Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP GIẢNG BÌNH CỦA NGUYỄN ĐĂNG MẠNH VÀO GIẢNG DẠY TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG TRONG NHÀ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.71 KB, 28 trang )

TÓM TẮT NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Trong những năm qua, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc dạy
học văn ở nhà trường phổ thông đang có những biểu hiện chưa được như mong
muốn. Môn Ngữ văn đang mất dần vị thế vốn có của nó. Học trò chán văn đã trở
thành tình trạng chung của nền giáo dục nước nhà. Vấn đề dạy học môn Ngữ
văn trong nhà trường phổ thông đã và đang là vấn đề thời sự nóng hổi khi trò
chán học, thầy chán dạy, môn Ngữ văn trở thành "gánh nặng" đối với học sinh.
Lẽ ra giờ học Văn là những giờ thầy trò say sưa, hứng thú từ những bài thơ lung
linh hình ảnh, sắc màu, dạt dào nhạc điệu, ý tứ sâu xa, chắp cánh tâm hồn học
trò. Đáng lẽ, mỗi giờ dạy học tác phẩm văn chương phải mang lại niềm vui lớn
trong tâm hồn và trí tuệ học sinh, giáo viên thì ngược lại, không ít giờ Văn trở
nên nặng nề, khô khan, nhàm chán.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do vấn đề
phương pháp dạy học của người giáo viên. Trong đó phương pháp giảng bình phương pháp đặc thù trong dạy học văn đã bị quan niệm sai lệch, sử dụng yếu
kém, không hiệu quả. Tất nhiên, giảng bình chỉ là một trong những phương pháp
dạy học văn, nhưng nó là phương pháp quan trọng, cần được hiểu đúng, vận
dụng linh hoạt, sáng tạo để vận dụng hết công năng của nó, từ đó nâng cao chất
lượng, "trả lại bản chất nghệ thuật kì diệu" cho các giờ học văn.
Nhưng, bằng phương hướng nào? Bằng con đường nào để giải quyết vấn
đề rộng lớn và khó khăn trên?
Tìm về những thành tựu văn hoá tinh thần truyền thống của dân tộc,
nghiên cứu, vận dụng kinh nghiệm giảng bình thơ của các nhà nghiên cứu, nhà
thơ, nhà giáo uy tín để đổi mới phương pháp giảng bình trong dạy học tác phẩm
văn chương ở nhà trường Trung học phổ thông chính là một phương hướng, một
giải pháp tích cực cho vấn đề vừa nêu.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.
- Áp dụng cho các tiết học tác phẩm văn chương trong chương trình.
- Thời gian: Năm học 2014 - 2015.
- Đối tượng học sinh khối 10, 11, 12.
3. Nội dung sáng kiến
Nguyễn Đăng Mạnh là người có ngòi bút phê bình tinh tế, sắc sảo, là


người có "con mắt xanh", có thể "đọc tính các nhà văn", có nhiều kinh nghiệm
1


về nghiên cứu và cảm thụ văn học mà chúng ta có thể học hỏi. Chính vì thế,
người viết đã chắt lọc những tinh hoa bổ ích trong nghệ thuật giảng bình của
Nguyễn Đăng Mạnh, tìm ra những bài học quý giá về quan niệm và phương
pháp giảng bình của ông, vận dụng một cách phù hợp và sáng tạo vào phương
pháp giảng bình văn học ở nhà trường Trung học phổ thông.
Sáng kiến đề xuất một số biện pháp tham khảo bổ ích giúp giáo viên, học
sinh giảng bình thơ hiệu quả hơn, qua đó nâng cao tình yêu và niềm say mê dạy
học văn, khiến giờ dạy văn có "hồn văn", giờ học thơ đậm đà "chất thơ", không
biến thành "bát canh suông nhạt nhẽo". Từ đó khẳng định vị trí, tầm quan trọng,
tính ưu việt của phương pháp giảng bình tác phẩm văn chương trong hệ thống
các phương pháp dạy học văn.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến.
Khi vận dụng sáng kiến vào thực tế dạy học, tôi thấy có những thay đổi
tích cực trong quá trình học tập của học sinh. Kết hợp với các phương pháp
khác, bình giảng giúp giờ học trở nên sinh động, môn Văn có sức lôi cuốn và
phát huy được tính tích cực chủ động trong giờ học môn Văn của cả giáo viên và
học sinh.
Mặt khác, bình giảng phát triển năng lực thưởng thức văn học và cảm thụ
thẩm mĩ ở học sinh. Thông qua bình giảng, học sinh có thể cảm nhận vẻ đẹp của
ngôn ngữ văn học, nhận ra những giá trị thẩm mĩ được thể hiện trong tác phẩm
văn học từ đó bồi đắp tâm hồn, biết yêu cái thiện, cái đẹp, không thờ ơ, bàng
quan với những cảnh đời xung quanh, biết đam mê và mơ ước cho cuộc sống tốt
đẹp hơn. "Văn học là nhân học", thực sự bình giảng văn chương đã giúp các em
khám phá chính tâm hồn mình và ý thức sâu sắc hơn về văn chương và cuộc đời.
5. Đề xuất, kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến.
Để sáng kiến được áp dụng sâu rộng, có hiệu quả tôi rất mong được sự

ủng hộ, quan tâm của các giáo viên dạy học bộ môn Ngữ văn. Chúng ta cần có
cái nhìn chính xác, toàn diện hơn về phương pháp giảng bình, tránh những qua
điểm sai lệch, phiến diện, phủ nhận giảng bình như một phương pháp dạy học
văn cũ.
Phương pháp giảng bình cần được áp dụng như một phương pháp đặc thù
quan trọng, một "mắt xích" không thể thiếu trong "sợi dây xích" - phương pháp
2


dạy học ngữ văn để giảng bình phát huy hết tác dụng của nó. Chỉ có như vậy,
giờ học văn mới khơi dậy được những say mê, rung động sâu sắc trong tình cảm
và trí tuệ học trò, từ đó bồi đắp tâm hồn học trò, hướng các em tới những giá trị
Chân - Thiện - Mĩ.

3


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
1.1. Môn Ngữ văn là một môn học có vị trí, vai trò quan trọng ở nhà trường phổ
thông. Đây là môn chiếm số tiết học và lượng thời gian nhiều trong chương trình
học. Mặt khác, đây cũng là môn học trang bị cho học sinh những cảm xúc nhân
văn đẹp đẽ, có khả năng thanh lọc tâm hồn và hướng các em tới Chân - Thiện Mĩ. Nhờ có văn học mà đời sống tinh thần của các em ngày càng giàu có, phong
phú, tinh tế hơn, tâm hồn trở nên bớt chai sạn, thờ ơ trước những số phận, cảnh
đời diễn ra xung quanh mình. "Văn học là nhân học", môn Ngữ văn đóng vai trò
quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho học sinh.
Tuy nhiên, hiện nay học sinh không còn mặn mà với môn Ngữ văn nữa.
Theo khảo sát của các nhà giáo dục Việt Nam, trong mấy thập kỉ gần đây, chất
lượng học văn của học sinh Trung học phổ thông ngày càng giảm sút. Môn Ngữ
văn mất dần ưu thế của nó. Học sinh không còn tha thiết với môn Văn. Có

những em yêu văn nhưng lại thất vọng vì thầy cô giảng chưa thực sự lôi cuốn.
Lẽ ra mỗi giờ văn phải là một niềm vui lớn thì ngược lại, không ít giờ văn
thơ bấy lâu nay thật là một "gánh nặng". Vậy nguyện nhân nào đã dẫn đến tình
trạng trên?
Có nhiều nguyên nhân khác nhau song nguyên nhân cơ bản chính là
phương pháp dạy học của người giáo viên. Giáo viên Ngữ văn vẫn chưa tận
dụng hết những mặt tích cực của phương pháp dạy học văn. Trong đó, giảng
bình với tư cách là một trong những phương pháp đặc thù trong dạy học văn vẫn
chưa được sử dụng một cách hiệu quả. Những kĩ thuật về giảng bình vì thế vẫn
cần tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện để nâng cao năng lực giảng bình văn
học của người giáo viên.
1.2. Mặt khác, để khắc phục tình trạng học trò chán văn cũng như lấy lại vị
thế của môn Ngữ văn trong nhà trường Trung học phổ thông, chúng ta phải nâng
cao chất lượng dạy học, trả lại bản chất kì diệu cho các giờ học văn. Đây là yêu
cầu, đòi hỏi cấp thiết hàng đầu hiện nay, là vấn đề thời sự, khoa học, là nhiệm
vụ nóng bỏng trước mắt và lâu dài của đội ngũ giáo viên và toàn thể xã hội nói
chung.

4


Để làm được điều đó, chúng ta cần tìm về những thành tựu văn hoá tinh
thần của dân tộc, nghiên cứu, vận dụng kinh nghiệm giảng bình của các nhà
nghiên cứu, nhà thơ, nhà giáo ưu tú để nâng cao phương pháp giảng bình trong
dạy học tác phẩm văn chương là một phương hướng, một con đường đúng đắn,
một giải pháp tích cực với vấn đề vừa nêu.
1.3. Nguyễn Đăng Mạnh là một nhà phê bình có uy tín. Với hơn 50 năm phê
bình văn học, ông đã đạt được những thành công lớn và để lại những kinh
nghiệm quý báy về nghiên cứu và cảm thụ văn học mà chúng ta - thế hệ đi sau
có thể khai thác và vận dụng vào phương pháp giảng bình ở nhà trường Trung

học phổ thông.
2. Cơ sở lí luận của vấn đề.
Giảng bình là phương pháp quan trọng trong dạy học tác phẩm văn
chương. Những lời giảng bình của giáo viên trong giờ dạy học tác phẩm văn
chương sẽ mang đến cho giờ văn những dư vị ngọt ngào, khơi gợi ở trái tim non
trẻ của học sinh tình yêu đời, yêu người, để các em biết hướng tới cái Chân Thiện - Mĩ. Mặt khác, phương pháp này cho phép giáo viên phát huy phẩm chất
nghệ sĩ của mình, cũng kích thích hứng thú học văn ở học sinh, tạo nên sự giao
lưu cộng hưởng về tình cảm trong giờ văn.
Giảng bình là phương pháp chủ đạo của việc dạy học tác phẩm văn
chương. Điều này xuất phát từ đặc thù của tác phẩm văn chương có tính chất
hình tượng, người giáo viên phải cắt nghĩa, giảng giải làm sao truyền cho học
sinh thấy được cái hay, cái đẹp, sao cho học sinh cảm thụ được toàn vẹn hình
tượng nghệ thuật đó. Chỉ khi làm được như vậy, giờ Văn mới đạt hiệu quả, khơi
dậy trong các em lòng đam mê văn học. Với giảng bình, các em sẽ thực sự được
sống trong không khí văn chương, thực sự cảm thấy cái hay của văn chương, để
thấy tâm hồn mình được thanh lọc, và hướng tới Chân, Thiện, Mĩ là mục đích
cuối cùng của văn học.
Không phải là phương pháp độc tôn trong dạy học tác phẩm văn chương
giảng bình có một vị trí đặc biệt quan trọng, có thể coi giảng bình là một "mắt
xích", "đinh ốc" trong "sợi dây xích" - phương pháp dạy học Ngữ văn. Nó móc
nối, liên hệ với các "mắt xích" khác tạo thành "dây xích" đồng bộ, hoàn chỉnh.
Mục đích cuối cùng của phương pháp giảng bình là phối hợp với các phương
5


pháp dạy học khác góp phần đưa tác phẩm văn học tới bạn đọc học sinh một
cách thuận lợi, có hiệu quả cao để giáo dục tư tưởng, tình cảm, thẩm mĩ, hình
thành và phát triển nhân cách cho học sinh, giúp các em tự hoàn thiện các phẩm
chất ấy.
Mặt khác, chúng ta có rất nhiều thuận lợi cho việc sử dụng tích cực

phương pháp giảng bình trong nhà trường phổ thông. Một trong những thuận lợi
đó trước hết phải tính đến truyền thống bình văn thơ của các tao nhân mặc
khách, của các ông nghè, ông cống...Cho đến ngày nay, các nhà thơ, nhà giáo,
nhà phê bình...vẫn tiếp tục phát huy truyền thống này bằng những lời bình độc
đáo. Từ đó, chúng ta có thể học tập kinh nghiệm của họ vào giảng bình văn học
trong nhà trường Trung học phổ thông. Ngoài ra, phải kể đến những thuận lợi
khác như sự phát triển của ngôn ngữ học, tư liệu phong phú, ...Đây sẽ là những
công cụ hữu hiệu phục vụ cho việc bình giảng văn học. Với những thuận lợi đó,
phương pháp giảng bình có nhiều điều kiện để phát triển, tiếp tục là phương
pháp hữu hiệu trong dạy học tác phẩm văn chương.
3. Thực trạng của vấn đề
Thực tế cho thấy, lâu nay học sinh ít mặn mà với môn Văn vì không cảm
nhận được nó hay ở chỗ nào. Điều đó có lý do ở người dạy. Nhiều thầy cô quên
mất đặc trưng của văn học, suốt 45 phút không có một lời bình văn, học sinh
không biết được tác phẩm đó hay ở chỗ nào, đâu là "điểm sáng thẩm mĩ"... Một
giờ văn thầy trò vấn đáp rời rạc, thầy hỏi, trò trả lời... Dạy như thế, học sinh
không thể cảm thấy cái hay của văn học. Nhiều giáo viên có đưa lời bình vào
giờ dạy học tác phẩm văn chương nhưng những lời bình đó không xuất phát từ
sự cảm, hiểu sâu sắc của bản thân, đôi khi còn thoát li văn bản, bình cho sướng
miệng, cho lọt lỗ tai trò nhưng thực sự trò chẳng nắm được gì. Đó chính là dạy
văn theo "điệu sáo", theo kiểu "múa chữ" như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
từng phê phán trước đây. Đây cũng chính là nguyên nhân làm mất đi mặt tích
cực của phương pháp giảng bình.
Bên cạnh đó phương pháp dạy học Ngữ Văn đã được đổi mới nhằm phát
huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh. Từ đó, trong các giờ dạy học Ngữ Văn
hệ thống câu hỏi được đặt ra nhiều hơn, phong phú hơn, các đối tượng học sinh

6



trong lớp đều được huy động, được tổ chức theo nhóm, thảo luận theo hướng
tích cực hóa dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Tuy vậy chúng ta vẫn nhận thấy
rằng, có nhiều giáo viên Ngữ văn đã vận dụng phương pháp này một cách "thái
quá" khiến giờ văn chỉ có "hỏi và hỏi", chỉ biết hướng dẫn học sinh chia nhóm,
thảo luận và hầu như quên đi việc bình giảng cho học sinh thấy được cái hay của
tác phẩm, không tạo được không khí văn chương trong giờ học.
Từ những thực tế trên chúng ta có thể thấy rằng phương pháp giảng bình
vẫn chưa được vận dụng đúng mức, chưa phát huy được vai trò của nó trong
giảng dạy tác phẩm văn chương.
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện.
4.1. Vận dụng phương pháp giảng bình văn học của Nguyễn Đăng
Mạnh trong dạy học tác phẩm văn chương hiện nay.
4.1.1. Đọc văn bản, nắm bắt được "điểm sáng thẩm mĩ" của bài thơ.
Đọc văn bản, nắm được điểm sáng thẩm mĩ của bài thơ là con đường,
biện pháp bình thơ độc đáo của Nguyễn Đăng Mạnh mà chúng ta cần học tập.
Xuất phát từ quan niệm: "Tác phẩm văn học là một kết cấu nghệ thuật hết
sức chặt chẽ", Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng "phải trên cơ sở nhận thức về toàn
bộ mà hiểu từng chi tiết. Cái đẹp cũng như sự sống bao giờ cũng có tính chất
hoàn chỉnh. Trong chuyện xưa, thái tử Đan nước Yên cắt bàn tay đẹp của mĩ
nhân để tặng Kinh Kha, đã làm cho chàng dũng sĩ này phải ghê sợ là vì thế".
Như vậy, khi tìm hiểu bài thơ cần phải có sự tổng hợp lúc đầu. Sự tổng hợp ban
đầu này có thể chưa sâu sắc, đó chỉ là một nhận thức trực cảm về toàn bộ bài
thơ, ghi lấy âm hưởng chung, diện mạo chung, ý tứ chung của tác phẩm. Tuy
nhiên, bước tổng hợp sơ thủy này rất cần thiết, nó không chỉ đóng vai trò khai
mở bước đầu, mà trong các bước tiếp theo, nó vẫn đóng vai trò rất quan trọng,
có khi làm "trọng tài" cho các cách hiểu khác nhau khi bình giảng chi tiết. Ví dụ
phân định các cách hiểu khác nhau về câu thơ "Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng"
trong bài "Tức cảnh Pắc Bó" của Hồ Chí Minh, hay câu thơ "Đáng khóc mà ta
cứ hát tràn" trong bài "Ốm nặng" của Bác. Như vậy, trực cảm tham gia suốt quá
trình cảm hiểu, giảng bình bài thơ, ngay cả khi đã nắm bắt được "cái thần", khái

quát được chủ đề tư tường rồi, vẫn cần dùng nó đề kiểm tra độ chính xác một lần

7


nữa, hoặc giúp cho việc phân tích, bình giảng "không lạc ra ngoài mối quan hệ
thống nhất của bài thơ với tư cách là một chỉnh thể nghệ thuật sinh động".
Cần phải thấy rằng, trực cảm còn giúp người bình thâm nhập rất sâu vào
thế giới nghệ thuật của bài thơ, đến mức "nhập thân", "sống" với bài thơ để dựng
dậy chữ nghĩa, cảm xúc, "hơn nữa như người nghệ sĩ, mình vừa là mình, vừa là
nhân vật".
Trực cảm chính là cơ sở để giáo viên tìm hiểu chiều sâu tác phẩm, phát
hiện, cắt nghĩa, lí giải cái hay, cái đẹp, cái "thần" của bài thơ. Chiều sâu tư tưởng
văn chương là có thật, khách quan. Tác phẩm càng lớn, chiều sâu càng không
cùng, nên khó ai dám nói mình đã hiểu cái đáy của mọi cái hay, cái đẹp của nó.
Chỉ có thể nói: đã cảm, đã hiểu hết sức mình.
Như vậy, nhờ có trực cảm mà chúng ta có thể nắm được "cái thần", "điểm
sáng thẩm mĩ của bài thơ". Nhưng muốn có được điều đó, con đường duy nhất là
phải đọc tác phẩm. Vì ở tác phẩm nghệ thuật, các yếu tố, các chi tiết không thể
tác động tới cảm quan của người đọc cùng một lúc được mà tiếp nối tuần tự theo
quá trình của người đọc. Như thế chỉ có thể có cảm nhận chung về bài thơ sau
khi đọc hết dòng cuối cùng của bài thơ hay cuốn truyện, "lúc đó, nhờ trí tưởng
tượng, người đọc có thể hình dung ra được trong cùng một lúc toàn bộ tác
phẩm, giống như xem một bức tranh vậy". Khi đọc hết bài thơ, bài văn, chúng ta
mới có thể phát hiện ra nhưng "điểm sáng thẩm mĩ" của tác phẩm đó.
Đọc văn bản để có cảm nhận chung, ấn tượng chung về tác phẩm, từ đó
phát hiện ra những chi tiết then chốt, những "điểm sáng thẩm mĩ" của tác phẩm.
Học tập biện pháp này của Nguyễn Đăng Mạnh, người giáo viên cần phải phát
hiện ra những "câu thần", "chữ mắt" của bài thơ. Có như vậy mới tạo cho học
sinh những ấn tượng sâu sắc vê tác phẩm. Có thể nói, tác phẩm văn học là một

tập hợp các chi tiết, nhưng không phải chi tiết nào cũng có giá trị nghệ thuật cao,
chi tiết nào cũng có thể bình giảng. Người giáo viên phải biết lựa chọn những
chi tiết "đắt", làm nổi bật chủ để tư tưởng của tác phẩm văn học. Chẳng hạn, khi
tìm hiểu bài thơ "Từ ấy" của Tố Hữu giáo viên phải chú ý khổ thơ đầu. Đây là
khổ thơ quan trọng nhất. Ở khổ này, mỗi câu đều có những từ ngữ, những hình
ảnh, những cách so sánh, ẩn dụ có sức biểu hiện tình cảm, cảm xúc đột ngột và
8


mãnh liệt cần phân tích. Hai khổ thơ sau có thể giảng lướt hơn. Chú ý đến tâm
trạng của nhân vật trữ tình, muốn mở ra, tung trải ra mênh mông để ôm trùm tất
cả, gắn bó với tất cả, nhịp thơ hăm hở, náo nức, dồn dập....
Khi bình giảng chi tiết người giáo viên cần phải chọn những chi tiết hay
nhất, có ý nghĩa nhất. Cũng không bình giảng một cách bình quân, dàn đều như
nhau. Có chi tiết lớn, chi tiết nhỏ, tầm quan trọng khác nhau, nhưng có chi tiết
nhỏ cần bình giảng, chi tiết lớn bỏ qua… quan trọng là phẩm chất nghệ thuật.
Mặt khác, người giáo viên phải thường xuyên tích lũy vốn sống, vốn văn
hóa thì mới có thể bình giảng hay được. Vì "trực cảm ở đây không phải là cảm
giác bề ngoài hay cảm tính hời hợt mà là đụng đến linh hồn của bài thơ rồi. Đó
là trí tuệ, văn hóa, tư tưởng và vốn sống nhưng đã được tiêu hóa kĩ, nên đã
thấm vào bên trong thành tấm lòng hồn nhiên trong sáng". Có vốn sống, vốn
văn hóa phong phú thì mới có thể lựa chọn và bình giảng các chi tiết một cách
độc đáo được. Học tập phương pháp giảng bình của Nguyễn Đăng Mạnh, chúng
ta cũng phải học tập tấm gương lao động nghệ thuật của ông, suốt đời tích lũy
cho mình một trường liên tưởng thẩm mĩ phong phú!
4.1.2. So sánh, đối chiếu.
Vận dụng phương pháp giảng bình của Nguyễn Đăng Mạnh, người giáo
viên cần hiểu rằng bản thân so sánh không có mục đích tự thân, một thao tác,
một biện pháp phân tích. Nó phục vụ trực tiếp cho việc giảng bình đạt hiệu quả
cao. Cần phân biệt nó với biện pháp so sánh tu từ ngôn ngữ. So sánh càng bất

ngờ, mới lạ, càng thú vị nhưng cũng không nên so sánh cầ kì, khiên cưỡng. Đặc
biệt, so sánh không được phép "quá độ", "vượt ngưỡng". Mọi so sánh đều phải
nhằm mục đích làm sáng tỏ, nổi bật giá trị của bài thơ, câu thơ, tập trung xoay
quanh nó, không được xa rời, so sánh không tương đồng. Tuyệt đối không được
dùng so sánh để khoe sự uyên bác của người bình, so sánh cốt để làm nổi bật cái
hay cái đẹp của vấn đề bình giảng chứ không phải là phô trương kiến thức lan
man, mất trọng tâm. So sánh hay là so sánh khiến cho người đọc cảm thấy rất tự
nhiên và vấn đề được nổi lên góc cạnh và màu sắc của nó.
Như vậy, muốn so sánh đạt kết quả cao, giáo viên phải đọc "thiên thu vạn

9


quyển", sống nhiều, sống sâu sắc, tạo cho mình một vốn sống, vốn văn hóa, một
trường thẩm mĩ sâu rộng thì đọc đến một bài thơ, giảng tới một câu thơ, lập tức
nghĩ ngay đến hàng chục bài thơ, bài văn khác.
Học tập phương pháp so sánh của Nguyễn Đăng Mạnh, khi giảng bài thơ
"Câu cá mùa thu" của Nguyễn Khuyến, người giảng có thể đặt bài thơ trong
chùm ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến để thấy nét chung, thấy cái "thần
riêng", cái hồn thu buồn, cô đơn, lắng đọng sâu nhất nơi bài thơ này, lại mở rộng
ra trong hệ thống thơ mùa thu từ xưa đến nay như thu trong "Hồng đức quốc âm
thi tập" thời Lê Thánh Tông, "Mùa thu" của Ngô Chi Lan, cảnh thu trong
"Truyện Kiều" cho đến "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu, mùa thu trong "Đất
nước" của Nguyễn Đình Thi và "Tháng tám mùa thu xanh thắm" trong thơ Tố
Hữu… thì càng sâu sắc hơn, nhưng phải rất khéo, rất gọn, vì dễ say sưa mà quên
mất nẻo về: "Ao thu lạnh lẽo". So sánh để thấy cùng là "ta là ta" kết bài chung
nhưng tâm tình của bà huyện Thanh quan và Tam nguyên Yên Đổ gần mà khác
nhau biết bao nhiêu. Và vì sao người đọc rất thích bài thơ: "Một đèo, một đèo,
lại một đèo", tinh nghịch đến tinh quái của Hồ Xuân Hương, lại cũng rất yêu nhà
thơ: "Bước tới đèo Ngang bóng xế tà" trang nghiêm, buồn đến thấu xương. Hay

khi giúp học sinh thấy được cái đắc địa trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của
Nguyễn Du trong hai câu thơ đầu của đoạn trích "Trao duyên", giáo viên có thể
gợi ý học sinh so sánh cách dùng từ "cậy" cuảt thi hào dân tộc với những từ
đồng nghĩa như : nhờ, mong, xin…
Để giúp học sinh phát hiện và cắt nghĩa nội dung nhân đạo mới mẻ trong
các sáng tác sau cách mạng tháng Tám (Vợ chồng A Phủ, Vợ Nhặt,...), giáo viên
có thể yêu cầu học sinh so sánh cái kết của tác phẩm ấy với cách kết thúc của
một số sáng tác trước cách mạng: Hai đứa trẻ, Tắt đèn, Chí Phèo…
Một điều cần lưu ý là giáo viên không được coi so sánh như một biện
pháp để ca ngợi bài thơ này, hạ thấp bài thơ kia, như vậy sẽ mất đi hiệu quả của
biện pháp này.
4.1.3. Bình bằng tâm sự, hồi ức của người bình.
Nguyễn Đăng Mạnh là người có vốn sống phong phú, ông sống sâu sắc
với những điều đã đọc, đã rung cảm. Ông cũng là người sống nhiều, đi nhiều,

10


biết nhiều, tinh tế, lại giàu liên tưởng, kể chuyện rất chân thành, có duyên. Vì
thế, phương pháp bình này của ông rất hấp dẫn người đọc.
Đọc những lời bình bằng hồi ức của Nguyễn Đăng Mạnh, chúng ta cảm
thấy khâm phục nhà phê bình tài hoa, uyên bác.
Những lời bình của ông rất có duyên, dí dỏm, tạo cho người đọc một sự
chân thật, tin tưởng.
Những lời bình tưởng như một chuyện riêng tư, tế nhị ấy đã được chọn
lọc rất kĩ, vừa có ý nghĩa, vừa tiêu biểu nhằm làm sáng tỏ một giá trị tư tưởng nghệ thuật nào đó của tác phẩm.
Học tập cách giảng bình này của Nguyễn Đăng Mạnh, giáo viên có thể coi
đây như một biện pháp đắc lực trong việc dạy học tác phẩm văn chương. Vì
"bằng một câu chuyện, một lời tâm sự tưởng là chủ quan nhưng lại có tác dụng
khiêu gợi rất sâu xa. Người nghe có thể hòa mình vào dòng cảm xúc của người

bình. Cách bình này vừa có sức hấp dẫn mạnh mẽ, vừa tươi mát, thân mật, sâu
sắc".
Nhưng không phải ai cũng thành công khi bình theo cách này. Điều quan
trọng là phải có hiểu biết sâu sắc về cuộc sống, phải tích lũy cho mình một vốn
sống phong phú. Ngay cả khi có vốn sống cũng cần phải biết chọn lọc chuyện
hay, phù hợp mới có thể làm cho lời bình thật sự hấp dẫn với người đọc. Nếu
không có vốn sống, không hiểu sâu sắc cuộc sống mà cố học tập biện pháp bình
giảng này của Nguyễn Đăng Mạnh thì sẽ trở nên gượng ép, gây cho người đọc
cảm giác giả tạo, bịa đặt, chắp vá và vi phạm nguyên tắc tối kỵ của nghề nghiệp:
trung thực và chân thành.
Song, chúng ta thấy rằng đây là biện pháp bình giảng rất nên học tập. Có
điều, không nên gượng ép mà nhất thiết xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể, đời sống,
vốn sống, tâm trạng cụ thể của mỗi người. Nếu thấy câu chuyện của mình chưa
đủ tiêu biểu, chưa đủ sức thuyết phục học sinh thì tốt nhất là chọn biện pháp
khác. Vấn đề là cứ sống, cứ tích lũy dần dần. Theo năm tháng sẽ có lúc ta có
được những câu chuyện hay, giàu ý nghĩa của chính ta, do ta đã từng nếm trải,
thanh lọc.
Chọn chuyện hay, tâm sự phù hợp, có ý nghĩa, kể gọn, hay, kể để giảng
bình thơ chứ không phải kể chuyện trong giờ kể chuyện. Đó mới thực là học tập
phương pháp giảng bình của Nguyễn Đăng Mạnh.
11


4.1.4. Đưa ra những tiêu chí để bình giảng
Nguyễn Đăng Mạnh luôn tích lũy cho mình một vốn tri thức phong phú
không chỉ trên lĩnh vực văn chương mà còn nhiều lĩnh vực khác như tâm lí học,
mĩ học, xã hội học… Dựa trên những kiến thức của những ngành khoa học này,
ông đã vận dụng vào việc bình giảng tác phẩm văn chương một cách đắc lực.
Khi bình giảng, ông đưa ra những tiêu chí khác nhau khiến cho các bài viết có
độ sâu, có sức thuyết phục, lời bình không chỉ giàu cảm xúc mà còn giàu chất trí

tuệ của người viết. Người đọc không chỉ hiểu những vấn đề lí thuyết khác mà
qua đó hiểu sâu sắc hơn vấn đề mà người bình giảng đề cập đến. Chính vì thế,
đọc mỗi bài bình giảng của ông theo phương pháp này, người đọc đều thấy thích
thú vì mỗi vấn đề ông đều đưa ra một tiêu chí riêng, không có sự lặp lại. Đặc
biệt, những tiêu chí đó đều phù hợp với đối tượng, lột tả được bản chất của đối
tượng mà ông hướng tới. Chẳng hạn, ông lấy tiêu chí "tình yêu" khi đánh giá thơ
ca của "ông hoàng thơ tình" - Xuân Diệu, lấy cái "vô úy" để làm nổi bật phẩm
chất anh hùng của Huấn Cao trong tác phẩm "Chữ người tử tù" của Nguyễn
Tuân… Bằng những tiêu chí khác nhau, Nguyễn Đăng Mạnh đã làm cho những
bài viết của ông "đa màu sắc", đem đến những cái nhìn mới mẻ về tác phẩm văn
chương cũng như có một sức thuyết phục lớn đối với bạn đọc.
Học tập phương pháp này của Nguyễn Đăng Mạnh, trước hết người giáo
viên phải tích luỹ cho mình vốn kiến thức phong phú, sự thông hiểu lí thuyết
trên các lĩnh vực khoa học cũng như nghệ thuật. Không quá khi nói rằng, nếu
không có những hiểu biết như vậy, giáo viên sẽ không thể sử dụng phương pháp
bình giảng này của Nguyễn Đăng Mạnh.
Mặt khác, khi đưa ra những tiêu chí để bình giảng người bình cần phải có
sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo và phối hợp với các phương pháp giảng bình
khác. Một bài bình giảng, có thể viết về nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng
không phải lúc nào cũng đưa ra tiêu chí bởi nếu như vậy sẽ gây ra sự khô khan,
thiếu cảm xúc thậm chí người giáo viên có thể rơi vào tình trạng khoe kiến thức
của bản thân. Đồng thời, sự vận dụng đó phải phù hợp với đối tượng bình giảng,
phải làm nổi bật được điều mà người bình muốn nói.

12


Giáo viên có thể vận dụng phương pháp này khi dạy bài Người lái đò
sông Đà của Nguyễn Tuân, vì trong tác phẩm này, tác giả đã sử dụng kiến thức
tổng hợp từ rất nhiều chuyên ngành khác nhau như: điện ảnh, quân sự, nghệ

thuật… Chẳng hạn, giáo viên có thể lấy tiêu chí "chất tài hoa, nghệ sĩ" hay
"phẩm chất anh hùng" để làm nổi bật hình tượng ông lái đò, lấy đặc điểm "trữ
tình" để làm nổi bật vẻ đẹp của con sông Đà. Hay khi dạy bài Tây Tiến của
Quang Dũng, giáo viên có thể lấy tiêu chí "chất lãng mạn" để làm nổi bật vẻ đẹp
của người chiến sĩ Tây Tiến. Cũng như vậy, người giáo viên có thể lấy tiêu chí
"chất thơ" khi dạy bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam… Việc đưa ra những tiêu chí
phù hợp và sáng tạo sẽ khiến cho lời bình thêm thuyết phục, giàu chất trí tuệ và
khơi dậy trong học sinh niềm đam mê khám phá.
Giáo viên cũng có thể hướng dẫn học sinh bước đầu làm quen với phương
pháp này của Nguyễn Đăng Mạnh. Chẳng hạn, khi dạy bài Hạnh phúc của một
tang gia của Vũ Trọng Phụng, giáo viên có thể đưa ra tiêu chí "đạo lí con người"
để học sinh có thể tự đánh giá xem những nhân vật trong tác phẩm đã cư xử theo
đúng đạo lí chưa, mỗi người có sự thể hiện như thế nào,… từ đó các em sẽ thấy
được bộ mặt gia đình đại bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa được xây dựng trong tác
phẩm. Đây cũng là cách các em học tập phương pháp giảng bình của Nguyễn
Đăng Mạnh.
Khi học tập phương pháp này của nhà nghiên cứu, điều cốt lõi là "phải
thông hiểu nhiều vấn đề lí thuyết trong nhiều lĩnh vực của khoa học để vận dụng
một cách sáng tạo". Ý thức được điều này mới thực sự là học tập phương pháp
giảng bình của Nguyễn Đăng Mạnh.
4.1.5. Diễn tả trực tiếp những ấn tượng và cảm xúc về tác phẩm
Đọc những bài bình giảng của Nguyễn Đăng Mạnh, chúng ta thực sự bị
cuốn hút bởi cách viết sắc sảo, lập luận chặt chẽ, ngôn từ phong phú,… nhưng
đặc biệt nhất vẫn là cảm xúc rất chân thực, sâu sắc. Diễn tả trực tiếp những xúc
cảm chân thành, lối viết giản dị, chân thật, chính xác và sâu sắc của Nguyễn
Đăng Mạnh không những có sức lôi cuốn lớn và còn khơi dậy sự đồng điệu về
tâm hồn ở phía người đọc.
Theo Nguyễn Đăng Mạnh "Lối bình này là đơn giản nhất vì không chú ý
phân tích bình luận gì, chỉ diễn tả những cảm nghĩ chủ quan của mình trước
13



một đoạn văn, một câu thơ hay. Sức thuyết phục không ở lí lẽ phân tích bàn luận
sắc sảo, mà ở chỗ cảm nghĩ có chân thật, chính xác và sâu sắc không và lời diễn
tả có đạt không". Vì vậy, khi học tập cách bình giảng này của Nguyễn Đăng
Mạnh, người giáo viên phải có rung cảm thực sự, phải xuất phát từ những cảm
xúc rất chân thật mới có thể bình giảng theo cách này. Và để có những cảm xúc
đó, điều chắc chắn người giáo viên phải thực sự hiểu văn "đọc văn hay phải cảm
thấy lạnh xương sống, phải có nhu cầu rung đùi, ngâm nga, hoặc khóc, cười,
tức tối, thậm chí muốn xông ra hành động". Chỉ hiểu văn mới có thể nảy sinh
cảm xúc thực, cũng chỉ có cảm xúc thực mới có thể bình giảng một cách sâu sắc
nhất. Mặt khác, diễn tả trực tiếp những ấn tượng và cảm xúc về tác phẩm cũng
chính là lúc người bình thực sự "nhập thân" vào tác phẩm, sống trong không khí
cảm xúc của tác phẩm. Mà người giáo viên, khi đã có sự "nhập thân" đó, lại rất
dễ đưa học sinh vào bầu không khí văn chương. Đó cũng là cách tạo bầu không
khí văn chương trong giờ học Văn.
Nhưng cần chú ý, chỉ bình giảng theo cách này trước những chi tiết thực
sự làm mình xúc động. Mỗi tác phẩm văn học chỉ có một số yếu tố then chốt có
thể khơi dậy tình cảm của người đọc. Đứng trước một chi tiết không hay mà
người giáo viên cứ khen, cứ thể hiện sự xúc động thì dễ gây cảm giác sáo rỗng.
Khi bình văn cũng vậy, giáo viên chỉ nên chú ý đến những chi tiết làm
mình xúc cảm nhất. Đồng thời cũng cần phải có sự khéo léo khi diễn tả những
ấn tượng, những cảm xúc của mình. Diễn tả cảm xúc cũng cần phù hợp với tâm
sinh lí của học sinh. Cảm xúc chân thật thôi chưa đủ, mà người giáo viên phải
thể hiện cảm xúc đó một cách khéo léo để tác động đến học sinh một cách sâu
sắc nhất. Cũng cần nhấn mạnh rằng, trong giờ dạy học tác phẩm văn chương,
giáo viên khi sử dụng phương pháp này cần phải có sự phối hợp với các phương
pháp khác vì nếu chỉ thể hiện cảm xúc chủ quan của người giáo viên, giờ học sẽ
trở nên đơn điệu, nhàm chán vì học sinh ít được khám phá, phải theo sự cảm
nhận, cảm xúc chủ quan của giáo viên.

Diễn tả cảm xúc cũng đồng nghĩa với việc giáo viên tạo điều kiện để học
sinh có thể thể hiện suy nghĩ, tình cảm của mình trước tác phẩm văn chương.Vì

14


vậy, giáo viên có thể hướng dẫn các em vận dụng biện pháp này của Nguyễn
Đăng Mạnh. Trước hết, giáo viên cần hướng dẫn để các em hiểu vấn đề, từ đó
mới có thể bày tỏ cảm xúc của bản thân. Giáo viên nên để học sinh tự do thể
hiện cảm xúc của mình trước vấn đề được nói tới, như vậy sẽ phát huy khả năng
sáng tạo của học sinh, và để thấy rằng văn chương đã thực sự khơi dậy trong các
em những tiếng nói đồng điệu về tâm hồn. Chẳng hạn, dạy bài Chiếc thuyền
ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, khi cho học sinh đánh giá về nhân vật người
đàn ông trong tác phẩm, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh bày tỏ thái độ đối
với nhân vật này bằng các câu hỏi: Em có nhận xét gì về hành động đánh vợ của
người đàn ông này? Nếu cho rằng ông ta chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh thì theo
em người đàn ông này đáng thương hay đáng giận? Đặt bản thân vào vị trí thằng
Phác, em có suy nghĩ gì về người đàn ông này?...
Bằng hệ thống câu hỏi như vậy, giáo viên có thể khơi gợi lên cảm xúc của
học sinh, tạo điều kiện để các em bày tỏ trực tiếp những ấn tượng và cảm xúc về
tác phẩm. Chỉ khi làm được như vậy, giờ học văn mới thực sự có ý nghĩa.
4.1.6. Bình giảng dựa vào quy luật tâm lí
Bình giảng dựa vào quy luật tâm lí là cách gắn với đời sống thực tiễn, dựa
trên những cảm xúc tâm lí để bình giảng. Cách bình giảng này đã được rất nhiều
nhà phê bình sử dụng. Nguyễn Đăng Mạnh cũng đã sử dụng cách bình giảng này
một cách khá hữu hiệu. Ông là người đi nhiều, sống nhiều và đặc biệt là sống
sâu sắc với những điều mình nghe thấy, trông thấy. Ông cũng là người giàu cảm
xúc, tinh tế, sâu sắc, đặc biệt có vốn sống lịch lãm. Đây chính là những yếu tố
tiền đề để có thể vận dụng phương pháp này.
Mặt khác, ở đây Nguyễn Đăng Mạnh cũng có sự am hiểu sâu sắc quy luật

tâm lí của con người, những kiến thức về chuyên ngành tâm lí học. Kiến thức
sách vở và quy luật đời sống đã được ông kết hợp khá linh hoạt để vận dụng vào
bài giảng của mình. Với cách giảng bình như vậy, Nguyễn Đăng Mạnh đã tạo ra
sự gần gũi, dễ hiểu cho bài viết của mình. Bình giảng dựa vào quy luật tâm lí
của con người cũng giúp cho người đọc đi sâu vào tác phẩm. Chính vì vậy, khi
sử dụng phương pháp này, cũng có nghĩa là người bình phải thật hiểu tác phẩm.
Chỉ có hiểu tác phẩm mới thấy được những tình cảm, cảm xúc trong tác
15


phẩm và dùng quy luật tâm lí của con người trong đời sống để soi sáng tình cảm,
cảm xúc trong văn thơ.
Học tập phương pháp này của Nguyễn Đăng Mạnh, người giáo viên trước
hết phải bồi dưỡng cho mình những tình cảm nhân văn tốt đẹp, phải có vốn sống
lịch lãm. Chỉ khi sống đẹp, có những cảm xúc lành mạnh, người giáo viên mới
có thể lấy những tình cảm cảm xúc đó tác động vào tâm hồn non trẻ của học
sinh.
Lấy những quy luật tâm lí của con người ngoài đời sống cũng chính là
cách giáo viên dạy văn gắn với thực tiễn đời sống. "Văn học là nhân học", lấy
văn để nói chuyện đời, dạy văn cũng là dạy người ta biết sống thế nào cho đúng.
Vận dụng những quy luật tâm lí, không những soi sáng tác phẩm mà còn bồi
dưỡng tâm hồn học sinh, giúp các em thanh lọc những tình cảm nhân văn tốt
đẹp.
Dạy bài Tôi yêu em của Puskin, giáo viên có thể lấy quy luật tình yêu
trong cuộc đời để soi sáng những tình cảm, cảm xúc trong tình yêu của nhân vật
trữ tình trong tác phẩm. Tuy nhiên, sự vận dụng ấy cũng cần được chắt lọc, cốt
chỉ để học sinh thấy được tình yêu đơn phương nhưng nồng nàn, chân thành và
cao thượng của nhân vật trữ tình. Từ đó bồi dưỡng cho các em những tình cảm
tốt đẹp, cũng như một kĩ năng sống dù trong hoàn cảnh và tình yêu thế nào, con
người cũng cần phải sống chân thành, mãnh liêt, cao thượng và vị tha.


16


4.2. Giáo án minh hoạ: Vận dụng kinh nghiệm giảng bình của Nguyễn
Đăng Mạnh vào dạy học tác phẩm văn chương ở nhà trường THPT.
Tiết 78:
ĐÂY THÔN VĨ DẠ
- Hàn Mặc Tử I. Mục tiêu bài học
1. Kiến thức
- Cảm nhận được bài thơ là bức tranh phong cảnh, cũng là tâm cảnh, thể
hiện nỗi buồn cô đơn của nhà thơ trong mối tình xa xăm, vô vọng. Qua đó hiểu
được lòng yêu thiên nhiên, cuộc sống và khát khao hạnh phúc thiết tha của Hàn
Mặc Tử.
- Nhận biết sự vận động của tứ thơ và bút pháp nghệ thuật tài hoa độc đáo
của một nhà thơ mới.
2. Kĩ năng
Tiếp tục hoàn thiện kĩ năng đọc thơ trữ tình.
3. Thái độ
Trân trọng những khát vọng hạnh phúc của con người.
4. Năng lực
- Năng lực đọc - hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại.
- Năng lực giải quyết vấn đề.
- Năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mĩ.
- Năng lực hợp tác.
II. Chuẩn bị
1. Giáo viên
- Phương pháp: gợi mở nêu vấn đề, vấn đáp, bình giảng, thảo luận…
- Phương tiện: SGK, SGV, Thiết kế bài học, tranh ảnh…
2. Học sinh

Chuẩn bị bài.
III. Tiến trình dạy học
1. Ổn định lớp
2. Kiểm tra bài cũ
Tâm hồn của thi nhân trong bài thơ "Tràng giang" của Huy Cận?
3. Bài mới
* Giới thiệu bài mới:
* Triển khai nội dung:
Hoạt động của giáo viên và học
sinh
Hoạt động 1: Tìm hiểu Tiểu dẫn.
- GV: Gọi một HS đọc phần Tiểu
dẫn SGK.
17

Nội dung cơ bản cần đạt
I. Tiểu dẫn.
1.Tác giả


- HS đọc.
a. Cuộc đời
- GV: Trình bày những nét chính về
- Tên thật: Nguyễn Trọng Trí ( 1912
tác giả và tác phẩm?
- 1940).
- HS tóm tắt.
- Quê: làng Mĩ Lệ, tổng Võ Xá,
huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là
tỉnh Quảng Bình).

- 1928 - 1930 học ở trung học Huế.
- 1932 - 1933 làm công chức ở Sở
Đạc điền Bình Định.
- 1934 - 1935 vào Sài Gòn làm báo
rồi trở lại Quy Nhơn.
- Mắc bệnh phong từ năm 1937,
phải vào nhà thương Quy Hòa và sau đó
- GV cung cấp cho học sinh một số mất ở đó.
đặc điểm về thơ Hàn Mặc Tử.
b. Sự nghiệp.
- HS nghe và ghi chép.
- Ông là một nhà thơ tài hoa - bạc
mệnh.
- Hàn Mặc Tử là một hồn thơ mãnh
liệt nhưng luôn quằn quại đau đớn, có sự
giằng xé dữ dội trong tâm hồn và thể xác.
- Thế giới thơ Hàn Mặc Tử là một
thế giới điên loạn, mặc dù vậy ông vẫn có
những vần thơ trong sáng hồn nhiên.
- Tác phẩm chính: Gái quê (1938),
Thơ Điên (1939), Xuân như ý, Thượng
thanh khí, Cẩm châu Duyên, Duyên kì ngộ
( kịch thơ- 1939)…
- GV: Giới thiệu về Hoàng Cúc và
2. Tác phẩm.
mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với
- Xuất xứ: rút từ tập Thơ Điên
Hoàng Cúc để HS hiểu rõ hơn về bài thơ. (1938).
Hoặc GV có thể trích đoạn bưc thư Hoàng
- Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ được

Cúc gửi cho Quách Tấn ngày 15/10/1971 khởi hứng từ bức bưu ảnh mà Hoàng Cúcđể học sinh hiểu hơn hoàn cảnh ra đời bài "người tình trong mộng của nhà thơ" - gửi
thơ.
tặng.
- GV đọc mẫu và hướng dẫn HS
cách đọc:
+ Khổ 1: Giọng đọc chậm rãi, thiết
tha, tươi vui.
+ Khổ 2, 3: Trầm buồn, da diết.
- GV hỏi: Cảm nhận chung của em
sau khi đọc bài thơ?
- Bài thơ tái hiện lại khung cảnh xứ
- HS cảm nhận.
Huế đằm thắm, thơ mộng, đồng thời thể
hiện tâm sự kín đáo của nhà thơ.

18


Hoạt động 2: Đọc - hiểu văn bản.
- GV hỏi: Ở khổ 1, tác giả đã miêu
tả thôn Vĩ vào thời điểm nào?
- GV dẫn: Mở đầu bài thơ, tác giả
không bắt đầu bằng một lời kể hay lời tả,
mà bằng một câu hỏi tu từ: "Sao anh
không về chơi thôn Vĩ?". Theo em, đây là
lời của ai? Nêu sắc thái ý nghĩa của câu hỏi
?
- HS suy nghĩ, trả lời.
- GV chốt ý.


II. Đọc - hiểu văn bản
1. Khổ 1: Thôn Vĩ buổi bình minh.
- Câu hỏi tu từ: "Sao anh không về chơi
thôn Vĩ ?"
+ Lời người con gái xứ Huế.
-> lời mời mọc tha thiết
-> lời trách cứ nhẹ nhàng.
+ Lời tác giả tự vấn.
-> câu hỏi thấm thía một nỗi xót xa,
đắng cay, tiếc nuối và bất lực.
→Tâm trạng: khao khát được gặp gỡ,
được thăm cảnh, thăm người. Đây là cách
bộc lộ tình cảm rất kín đáo, tế nhị.
- Thiên nhiên Vĩ Dạ buổi sớm mai:
+ Nắng mới lên: nắng ấm áp, tinh khôi,
trong trẻo.
+ Nắng hàng cau: thanh tân, tinh khôi.
+ Mướt quá xanh như ngọc: mượt mà, đầy
xuân sắc, như một viên ngọc đầy sắc xanh.
→ Thiên nhiên mượt mà, óng ả, thơ
mộng. Vườn Vĩ Dạ trong buổi bình minh
tựa như một viên ngọc lớn vừa thanh khiết
vừa cao sang.

- GV dẫn: Câu hỏi như một duyên
cớ để khơi dậy trong tâm hồn nhà thơ bao
kỉ niệm sâu sắc, bao hình ảnh đẹp đẽ đáng
yêu về xứ Huế, trước hết là về Vĩ Dạ, nơi
có người mà nhà thơ thương mến và đẹp
nhất là cảnh thôn Vĩ trong buổi bình minh.

Cảnh thôn Vĩ trong buổi bình minh
được nhà thơ tái hiện như thế nào?
- GV liên hệ hình ảnh "nắng mới
lên" với thơ của Lưu Trọng Lư trong bài
thơ cùng tên: "Mỗi lần nắng mới hắt bên
song- Xao xác gà trưa gáy não nùng.",
"Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội - Áo đỏ
người đưa trước giậu phơi".
- GV hướng dẫn HS bình giảng bằng
phương pháp Diễn ý thành hình ảnh:
+ "Ngọc" có màu như thế nào?
"Xanh như ngọc" là màu xanh thế nào?
+ Cách so sánh đó gợi cho em liên
tưởng gì? Từ đó, nêu cảm nhận của mình
về thôn Vĩ?
- HS bình: "Thôn Vĩ giống như một
viên ngọc lớn vừa thanh khiết, vừa cao
sang..."
- GV nhận xét.
- GV hỏi: Biện pháp nghệ thuật nào - Nghệ thuật:
đã được tác giả sử dụng để tái hiện lại bức + Điệp từ: "nắng" điệp lại hai lần trong
tranh thôn Vĩ?
một câu thơ: gợi hình ảnh thôn Vĩ bừng
lên trong bình minh, sức sống, niềm vui

19


- GV dẫn dắt và nêu vấn đề: Bức
tranh thôn Vĩ hiện lên một cách bình dị mà

không kém lộng lẫy. Nhưng tác giả còn
điểm xuyết cho bức tranh ấy với hình ảnh
con người thôn Vĩ.
Theo em, người thôn Vĩ hiện lên qua
chi tiết nào?
- GV cho học sinh thảo luận về
khuôn mặt chữ điền: Có ý kiến cho rằng
mặt chữ điền là khuôn mặt đàn ông. Lại có
ý kiến cho rằng đó là khuôn mặt phụ nữ.
Có người lại cho rằng đó chi là lối nói cách
điệu của nhà thơ. Em đồng ý với ý kiến
nào? Vì sao?
- GV đưa thêm tư liệu để học sinh có
thể lựa chọn: Lâu nay, mặt chữ điền vẫn
được hiểu là khuôn mặt đàn ông. Tuy
nhiên trong ca dao miền Trung, mặt chữ
điền cũng để chỉ khuôn mặt đẹp, phúc hậu,
khả ái của người phụ nữ: "Mặt má bầu ngó
lâu muốn chửi - Mặt chữ điền tiền rưỡi
cũng mua" hay "Anh thương em không
thương bạc thương tiền - Mà anh thương
khuôn mặt chữ điền của em" .
- GV chốt lại.
- GV giúp học sinh đi sâu vào thế
giới hình tượng, tâm trạng của thi nhân:
Thơ - ngoại cảnh cũng là tâm cảnh. Khổ
thơ đã tái hiện bức tranh thôn Vĩ đẹp, thơ
mộng. Theo em, đằng sau bức tranh ấy,
tâm trạng thi nhân sẽ như thế nào?
- GV yêu cầu HS khái quát lại nội

dung khổ thơ.

như lan rộng đất trời.
+ So sánh: "xanh như ngọc": so sánh lạ,
gợi màu xanh trong và nhẹ, một màu đẹp,
màu xanh như chứa cả ánh sáng.
- Người thôn Vĩ:
+ Mặt chữ điền: vẻ đẹp phúc hậu, trang
trọng và quý phái.
+ Lá trúc che ngang: vẻ đẹp xinh xắn,
mảnh mai, thanh tú.
→ Sự hài hòa giữa cảnh và người. Cảnh
xinh xắn, thơ mộng, con người phúc hậu
dịu dàng, tất cả tạo nên một vẻ đẹp kín
đáo.

- Tâm trạng: niềm vui khi nhận được tín
hiệu tình cảm của người trong mộng.
Đồng thời qua bức tranh thiên nhiên ta
cũng thấy được sự gắn bó, tình yêu đối với
một miền quê trong Hàn Mặc Tử.
→ Bức tranh xứ Huế trong buổi bình minh
vừa mượt mà, óng ả vừa đằm thắm thơ
mộng. Cảnh vật được tái hiện bằng tình
yêu, bằng hoài niệm với xứ Huế của nhà
thơ.

- GV hỏi: Cảnh vật xứ Huế trong
2. Khổ 2: Cảnh xứ Huế vào buổi
buổi chiều hiện lên qua những hình ảnh chiều và đêm trăng.

20


nào? Cảm nhận của em về cảnh vật xứ Huế
qua hai câu thơ đầu của khổ này?
- HS phát hiện -> nhận xét.
- GV vận dụng kinh nghiệm Đưa ra
tiêu chí để giảng bình của Nguyễn Đăng
Mạnh: Cảnh vật chia lìa ngay cả trong
những thứ vốn không thể chia lìa. Gió mây thường là hình ảnh luôn đi liền với
nhau, nhưng ở đây: gió lối gió, mây đường
mây. Sự tách biệt của hình ảnh được nhà
thơ thể hiện trong chính nhạc điệu của câu
thơ. Cách ngắt nhịp 4/3 như đẩy hình ảnh
gió mây về hai phía tạo nên một nghịch
cảnh đầy ám ảnh. "Thơ là nói sai Ngữ
pháp", có người đã nói như vậy. Người ta
chấp nhận cách nói vô lí của ngôn ngữ thơ
bởi nhận ra cái hợp lí của người thơ, ẩn
trọng cái "bề sâu, bề sau, bề xa" (Chế Lan
Viên) của nhưng con chữ. Lẽ thường thì
gió thổi mây bay, ở đây, phải chăng mặc
cảm chia lìa đã chia xa những thứ vốn
không thể chia tách.
- GV hỏi: Theo em, đằng sau bức
tranh thiên nhiên ẩn chứa tâm trạng gì của
nhà thơ.
- HS trả lời.
- GV: Thôn Vĩ vào đêm trăng được
tái hiện như thế nào?

- GV: Bình bằng hồi ức, tâm sự
của người bình: Đọc đến câu: "Thuyền ai
đậu bến sông trăng đó - Có chở trăng về
kịp tối nay" tôi lại nhớ lại cảm giác đầu
tiên khi đọc hai câu thơ cũng viết về trăng
của Hàn Mặc Tử: "Trăng nằm sõng soài
trên cành liễu - Đợi gió đông về để lả lơi".
Lúc ấy, tôi tưởng chừng trăng cũng như
người, có thể đưa tay với để chạm vào nó.
Thật đặc biệt!
Và bây giờ, hai câu thơ trong Đây
thôn Vĩ Dạ lại mang đến cho tôi một trải
nghiệm khác về trăng trong thơ Hàn Mặc
Tử. Không gian như là mộng, sông hóa
"sông trăng" và "thuyền chở trăng". "Sông
trăng" và "thuyền chở trăng" là một hình
21

- Cảnh xứ Huế trong buổi chiều:
+ Gió theo lối gió, mây đường mây:
không gian gió mây chia lìa đôi đường đôi
ngả, gợi sự xa cách chia lìa.
+ Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay:
dòng sông như mang tâm trạng của con
người.
→ Bức tranh thiên nhiên ảm đạm,
nhuốm màu chia lìa, sự sống mệt mỏi, yếu
ớt.

- Tâm trạng: nỗi buồn hiu hắt, mang

dự cảm về hạnh phúc chia lìa.
- Thiên nhiên trong đêm trăng:
+ Sông trăng: dòng sông như được
dát bạc, ánh lên lộng lẫy.
+ Thuyền ai: ngỡ ngàng, bâng
khuâng, vừa quen vừa lạ.
→ Hình tượng thơ đẹp đẽ, thơ
mộng, lãng mạn, thi vị của Huế.


ảnh thi vị, tài hoa, một sáng tạo thẩm mĩ
mới mẻ, độc đáo của Hàn Mặc Tử. Liên
tưởng tinh tế đã tạo ra những hình ảnh trôi
đi giữa đôi bờ hiện thực. Dòng nước đang
hòa mình vào dòng trăng hay ánh trăng
đang hòa mình vào dòng nước? Thuyền
chở trăng, bến sông trăng khiến cho cảnh
thêm huyền ảo. Thôn Vĩ một lần nữa lại
được tô điểm thêm vẻ đẹp mộng mơ vốn
nó đã mang sẵn trong mình.
- GV gợi ý để học sinh học tập
phương pháp So sánh của Nguyễn Đăng
Mạnh:
+ Hình ảnh "thuyền chở trăng",
"sông trăng" gợi cho em liên tưởng đến
những câu thơ nào trong thơ ca cổ cũng
viết về những hình ảnh này?
+ So sánh câu thơ của Hàn Mặc Tử
với những câu thơ đó?
-> Cảm nhận cái hay trong câu thơ

của Hàn Mặc Tử?
- HS cảm nhận.
- GV hỏi: Trong thơ ca, "thuyền,
bến, trăng" thường là những hình ảnh
mang tính biểu trưng. Hãy cho biết ý nghĩa
biểu tượng của những hình ảnh này. Từ đó
ta thấy được điều gì trong tâm trạng nhà
thơ?
- GV chọn Điểm sáng thẩm mĩ để
bình: "Nó vẫn đẹp trong quên lãng. Ấy là
chữ "kịp". Phải, chữ "kịp" mới mang bi
kịch của tâm hồn ấy, thân phận ấy. Ta và cả
những người đọc thơ sau không biết "tối
nay" là tối nào cụ thể. Nhưng qua giọng
khắc khoải va chữ "kịp" thì thi sĩ sẽ hoàn
toàn lâm vào cảnh tuyệt vọng, vĩnh viễn
đau thương. Chữ "kịp" hé mở cho ta thấy
một mặc cảm: mặc cảm về một hiện tại
ngắn ngủi, hé mở cho ta một cách thế
sống: sống là chạy đua với thời gian. Quỹ
thời gian đang vơi đi từng ngày, từng khắc,
cuộc chia lìa vĩnh viễn đang tới gần, thi sĩ
mong mỏi đến đau thương! Thơ là sự lên
tiếng của thân phận , định nghĩa ấy hoàn
22

- Hình ảnh biểu tượng:
+ Thuyền: người con trai
+ Bến: người con gái
+ Trăng: hạnh phúc lứa đôi.

→ Thuyền chở trăng là thuyền chở
tình yêu. Bến sông trăng là bến bờ hạnh
phúc. Liệu con thuyền chở tình yêu có kịp
cập bến bờ hạnh phúc hay không?
→ Câu hỏi chất chứa sự khắc khoải,
sự chờ đợi mòn mỏi tình yêu, hạnh phúc
của thi nhân. Ẩn sau đó là sự mông lung,
hồ nghi, thất vọng.


toàn đúng với Hàn Mặc Tử".
- Gv yêu cầu HS khái quát về khổ
thơ thứ 2?
- HS khái quát.
→ Cảnh vật xứ Huế trong buổi
chiều và đêm trăng buồn bã, hắt hiu nhưng
không kém phần thơ mộng. Đó là cảnh vật
được nhìn qua niềm hi vọng da diết được
về thăm lại xứ Huế nhưng lại bất lực của
thi nhân.
- GV cho HS đọc khổ thơ và nêu
cảm nhận sau khi đọc.
- GV hỏi: Cảnh vật trong khổ thơ
thứ ba có gì khác với khổ thứ nhất và khổ
thứ hai?
- GV cho học sinh lần lượt cắt nghĩa
các hình ảnh:
+ "Khách đường xa" là ai? Điệp từ
có tác dụng gì?
+ "Áo em" là ai? "Trắng quá nhìn

không ra" nghĩa là thế nào?
+ "Ở đây" là ở đâu?
+ "Sương khói" mang ý nghĩa gì?

3. Khổ 3: Niềm khát khao giao
hòa giữa thi nhân và con người xứ Huế.
- Cảnh, người trong mộng. Thiên
nhiên nhường chỗ cho sự hiện diện của
con người.
+ Khách đường xa: người đang sống
ở Vĩ Dạ, cũng có thể là nhà thơ.
→ Điệp từ "khách đường xa" gợi
khoảng cách xa xôi, cách trở.
+ "Áo em": áo của người con gái xứ
Huế.
→ "Trắng quá nhìn không ra" : thi
nhân đang sống trong ảo giác, không phải
nhìn bằng mắt thường.
+ Ở đây: - ở xứ Huế
- nơi nhà thơ sống, cách xa
xứ Huế.
+ Sương khói: - sương khói thực vì
có dòng sông Hương chảy qua.
- tượng trưng cho hố
sâu ngăn cách giữa nhà thơ với xứ Huế và
cuộc đời.
- GV: Từ vệc cắt nghĩa các hình ảnh,
→ Xa xôi, hư ảo, mờ nhòe, càng lúc
hãy nêu cảm nhận của em về hiện thực càng chìm vào cõi mộng.
được miêu tả?

- GV: Dựa vào quy luật tâm lí để
bình giảng: Hình ảnh con người xứ Huế
và tình em như rời xa bởi "khói sương mờ
nhân ảnh". Giữa nhà thơ bạc mệnh và con
người xứ Huế có một hố sâu ngăn cách:
em - người xứ Huế thì xa xôi quá, còn nhà
23


thơ thì biết mình mắc bệnh hiểm nghèo,
một bên là cuộc sống tình yêu hé mở, một
bên là nỗi cô đơn, cái chết dày vò. Vì vậy,
hình ảnh khói sương trong bài thơ là khói
sương của một mối tình mong manh chưa
một lời hẹn ước, khói sương của một trái
tim yêu đời, yêu người nhưng biết mình
sắp từ giã cuộc đời. Tất cả điều đó đã làm
nên sự xa xôi hư ảo và nỗi buồn xót xa, sâu
lắng.
- GV hỏi: Cảnh cũng như tình. Đằng
sau cái hiện thực ấy, em nhận ra tâm tư nào
- Thi nhân cảm nhận rõ nét khoảng
của thi nhân?
cách xa xôi, cái hư ảo ngày càng rõ của
- HS phát hiện.
tình yêu, hạnh phúc.
- GV yêu cầu HS nêu khái quát về
→ Khổ thơ là niềm khát khao giao
khổ thơ.
cảm giữa thi nhân và con người xứ Huế,

đồng thời thể hiện một mối tình kín đáo,
xót xa, vô vọng của nhà thơ đối với người
con gái xứ Huế.
- GV tổ chức HS thảo luận nhóm
(4HS/ nhóm): Như vậy 3 khổ thơ là 3 bức
tranh khác nhau. Phải chăng bài thơ là sự
chắp nối vụng về, rời rạc giữa 3 đoạn? Có
"dòng chảy" nào xuyên xuốt các khổ thơ" ?
- GV gợi ý:
+ Nhận xét sự biến đổi của cảnh vật
và tâm trạng thi nhân từ khổ thứ nhất đến
khổ thứ hai và khổ thứ 3.
+ Tìm và phân tích các tín hiệu ngôn
ngữ liên kết các khổ thơ.
- HS phát hiện -> trình bày.
- GV nhận xét -> chốt ý.

Hoạt động 3: Tổng kết

+ Từ khổ 1 → khổ 2 → khổ 3:
~ Cảnh vật: tươi sáng giàu sức sống
→ ảm đạm, uể oải → hư ảo, mờ nhòe.
~ Tâm trạng thi nhân: hi vọng → dự
cảm chia lìa, thất vọng, hồ nghi → tuyệt
vọng.
+ Đại từ phiếm chỉ "ai" (mang nghĩa
mơ hồ) lặp lại đều đặn trong các khổ thơ:
vườn ai, thuyền ai, ai biết tình ai.
+ Sự lặp lại của các câu hỏi tu từ
trong các khổ: "Sao anh không về chơi

thôn Vĩ?", "Có chở trăng về kịp tối nay?",
"Ai biết tình ai có đậm đà?" thể hiện sự
khắc khoải, khát khao tình yêu hạnh phúc
của chủ thể trữ tình.

III. Tổng Kết
1. Nội dung.
- GV yêu cầu HS khái quát giá trị
- Bài thơ đã tái hiện lại khung cảnh
nội dung, giá tri nghệ thuật của bài thơ
xứ Huế đằm thắm thơ mộng, đồng thời
- HS khái quát.
bộc lộ tâm trạng của nhà thơ, đó là một
- GV yêu cầu HS đọc Ghi nhớ tình quê, một tình yêu thầm kín trong trẻo,
(SGK).
đó là nỗi buồn xót xa sâu lắng của nhà thơ
trước thiên nhiên, con người và hạnh phúc
24


cuộc đời.
2. Nghệ thuật
- Hình ảnh thơ độc đáo, đẹp, gợi
cảm. Ngôn ngữ trong sáng, tinh tế, đa
nghĩa. Các biện pháp nghệ thuật : câu hỏi
tu từ, điệp từ, nhân hóa được sử dụng
thành công.
IV. Củng cố
Câu 1. Nội dung nào sau đây không có trong "Đây thôn Vĩ Dạ":
A. Tình cảm đối với thiên nhiên và con người xứ Huế

B. Nỗi buồn mang dự cảm về hạnh phúc chia xa.
C. Nỗi buồn sâu kín về một tình yêu đơn phương.
D. Tâm sự của một chàng trai trẻ tài hoa nhưng thất tình.
Câu 2: Tâm trạng của thi nhân trong bài thơ?
V. Hướng dẫn về nhà
- Nắm được giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- Soạn bài " Chiều tối" của Hồ Chí Minh
5 . Kết quả đạt được
Sau một kì vận dụng và rút kinh nghiệm đối với “Vận dụng kinh nghiệm giảng
bình của Nguyễn Đăng Mạnh vào dạy học tác phẩm văn chương ở nhà
trường Trung học phổ thông", tôi đã đạt được những kết quả cụ thể.
Qua khảo sát đầu kì I, năm học 2014 - 2015, tôi thấy học sinh trong tình trạng
chán học Văn, hầu hết các em không có hứng thú với môn Văn, giờ học Văn trở
nên nặng nề, không có sự hào hứng say mê. Văn học với các em là những con
chữ khô khan trên giấy, là môn học bắt buộc để đáp ứng nhu cầu thi cử.
Song qua một kì áp dụng "Vận dụng kinh nghiệm giảng bình của Nguyễn Đăng
Mạnh vào dạy học tác phẩm văn chương ở nhà trường Trung học phổ thông",
tôi nhận thấy tôi thấy các em đã có hứng thú, say mê trong các giờ học văn. Học
sinh đã cảm nhận được vẻ đẹp của các hình tượng văn học, ngôn ngữ văn
chương. Học sinh hiểu đúng, rõ, sâu tác phẩm văn chương, cảm thụ được cái
hay, cái đẹp của tác phẩm, qua đó các em đã tự hoàn thiện đạo đức, tâm hồn.
Giờ Văn thực sự là một giờ học lí thú, bổ ích với học sinh.
Thời
gian
Đầu

Sĩ số

Học sinh chán
học Văn


38

76 %
25

Học sinh
yêu thích môn
Văn
24%


×