một số lượng lớn dầu mỏ được vận chuyển bằng
đường biển như vậy đã là nguyên nhân làm tăng nhanh chóng dung tích trọng
tải của đội tàu dầu thế giới và do đó cũng tiềm ẩn những khả năng tai nạn
cũng như rò rỉ dầu từ tàu gây ô nhiễm môi trường biển. Mặt khác, hậu quả của
ô nhiễm biển do dầu từ tàu trong các vụ tai nạn nặng nề, thảm khốc đến nỗi
mà mỗi khi sự cố tràn dầu xảy ra, người ta thường ví nó như một thảm họa
lớn của môi trường biển.
So với ô nhiễm biển do dầu từ hoạt động tàu thuyền gây ra, nếu tổn thất
gây ra cho môi trường biển thường khó phát hiện ngay được với một hàm
lượng dầu trong nước biển tăng chậm thì ngược lại, ô nhiễm biển do dầu từ
các vụ tai nạn tàu làm hàm lượng dầu trong nước biển tăng lên đột biến, đưa
lại ảnh hưởng trực tiếp, ngay tức khắc và rất rõ ràng tới môi trường biển, ảnh
hưởng đến cuộc sống của con người về mọi mặt. Chính vì thế, sự cố tràn dầu
trong các vụ tai nạn thường thu hút nhiều sự quan tâm của nhân loại. Khi
lượng lớn dầu bề mặt đủ để bao lấy lông hay da của động vật, chúng sẽ không
thể giữ ấm và dù chúng có cố gắng tự làm sạch thì chúng cũng đã ăn phải chất
dầu hóa học. Rất nhiều động vật bị nhiễm dầu sẽ bị lạnh mà chết hay sẽ chết
vì ăn phải những chất độc hại này; hoặc chúng không chết nhanh chóng vì
việc tràn dầu mà có thể làm gia tăng bệnh gan và các vấn đề về sinh sản và

phát triển do ăn phải dầu. Thậm chí với những lượng nhỏ dầu cũng sẽ lan tỏa,
trôi nổi trên bề mặt nước bao phủ lên một vùng nước rộng lớn. Những lớp
màng rộng lớn này có thể giết chết các ấu trùng biển, từ đó giảm thiểu số
lượng các loài động vật biển.
Với số lượng dầu đổ tập trung ra biển nhiều như vậy, các vụ tai nạn
này đã gây tổn thất lớn cho môi trường biển, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống
con người, trở thành nguyên nhân trực tiếp của sự ra đời các quỹ tự nguyện,
9


các công ước quốc tế và các văn bản trong nước về bồi thường thiệt hại do ô
nhiễm dầu.
Theo tính toán của các nhà khoa học, cứ một tấn dầu mỏ đổ ra biển có
thể lan tỏa trên bề mặt rộng 12 km², tạo ra lớp váng dầu dày khoảng
1/1.000mm [24, tr.4]; từ đó làm mất các giá trị mỹ cảm của biển, phá hủy các
bãi tắm, các điểm du lịch, ngăn cản nước với không khí làm cho nước biển
thiếu oxy khiến các loài thực vật và thực vật phù du bị chết ngạt. Dầu mỏ lan
nhanh trên mặt nước biển do tính chất lý, hóa học của nó và dưới sự tác động
của dòng chảy, thủy triều, gió … ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt và sự sống của
các quần thể loài chim, các động vật sống ở biển, động vật không xương sống
khác và các rừng ngập mặn. Dầu tràn phá hủy các rừng ngập mặn, các rạn san
hô, các thảm cỏ biển, là môi trường sinh sống của động vật biển nên đe dọa đến
đa dạng sinh học, đồng thời làm cho đất liền đứng trước nguy cơ lở đất, sóng
thần … Dầu còn phá hủy các cánh đồng muối, làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến các nhà máy lấy nước biển phục vụ cho sản xuất … hơn nữa, làm sạch dầu
là một công việc rất khó khăn, mất rất nhiều công sức, tiền của và thời gian. Ví
dụ, riêng chi phí ngăn chặn ô nhiễm dầu vụ Exxon Vaidez hết 2,1 tỷ USD, thiệt
hại khác ước tính khoảng 5 tỷ USD [24, tr.4]. Mặt khác những hóa chất phân
hủy làm sạch dầu hiện nay đều là các chất gây hại cho sinh vật biển, cho con
người; do đó, việc sử dụng hóa chất là rất hạn chế bởi nếu không việc làm sạch

ô nhiễm dầu sẽ lại làm cho biển ô nhiễm hóa chất độc.
1.2. Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với ô
nhiễm dầu
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại (viết tắt là BTTH) do ô nhiễm dầu là
một dạng của trách nhiệm BTTH do ô nhiễm môi trường.
Do quan hệ pháp luật trong lĩnh vực môi trường có thể phát sinh giữa
các chủ thể mà không cần đến các cơ sở pháp lý làm tiền đề (như quan hệ hợp

10


đồng hay quan hệ công vụ) nên BTTH trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ
bảo vệ môi trường là trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng.
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm
dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định
ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì
phải BTTH do mình gây ra.
Nếu trách nhiệm BTTH theo hợp đồng bao giờ cũng được phát sinh
trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là
một loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi
trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
- Về cơ sở phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng
là một loại trách nhiệm dân sự phát sinh trên cơ sở do pháp luật quy định.
Khác với các loại trách nhiệm pháp lý khác thì trách nhiệm dân sự có thể phát
sinh trên cơ sở sự thoả thuận của các bên.
- Về điều kiện phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các điều
kiện đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái phát luật, có mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi. Lỗi không phải là
điều kiện bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, trong

một số trường hợp, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh ngay cả khi
người gây thiệt hại không có lỗi.
- Nguyên tắc BTTH ngoài hợp đồng:
+ Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể
thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật
hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều
lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
+ Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi

11


vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài
của mình
+ Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt
hại có hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thay đổi mức bồi thường.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp bồi
thường thiệt hại do ô nhiễm dầu thường có yếu tố nước ngoài. Quan hệ trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài là quan hệ
trách nhiệm có một trong các yếu tố sau đây:
- Các bên chủ thể tham gia quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại
không có cùng quốc tịch hoặc không cùng nơi cư trú hoặc không cùng nơi
đóng trụ sở trên lãnh thổ của một quốc gia.
- Hành vi gây ra thiệt hại hoặc hậu quả thực tế của hành vi gây ra thiệt
hại xảy ra ở nước ngoài.
Hiện nay điều chỉnh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
có yếu tố nước ngoài, đa số pháp luật các nước đều áp dụng pháp luật của
nước nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật (lex loci delicti commisi). Tuy
nhiên trong thực tế đời sống quốc tế, thường xảy ra trường hợp hành vi gây

thiệt hại được thực hiện ở nước này nhưng hậu quả của hành vi gây thiệt hại
đó lại phát sinh ở một nước khác.
Vấn đề là ở chỗ cần phải xác định đâu là nơi xảy ra hành vi vi phạm: nước
nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hay nước nơi phát sinh hậu quả? Các vụ ô nhiễm
dầu thường chứa đựng những yếu tố này và cần có lời giải đáp thỏa đáng.
Thực tế hiện nay các nước trên thế giới chưa có quan điểm thống nhất
về việc đâu được coi là nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại. Có nước quy định nơi
vi phạm pháp luật là nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại (Italia, Hy Lạp). Theo
quan điểm này thì khi giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi

12


thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài, luật được áp dụng để
giải quyết tranh chấp sẽ là hệ thuộc luật nơi có hành vi vi phạm.
Trong khi đó pháp luật một số quốc gia khác lai quy định nơi vi phạm
pháp luật là nơi phát sinh hậu quả thực tế do hành vi gây thiệt hại gây ra
(Anh, Hoa Kỳ). Như vậy ở những nước theo quan điểm này người ta sẽ áp
dụng pháp luật của nước nơi có hiện diện của hậu quả thiệt hại để xác định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Kết hợp cả hai quan điểm
nêu trên, pháp luật của một số nước (Đức, Việt Nam) quy định áp dụng cả hai.
Đó là pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc pháp luật của
nước nơi phát sinh hậu quả thực tế tùy theo hoàn cảnh cụ thể pháp luật nước
nào có lợi hơn khi áp dụng.
Như vậy có thể nhận thấy, nguyên tắc áp dụng chủ yếu để giải quyết
vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
là luật nơi xảy ra hành vi vi phạm (lex loci delicti commisi). Việc áp dụng luật
nơi xảy ra hành vi vi phạm để giải quyết các vấn đề liên quan đến trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài có những ý nghĩa:
Một là, nguyên tắc luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật (lex loci

delicti commisi) thể hiện tính khách quan, trong trường hợp bên gây thiệt hại
và bên bị thiệt hại không cùng quốc tịch hoặc nơi cư trú thì áp dụng nguyên
tắc này là phù hợp.
Hai là, việc xác định nơi xảy ra thiệt hại (lex loci delicti commisi) thuận
lợi dễ dàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết của tòa án. Tòa án có thể
dễ dàng hơn trong việc điều tra, thu thập chứng cứ, xác minh về thiệt hại
Ba là, nhìn chung nơi xảy ra thiệt hại là nơi có mối quan hệ gần gũi
nhất với loại tranh chấp trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
xét về tính chất loại vụ việc thì áp dụng luật nơi xảy ra thiệt hại là quy phạm
thể hiện đúng nhất bản chất của quan hệ. Do vậy ưu điểm nổi bật của nguyên

13


×