Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo điều 156 bộ luật hình sự năm 1999

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.92 KB, 92 trang )

đại học quốc gia hà nội
khoa luật

NGUYễN THị Tố UYÊN

TộI SảN XUấT, BUÔN BáN HàNG GIả
THEO
ĐIềU 156 Bộ LUậT HìNH Sự NĂM 1999

luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội 2014

đại học quốc gia hà nội
1


khoa luật

NGUYễN THị Tố UYÊN

TộI SảN XUấT, BUÔN BáN HàNG GIả
THEO
ĐIềU 156 Bộ LUậT HìNH Sự NĂM 1999
Chuyên ngành
Mã số

: Luật hình sự

: 60 38 40


luận văn thạc sĩ luật học

Ngời hớng dẫn khoa học: GS.TS. Đỗ Ngọc Quang

Hà nội - 2014

2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Tố Uyên

3


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, sự xuất hiện của hàng giả trên thị trường
đã trở thành hiện tượng phổ biến và mang tính toàn cầu. Sản xuất và buôn bán

hàng giả là vấn nạn của xã hội. Đối với sản xuất và tiêu dùng nội địa, hàng giả
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và quyết tâm của các doanh nghiệp chân
chính muốn phát triển bằng con đường cạnh tranh lành mạnh, ảnh hưởng đến
sức khỏe, tính mạng của nhân dân và gây hoang mang trong dư luận xã hội.
Đối với quan hệ kinh tế - quốc tế, nạn hàng giả làm giảm sự hấp dẫn trong thu
hút đầu tư nước ngoài, ảnh hưởng đến tiến trình thực hiện các chế định kinh tế
quốc tế mà điển hình nhất là các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO). Theo báo cáo từ tổ chức Hải quan thế giới, cứ 10 sản phẩm lại có 1
sản phẩm bị làm giả.
Hòa chung với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, những năm qua kinh tế
nước ta có những bước phát triển đáng kể, an sinh xã hội được đảm bảo. Bên
cạnh đó, có một số vấn đề đáng quan ngại, trong đó dư luận bức xúc trước
tình trạng hàng giả xuất hiện tràn lan trên thị trường. Hàng giả phong phú về
chủng loại, đa dạng về mẫu mã và linh động về giá cả có mặt ở rất nhiều phân
khúc của thị trường từ các phiên chợ ở vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn
đến các chợ, các siêu thị ở các đô thị lớn. Tình hình sản xuất, buôn bán hàng
giả cũng có chiều hướng gia tăng về số lượng, loại hàng hóa và có diễn biến
ngày càng phức tạp, đặc biệt trong điều kiện nước ta có chung đường biên
giới với Trung Quốc , "một phân xưởng sản xuất của thế giới" và cũng là một
trung tâm sản xuất, phát luồng hàng giả.
Đấu tranh phòng, chống nạn hàng giả là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị và của toàn xã hội. Phòng chống sản xuất, buôn bán hàng giả được
thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong đó xử lý hình sự là một biện pháp hữu
hiệu, nghiêm khắc nhất để bảo vệ trật tự quản lý kinh tế, quyền lợi của người
4


tiêu dùng và các nhà sản xuất, phân phối chân chính. Xử lý hình sự đối với
hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả theo quy định của Điều 156 Bộ luật hình
sự (BLHS) là một trong những nội dung quan trọng về phòng, chống sản xuất,

buôn bán hàng giả. Trong cuộc đấu tranh đó, pháp luật hình sự cùng với hoạt
động của các cơ quan bảo vệ pháp luật đóng vai trò hết sức quan trọng. Nhận
thức được tầm quan trọng của công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm
sản xuất, buôn bán hàng giả các cơ quan bảo vệ pháp luật đã chủ động áp
dụng nhiều biện pháp, xử lý nghiêm những trường hợp phạm tội sản xuất,
buôn bán hàng giả và đã đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, quá
trình áp dụng pháp luật về tội sản xuất, buôn bán hàng giả còn phát sinh một
số hạn chế bất cập: quy định của pháp luật có điểm chưa phù hợp với thực
tiễn cuộc đấu tranh phòng chống hàng giả, thiếu tính thống nhất, đồng bộ
trong thi hành và áp dụng pháp luật; chưa có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan bảo vệ pháp luật; biện pháp áp dụng của pháp luật chưa triệt để,
nghiêm minh. Những hạn chế, bất cập ấy, đã ảnh hưởng đến kết quả thi hành
pháp luật đối với tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả. Số vụ sản xuất buôn
bán hàng giả được phát hiện trong những năm trở lại đây lên đến con số hàng
nghìn, song số vụ được khởi tố, truy tố và đưa ra xét xử là rất ít: Trong 05
năm (từ năm 2009 - đến năm 2013) ngành Tòa án đã xét xử sở thẩm 67 vụ, 94
bị can, trung bình mỗi năm xét xử 13,4 vụ, 18,8 bị can về tội sản xuất, buôn
bán hàng giả - một con số rất ít ỏi so với tình hình thực tế hiện nay. Vì vậy,
việc nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn của tội
sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả theo quy định tại Điều 156, BLHS năm
1999 để giúp nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống loại tội
phạm này là một nhu cầu thực tế và thiết thực.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lĩnh vực nghiên cứu, ở mức độ khái quát tội sản xuất hàng giả,
buôn bán hàng giả được đề cập trong nhiều cuốn Bình luận khoa học BLHS
năm 1999 như: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (phần các tội

5



phạm), của tập thể tác giả TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS,Ths.
Phạm Thanh Bình, Ths. Nguyễn Đức Mai, Ths. Nguyễn Sỹ Đại, Ths. Nguyễn
Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, 2001; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự,
Phần các tội phạm, tập VI, do Ths. Đinh Văn Quế chủ biên, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, năm 2003; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam đã
được sửa đổi bổ sung năm 2009, do TS. Trần Minh Hưởng chủ biên, Nxb Lao
động, 2009; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 2, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Nxb Công an nhân dân, 2012. Ở mức độ nghiên cứu chuyên sâu, tác giả
Mai Thị Lan đã nghiên cứu về tội phạm này trong Luận văn thạc sỹ với đề tài
"Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo pháp luật hình sự Việt Nam", năm
2008 tại Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội.
Mặc dù, tội sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả đã được nghiên cứu cả
ở góc độ lý luận và thực tiễn tuy nhiên về thời điểm nghiên cứu, các công trình
nghiên cứu trên đây, đặc biệt là nghiên cứu của Thạc sỹ Mai Thị Lan đã được
thực hiện từ năm 2008, với bối cảnh và trực trạng áp dụng pháp luật đối với tội
sản xuất, buôn bán hàng giả năm 2008 và những năm trước đó đến nay đã có
nhiều thay đổi. Nạn hàng giả vẫn tiếp diễn, gia tăng, diễn biến phức tạp với thủ
đoạn ngày càng tinh vi. Các vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về tội
sản xuất buôn bán hàng giả vẫn còn là vấn đề mang tính thời sự pháp luật, cần
được nghiên cứu cụ thể, đầy đủ và toàn diện, phục vụ công tác điều tra, truy tố,
xét xử và đấu tranh chống tội sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả ở nước ta
hiện nay. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống
cả về lý luận và thực tiễn về tội phạm này sẽ đáp ứng được những đòi hỏi của
thực tiễn và yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống hàng giả.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Làm rõ khái niệm, đặc điểm pháp lý, các vấn đề khác
có liên quan, kết quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội sản
xuất hàng giả, buôn bán hàng giả. Trên cơ sở đó có thể để
6



xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định của Điều 156 BLHS
và một số giải pháp nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm này.
* Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội sản xuất hàng
giả, buôn bán hàng giả, trong đó làm rõ khái niệm, đặc điểm
của tội sản xuất, buôn bán hàng giả, phân biệt tội phạm này
với một số tội phạm khác có liên quan và với pháp luật hình
sự của một số nước.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp
luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội sản xuất hàng giả,
buôn bán hàng giả và thực tiễn áp dụng các quy định này từ
đó tìm ra những mặt đạt được và những hạn chế.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần bổ sung, hoàn
thiện quy định về tội sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả
trong BLHS Việt Nam và nâng cao hiệu quả của cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm về hàng giả.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sự hình thành và phát
triển các quy định về tội sản xuất hàng giả, buôn bán hàng
giả trong luật hình sự Việt nam từ trước đến nay, các vấn đề
liên quan đến việc định tội danh, trách nhiệm hình sự và hình
phạt đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo quy định tại
Điều 156, BLHS năm 1999 cả ở góc độ lý luận và thực tiễn áp
dụng pháp luật trong phạm vi cả nước, giai đoạn 2009-2013.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp
luận của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin về duy vật biện chứng và duy

7


vật lịch sử, tử tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng lãnh đạo, chỉ đạo
cũng như chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh
phòng chống tội phạm nói chung và tội sản xuất hàng giả,
buôn bán hàng giả nói riêng.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử,
thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu, trao đổi với
các chuyên gia, các nhà nghiên cứu và khảo sát thực tiễn.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Đề tài là công trình chuyên khảo có hệ thống ở cấp độ
luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu làm rõ những cơ sở lý
luận và thực tiễn về tội sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả
trong BLHS Việt Nam.
- Kết quả của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo,
học tập, đồng thời cung cấp cho cán bộ làm công tác thực
tiễn những hướng dẫn, chỉ dẫn cụ thể, góp phần nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tội sản xuất hàng giả, buôn bán
hàng giả.
Chương 2: Các dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất hàng giả, buôn bán
hàng giả theo Điều 156 Bộ luật hình sự hiện hành và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và
nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử về tội sản xuất, buôn bán hàng giả
theo Điều 156 Bộ luật hình sự.


8


Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG
GIẢ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1.1. Khái niệm của tội sản xuất, buôn bán hàng giả
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả được quy định tại Điều 156, Chương
XVI (các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế), Phần các tội phạm, BLHS
Việt Nam. Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của tội phạm này cần làm rõ hàng
loạt thuật ngữ cơ bản. Trước tiên, cần hiểu thế nào là sản xuất, thế nào là buôn
bán và thế nào là hàng giả; tiếp theo, định lượng của hành vi sản xuất, buôn
bán hàng giả đến mức nào thì truy cứu trách nhiệm hình sự; và cuối cùng,
đánh giá sự nguy hiểm của tội phạm này đối với nhà nước và xã hội.
Thông thường, hàng giả được hiểu là không phải hàng thật. Vậy thế
nào là hàng thật. Theo khoản 3 Điều 3 Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa thì,
"sản phẩm, hàng hoá không có khả năng gây mất an toàn là sản phẩm, hàng
hoá trong điều kiện vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý và đúng
mục đích, không gây hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường"
[29]. Tuy nhiên, sản phẩm hàng hóa được đưa vào thị trường, tiêu dùng thông
qua trao đổi, mua bán, tiếp thị lại phải tuân thủ những quy định của pháp luật
sở hữu trí tuệ, có nghĩa phải tuân thủ những quy định của sở hữu công nghiệp
liên quan đến sản phẩm hàng hóa. Mỗi sản phẩm hàng hóa được đưa ra thị
trường để trao đổi, mua bán phải có nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa
lý, nguồn gốc xuất xứ hàng hóa, hay nói cách khác phải đăng ký hàng hóa tại
cơ quan có thẩm quyền để xác định chất lượng hàng hóa. Như vậy, hiểu một
cách thông thường, sản phẩm hàng hóa được coi là giả khi không bảo đảm

chất lượng, giả về nhãn hiệu hàng hóa đưa ra thị trường tiêu thụ nhằm lừa dối
người tiêu dùng hoặc làm cho người tiêu dùng tưởng rằng đó là hàng thật,

9


hàng đảm bảo chất lượng không gây hại cho người, động vật, thực vật, tài sản,
môi trường khi sử dụng nó.
Tuy nhiên, để xác định như thế nào là hàng giả cần dựa vào những
quy định của văn bản pháp luật. Theo quy định tại khoản 8 Điều 3, Nghị định
số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả,
hàng cấm, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, "Hàng giả" có một trong các dấu
hiệu sau đây:
- Hàng hóa không có giá trị sử dụng, công dụng; có giá trị sử dụng,
công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng
hóa; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với giá trị sử dụng, công dụng
đã công bố hoặc đăng ký;
- Hàng hóa có hàm lượng định lượng chất chính hoặc trong các chất
dinh dưỡng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản khác chỉ đạt mức từ 70% trở xuống
so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp
dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
- Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người, vật nuôi không có dược
chất; có dược chất nhưng không đúng với hàm lượng đã đăng ký; không đủ
loại dược chất đã đăng ký; có dược chất khác với dược chất ghi trên nhãn,
bao bì hàng hóa;
- Thuốc bảo vệ thực vật không có hoạt chất; hàm lượng hoạt chất chỉ
đạt từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật đã
đăng ký, công bố áp dụng; không đủ loại hoạt chất đã đăng ký; có hoạt chất
khác với hoạt chất ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;

- Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa giả mạo tên thương
nhân, địa chỉ của thương nhân khác; giả mạo tên thương mại hoặc tên thương
phẩm hàng hóa; giả mạo mã số đăng ký lưu hành, mã vạch hoặc giả mạo bao
bì hàng hóa của thương nhân khác;

10


- Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa ghi chỉ dẫn giả mạo về
nguồn gốc hàng hóa, nơi sản xuất, đóng gói, lắp ráp hàng hóa;
- Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2005 (Hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ bao gồm hàng hoá
giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý (sau đây gọi là hàng hoá giả mạo
nhãn hiệu). Hàng hoá giả mạo nhãn hiệu là hàng hoá, bao bì của hàng hoá có
gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý
đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ
sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý);
- Tem, nhãn, bao bì giả. "Tem, nhãn, bao bì giả" gồm đề can, nhãn
hàng hóa, bao bì hàng hóa, các loại tem chất lượng, phiếu bảo hành, niêm
màng co hàng hóa hoặc vật phẩm khác của cá nhân, tổ chức kinh doanh có chỉ
dẫn giả mạo tên và địa chỉ của thương nhân khác; giả mạo tên thương mại, tên
thương phẩm hàng hóa, mã số đăng ký lưu hành, mã vạch hoặc bao bì hàng
hóa của thương nhân khác.
Như vậy, để xác định là hàng giả khi hàng đó thỏa mãn một tong
những dấu hiệu nêu trên.
Cũng theo quy định tại Điều 3, Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày
15/11/2013 của Chính phủ, hành vi "Sản xuất" là việc thực hiện một, một số
hoặc tất cả các hoạt động chế tạo, chế bản, in ấn, gia công, đặt hàng, sơ chế,
chế biến, chiết xuất, tái chế, lắp ráp, pha trộn, san chia, sang chiết, nạp, đóng
gói và hoạt động khác làm ra hàng hóa” [7]. Từ quy định này, có thể hiểu "sản

xuất hàng giả" là thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động chế tạo, chế
bản, in ấn, gia công, đặt hàng, sơ chế, chế biến, chiết xuất, tái chế, lắp ráp,
pha trộn, san chia, sang chiết, nạp, đóng gói và hoạt động khác làm ra hàng
hóa có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 8 Điều 3, Nghị định số
185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ.
Theo quy định tại Điều 3, Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày
15/11/2013 của Chính phủ, hành vi "Buôn bán" là việc thực hiện một, một số
11


hoặc tất cả các hoạt động chào hàng, bày bán, lưu giữ, bảo quản, vận chuyển,
bán buôn, bán lẻ, xuất khẩu, nhập khẩu và hoạt động khác đưa hàng hóa vào
lưu thông" [7]. Cho nên, có thể hiểu buôn bán hàng giả là thực hiện một, một
số hoặc tất cả các hoạt động chào hàng, bày bán, lưu giữ, bảo quản, vận
chuyển, bán buôn, bán lẻ, xuất khẩu, nhập khẩu và hoạt động khác đưa hàng
hóa có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 8 Điều 3, Nghị định số
185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ, vào lưu thông.
Qua đó, chúng ta có thể thấy sản xuất hàng giả và buôn bán hàng giả
là hai hành vi vi phạm độc lập. Đây cũng là hai tội phạm độc lập được quy
định tại Điều 156 BLHS năm 1999: Tội sản xuất hàng giả và tội buôn bán
hàng giả. Điều đó có nghĩa là chỉ cần thực hiện hành vi sản xuất hàng giả
hoặc buôn bán hàng giả với đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm này thì
người có hành vi này đã bị coi là phạm tội mà không cần phải thực hiện hành
vi còn lại. Điểm khác biệt của hai tội này nằm ở mặt khách quan của tội phạm
thể hiện ở hành vi phạm tội đó là hành vi sản xuất hàng giả và hành vi buôn
bán hàng giả.
Nếu khái niệm cho chúng ta nhận biết tổng thể đối tượng nghiên cứu
một cách chung nhất, thì đặc điểm giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn về đối
tượng nghiên cứu, minh họa cho khái niệm, làm cho khái niệm trở lên bớt khô
cứng và sinh động hơn. Để nhận thức sâu và áp dụng chính xác tội sản xuất,

buôn bán hàng giả theo quy định tại Điều 156 BLHS vào thực tiễn cuộc sống
chúng ta cùng nghiên cứu về đặc điểm của tội phạm này.
1.1.2. Đặc điểm của tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo Điều 156
Bộ luật hình sự
Theo Luật hình sự Việt Nam, hành vi bị coi là tội phạm được phân
biệt với những hành vi không phải là tội phạm qua bốn dấu hiệu: tính nguy
hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải chịu hình
phạt. Đó là những đặc điểm của tội phạm nói chung mà tội sản xuất, buôn bán
hàng giả không phải là ngoại lệ. Mỗi trường hợp phạm tội cụ thể của một loại
12


tội khác nhau về nội dung biểu hiện của tội phạm, không trường hợp nào
giống hoàn toàn trường hợp nào. Tuy vậy, tất cả những trường hợp phạm tội
của một loại tội phạm đều có những nội dung biểu hiện đặc điểm, phản ánh
tính chất đặc trưng của tội phạm đó mà không thể nhầm lẫn sang tội phạm
khác. Nghiên cứu về tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo Điều 156 BLHS
cho thấy, tội danh này có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, tội sản xuất, buôn bán hàng giả là tội danh có tính chất bao
quát, chung đối với hành vi sản xuất buôn bán hàng giả. Bởi vì, trong BLHS
còn có nhiều điều luật khác quy định tội sản xuất, buôn bán hàng giả có tính
chất đặc thù. Ví dụ, Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực
phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh được quy định tại Điều 157 BLHS;
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón,
thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi được quy định tại
Điều 158 BLHS; Tội làm tem giả, vé giả, tội buôn bán tem giả, vé giả được
quy định tại Điều 164 BLHS; Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp được
quy định tại Điều 171 BLHS.
Như vậy, người nào có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả không
phải là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; không

phải là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực
vật, giống cây trồng, vật nuôi; không phải là tem giả, vé giả; không phải là có
kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi, xuất xứ hàng hoá hoặc
các đối tượng sở hữu công nghiệp khác đang được bảo hộ tại Việt Nam thì bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 156 BLHS.
Thứ hai, có thể phân loại hàng giả là đối tượng của tội sản xuất, buôn
bán hàng giả thành ba loại, hàng giả về nội dung, hàng giả về hình thức và
hàng giả cả về nội dung và hình thức. Để xác định hàng giả về nội dung hay
giả về hình thức, hay giả cả về nội dung, hình thưc trong quá trình áp dụng
pháp luật cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ những văn bản pháp luật khác
nhau tương ứng mỗi loại hàng giả, cụ thể:

13


- Hàng giả về nội dung gồm: Hàng giả không có giá trị sử dụng, công
dụng; Hàng giả có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc tự
nhiên, tên gọi của hàng hóa; Hàng giả có giá trị sử dụng, công dụng không
đúng với giá trị sử dụng, công dụng đã công bố hoặc đăng ký; Hàng hóa có
hàm lượng, định lượng chất chính, tổng các chất dinh dưỡng hoặc đặc tính kỹ
thuật cơ bản khác chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng,
quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì
hàng hoá. Đây là các trường hợp giả về chất lượng, kỹ thuật hàng hóa, xâm
phạm trật tự quản lý nhà nước về chất lượng, kỹ thuật hàng hóa được bảo vệ
theo Luật tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật chất lượng sản phẩm, hàng
hóa và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Hàng giả về hình thức bao gồm: Nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa giả
mạo tên thương nhân, địa chỉ của thương nhân khác; Hàng giả mạo tên thương
mại, tên thương phẩm hàng hóa, mã số đăng ký lưu hành, mã vạch hoặc bao bì
hàng hóa của thương nhân khác; Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa

ghi chỉ dẫn giả mạo về nguồn gốc hàng hóa, nơi sản xuất, đóng gói hàng hóa,
lắp rắp hàng hóa; Hàng hóa sao chép lậu là bản sao được sản xuất mà không
được phép của chủ thể quyền tác giả hoặc quyền liên quan theo quy định tại
Điều 213 Luật sở hữu trí tuệ; Nhãn, bao bì giả. Quản lý nhà nước về nội dung
này có Luật sở hữu trí tuệ, Nghị định 89/2006/NĐ-CP ngày 30/8/2006 của
Chính phủ về nhãn hàng hóa và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Hàng giả cả về nội dung về hình thức là hàng giả vừa không có giá
trị sử dụng, công dụng và giả cả về nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa giả mạo
tên thương nhân, địa chỉ của thương nhân khác… như đã nêu ở phần trên.
Thứ ba, giá cả bán hàng giả không nhất thiết phải bán theo giá của
hàng thật để lừa dối người tiêu dùng, mà còn có thể bán với giá rẻ, thậm chí
rất rẻ mà không có mục đích lừa dối người tiêu dùng. Thậm chí, có các loại
hàng giả khi được mang ra tiêu thụ, người tiêu dùng vẫn biết đó là hàng giả,
nhưng họ vẫn cứ mua và mang về sử dụng. Tuy nhiên, dù bán với giá nào và

14


có mục đích lừa dối người tiêu dùng hay không thì người sản xuất, buôn bán
hàng giả vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 156 BLHS.
Thứ tư, nguồn gốc của hàng có thể sản xuất tại Việt Nam và có thể sản
xuất ở nước ngoài được nhập khẩu hoặc bằng các cách khác nhau đưa vào
Việt Nam tiêu thụ. Tuy nhiên, để xác định đó là hàng giả thì phải có hàng thật
để so sánh. Điều đó có nghĩa trong trường hợp hàng giả được sản xuất ở nước
ngoài và đưa vào Việt Nam tiêu thụ thì phải có hàng thật đang tiêu thụ ở Việt
Nam mà hàng thật này đã được đăng ký bản quyền sở hữu công nghiệp, đăng
ký chất lượng hàng hóa và đã được Cục sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và
Công nghệ cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, tên thương mại... Ví dụ,
phụ tùng ô tô, xe máy được sản xuất tại Trung Quốc có ghi nhãn hiệu Honda
của Nhật Bản được mang vào Việt Nam tiêu thụ. Để xác định phụ tùng ô tô,

xe máy này được sản xuất tại Trung Quốc có phải là hàng giả hay không thì
phải có phụ tùng ô tô, xe máy của hãng Honda đã đăng ký bản quyền tại Việt
Nam đưa ra so sánh đối chiếu về chất lượng và nhãn hiệu.
Tương tự như thế, đối với hàng hóa sản xuất tại Việt Nam được xác
định là hàng giả thì phải so sánh với chủng loại hàng hóa đó sản xuất tại Việt
Nam đã đăng ký bản quyền tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ, có
loại bột giặt có nhãn hiệu OMO tiêu thụ trên thị trường bị nghi là giả thì phải
lấy bột giặt có nhãn hiệu OMO của chính hãng đã đăng ký bản quyền tại Việt
Nam đưa ra so sánh, đối chiếu để xác định loại bột giặt có nhãn hiệu OMO
tiêu thụ trên thị trường bị nghi là giả có phải là hàng giả hay không. Điều đó
có nghĩa rằng, để xác định hàng giả thì phải có kết quả giám định của cơ quan
giám định có thẩm quyền. Đây là chứng cứ đặc biệt quan trọng mà các cơ
quan điều tra, kiểm sát, tòa án dựa vào đó để quyết định việc truy cứu trách
nhiệm hình sự hay không theo Điều 156 BLHS.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY
ĐỊNH VỀ TỘI SẢN XUẤT HÀNG GIẢ, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ

15


1.2.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Cách mạng Tháng Tám thành công - nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
ra đời. Dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do
và chủ nghĩa xã hội. Ngày 09 tháng 11 năm 1946, Quốc hội khóa I nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp
năm 1946. Hiến pháp năm 1946 ra đời có ý nghĩa quan trọng về nhiều phương
diện và là nguồn có tính chất định hướng của luật hình sự Việt Nam trong giai
đoạn 1945-1959. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam
dân chủ cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 47/SL quy định:

Cho đến khi ban hành những bộ pháp luật duy nhất cho toàn
cõi nước Việt Nam, các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam bộ
vẫn tạm thời giữ nguyên như cũ, nếu những luật lệ ấy không trái với
những điều theo đổi ấn định trong Sắc lệnh này.
Những điều khoản cụ thể trong luật lệ cũ được tạm giữ lại
do Sắc luật này, chỉ thi hành khi nào không trái với nền độc lập của
nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa [4].
Về phạm vi nguồn luật cũ được áp dụng trong chế độ mới gồm Bộ luật
hình An Nam tại Bắc bộ, Bộ Hoàng Việt hình luật tại Trung bộ và Bộ hình
Pháp tu tại Nam bộ. Bên cạnh việc duy trì pháp luật của chế độ cũ như một
giải pháp tình thế, chính quyền cách mạng đã khẩn trương xây dựng pháp luật
của chế độ mới, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của cuộc kháng chiến cứu nước. Do
bị chi phối bởi đặc điểm lịch sử đất nước, trong thời kỳ này nguồn của luật
hình sự chủ yếu tồn tại dưới dạng Sắc lệnh do Chủ tịch nước - đồng thời là
Chủ tịch Chính phủ ban hành.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc được giải
phóng, nhiệm vụ cách mạng có sự thay đổi cơ bản, Hiến pháp năm 1959 được
ban hành để ghi nhận những quan hệ xã hội mới đang tồn tại, đồng thời định
hướng cho sự phát triển tiếp theo của đất nước, nguồn của luật hình sự cũng
16


có những bước phát triển mới, trong hệ thống luật hình sự Việt Nam không
còn có các văn bản pháp luật ban hành dưới chế độ cũ, Pháp lệnh, Sắc luật lại
giữ vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự.
Tuy nhiên cho đến trước năm 1976, đất nước ta liên tục có chiến tranh
cả nước tập trung toàn bộ sinh lực cho chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, các văn
bản pháp luật hình sự mang tính thời sự ra đời tập trung quy định các tội liên
quan đến cuộc chiến tranh như: tội phản cách mạng, tội xâm phạm tài sản
XHCN như tội tàng trữ, lưu hành tiền cũ, từ chối sử dụng, làm giả hay phá

hoại tiền mới, tội vi phạm thể lệ mậu dịch, tội đầu cơ hàng hóa,... Giai đoạn
này, nền kinh tế nước ta còn bao cấp, cả nước tập trung cho chiến tranh, hàng
hóa lưu thông trên thị trường đều do các doanh nghiệp nhà nước sản xuất
hoặc do các nước viện trợ, chính vì vậy hàng giả gần như là không có cơ sở
để phát triển nên pháp luật hình sự nước ta giai đoạn này không có quy định
về tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
Đại thắng mùa xuân năm 1975, miền Nam được giải phóng, Bắc,
Trung, Nam thống nhất một nhà, đất nước độc lập hoàn toàn. Nền kinh tế
nước ta sau chiến tranh hết sức nghèo nàn và lạc hậu, bọn tư sản mại bản
được sự tiếp tay của tư sản nước ngoài không ngừng gây rối loạn thị trường,
nạn hàng giả xuất hiện. Trước tình hình đó, ngày 15/3/1976 Chính phủ cách
mạng lâm thời đã kịp thời ban hành Sắc luật số 03/SL quy định về tội phạm
và hình phạt nhằm ổn định thị trường, đảm bảo sự quản lý của nhà nước đối
với nền kinh tế. Tội sản xuất hàng giả cũng được quy định tại Sắc luật này là
một trong các tội kinh tế:
Điều 6. Tội kinh tế: Tội kinh tế là tội gây thiệt hại về tài
chính cho Nhà nước, cho Hợp tác xã hoặc cho tập thể nhân dân, gây
trở ngại cho việc khôi phục và phát triển sản xuất, cho việc ổn định
đời sống nhân dân, gồm các tội, trong đó có: Sản xuất hàng giả cố ý
lừa gạt người tiêu thụ; Làm bạc giả, hoặc tiêu thụ bạc giả.... Phạm
một trong các tội trên đây, thì bị phạt tù sáu tháng đến năm năm và

17


phạt tiền đến năm mươi nghìn đồng Ngân hàng hoặc một trong hai
hình phạt đó. Trong trường hợp nghiêm trọng, thì phạt tù đến hai
mươi năm, tù chung thân hoặc xử tử hình và bị tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản [24].
Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, tội sản xuất hàng giả được quy

định đáp ứng phần nào yêu cầu của cuộc đấu tranh chống hàng giả. Theo quy
định này, hình phạt được áp dụng đối với tội sản xuất hàng giả là rất nghiêm
khắc với mức cao nhất là tử hình đã thể hiện tính chất, mức độ đặc biệt nguy
hiểm của hành vi sản xuất hàng giả đối với Nhà nước và xã hội trong thời
gian này. Tuy nhiên, Sắc luật số 03 còn bộc lộ những hạn chế nhất định, quy
định về tội sản xuất hàng giả cũng vậy. Sắc luật chưa quy định cụ thể về các
dấu hiệu cấu thành tội phạm và hình phạt đối với từng tội phạm cụ thể trong
nhóm tội kinh tế. "Tội sản xuất hàng giả cố ý lừa gạt người tiêu thụ" mới chỉ
được liệt kê trong số các tội kinh tế một cách chung chung, chưa quy định cụ
thể như thế nào là hành vi sản xuất hàng giả cố ý lừa gạt người tiêu thụ và
như thế nào là hàng giả. Hành vi buôn bán hàng giả không bị coi là tội
phạm. Về hình phạt, loại và khung hình phạt áp dụng đối với "tội sản xuất cố
ý lừa gạt người tiêu thụ" đồng thời cũng là loại và khung hình phạt áp dụng
đối với các tội về kinh tế nói chung. Việc quy định không đầy đủ, thiếu cụ
thể của Sắc luật về tội sản xuất hàng giả nói riêng và các tội về kinh tế nói
chung đã gây ra không ít khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật của các
cơ quan tiến hành tố tụng.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1980, để khắc phục những hạn chế, thiếu
sót của Sắc luật số 03/SL, ngày 10/7/1982 Pháp lệnh số 07-LCT/HĐNN7 về
trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép được
ban hành là bước tiến về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta. Tội sản xuất,
buôn bán hàng giả được quy định trong một điều luật riêng, hành vi buôn bán
hàng giả được coi là hành vi phạm tội với tính chất và mức độ nguy hiểm cho

18


xã hội tương đương với hành vi sản xuất hàng giả được quy định trong cùng
một điều luật và giống nhau về hình phạt. Điều 5 của Pháp lệnh quy định:
Tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả: Người nào làm

hàng giả hoặc buôn bán hàng giả nhằm thu lợi bất chính thì bị phạt
tù từ sáu tháng đến năm năm và bị phạt tiền từ năm nghìn đồng đến
năm vạn đồng; Phạm tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả là
lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh hoặc phạm tội trong
trường hợp nghiêm trọng quy định tại khoản 1 Điều 9 pháp lệnh
này thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm, bị phạt tiền đến năm
trăm nghìn đồng và có thể bị tịch thu một phần tài sản; Phạm tội
làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả có chất độc hại hoặc các chất
khác có thể nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng,
hoặc phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định tại
Khoản 2 Điều 9 Pháp lệnh này thì bị phạt tù từ mười năm đến hai
mươi năm hoặc tù chung thân, bị phạt tiền đến một trăm triệu đồng
và có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản [24].
Không còn là quy định chung chung mang tính chất liệt kê về tội
phạm như ở Sắc luật số 03/SL, Pháp lệnh số 07-LCT/HĐNN7 đã phân định
hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả thành ba mức căn cứ vào tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả, mà cụ thể là căn
cứ vào đối tượng của tội phạm (loại hàng giả) và hậu quả của tội phạm, tương
ứng với ba khung hình phạt. Theo đó, hành vi làm hàng giả hoặc buôn bán
hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, hàng giả có chất độc hại
hoặc các chất khác có thể nguy hiểm đến sức khỏe tính mạng người tiêu dùng
được xác định có tính nguy hiểm cao hơn so với các hàng hóa khác vì vậy,
mức và loại hình phạt được áp dụng là nghiêm khắc hơn theo quy định tại
khoản 2 và khoản 3 của điều luật, với mức hình phạt cao nhất ở khoản 3 là
đến tù chung thân. Trường hợp nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng cũng bị
áp dụng hình phạt nghiêm trọng hơn so với các trường hợp phạm tội quy định

19



tại khoản 1. Tuy nhiên, quy định về mức hình phạt đối với người phạm tội
làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả trường hợp đặc biệt nghiêm trọng tại
Điều 5 Pháp lệnh thể hiện sự không nhất quán với quy định tại Điều 8 của
Pháp lệnh. Theo quy định tại Điều 8 Pháp lệnh phạm tội thuộc trường hợp đặc
biệt nghiêm trọng thì hình phạt cao nhất là tử hình. Bên cạnh đó, Pháp lệnh
chưa phân định tội phạm và vi phạm pháp luật khác. Để xác định hành vi làm
hàng giả, buôn bán hàng giả là tội phạm hay vi phạm hành chính, các cơ quan
chức năng phải căn cứ vào Nghị định số 46/HĐBT ngày 10/5/1983 quy định
về việc xử lý bằng biện pháp hành chính hành vi đầu cơ, buôn lậu, làm hàng
giả, kinh doanh trái phép. Theo quy định của Nghị định số 46/HĐBT thì:
Mọi hành vi đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái
phép thuộc loại vi phạm nhỏ chưa đến mức truy cứu trách nhiệm
hình sự đều bị xử lý bằng biện pháp hành chính theo quy định của
Nghị định này. Vi phạm nhỏ là vi phạm trong trường hợp giá trị
hàng phạm pháp dưới hai vạn đồng, tính chất việc vi phạm không
nghiêm trọng, tác hại gây ra cho sản xuất, đời sống nhân dân, trật tự
và an toàn xã hội là không nhiều, người vi phạm không có tiền án,
tiền sự, khi bị phát hiện không có hành vi chống lại cán bộ, nhân
viên làm nhiệm vụ [23].
Nghị định cũng quy định: "hàng giả thuộc loại lương thực, thực phẩm,
thuốc chữa bệnh thì bất cứ trường hợp nào cũng bị truy cứu trách nhiệm hình
sự" [23], do tính chất nguy hiểm của loại hàng giả này là nghiêm trọng hơn so
với các loại hàng giả khác, cũng như tầm quan trọng của loại hàng hóa này
đối với Nhà nước và xã hội.
Pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985 được đánh giá là
pháp luật hình sự cách mạng, dân chủ, nhân đạo và nhân dân, thể hiện tính tự
thân phát triển, gắn bó với thực tiễn và đa dạng về loại hình nguồn. Với
những điều kiện khách quan không thuận lợi về hoàn cảnh chiến tranh ác liệt,
những khó khăn của nền kinh tế, sự cứng nhắc, giáo điều trong tư duy về pháp


20


luật XHCN, pháp luật hình sự giai đoạn 1945 - 1985 không thể tránh khỏi
những hạn chế nhất định như tình trạng chồng chéo, lẻ tẻ, rời rạc, thiếu tính
thống nhất, việc áp dụng nguyên tắc tương tự gây nên tình trạng không thống
nhất, tùy tiện của hoạt động áp dụng pháp luật. Trong giai đoạn này, nạn hàng
giả đã xuất hiện từ sau năm 1975, đã được kịp thời xử lý bằng biện pháp hình
sự với sự ra đời của Sắc luật số 03/SL, tiếp đó là Pháp lệnh số 07LCT/HĐNN7 với những đặc điểm, hạn chế của pháp luật hình sự giai đoạn
này. Thực tiễn đó cần thiết phải ban hành một văn bản pháp luật hình sự thống
nhất ở tầm bộ luật để quy định cụ thể về tội phạm và trách nhiệm hình sự,
trong đó cần giải quyết những bất cập trong quy định của pháp luật hình sự về
tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
Sau khi Hiến pháp năm 1980 được ban hành, vào năm 1982, Hội đồng
nhà nước Việt Nam đã quyết định "Kế hoạch năm năm xây dựng pháp luật
1982-1985" xác định phải ban hành nhiều bộ luật lớn, trong đó có BLHS.
BLHS năm 1985 được ban hành ngày 27/6/1985 là BLHS đầu tiên của nước
ta và là nguồn cơ bản của luật hình sự Việt Nam giai đoạn 1985-1999, chấm
dứt tình trạng quy định các vấn đề tội phạm, hình phạt trong các văn bản pháp
luật đơn hành mà thống nhất vào một văn bản duy nhất là BLHS, loại trừ
hoàn toàn việc áp dụng nguyên tắc pháp luật tương tự trong lĩnh vực hình sự
với việc quy định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong BLHS.
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả được quy định tại Điều 167, chương
VII, BLHS năm 1985 là một trong các tội phạm về kinh tế với tên gọi "Tội
làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả" có nội dung:
Người nào làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả thì bị phạt
tù từ sáu tháng đến năm năm. Phạm tội thuộc một trong các trường

hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm: Hàng giả là
21


lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, phòng bệnh; Có tổ chức;
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc danh nghĩa Nhà nước, tổ chức xã
hội; Hàng giả có số lượng lớn; thu lợi bất chính lớn; Tái phạm nguy
hiểm. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù
từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình [23].
Bộ luật hình sự năm 1985, được sửa đổi, bổ sung 4 lần, trong đó Điều
167 được sửa đổi bổ sung 2 lần. Năm 1992, trong lần sửa đổi bổ sung Điều
167 lần thứ hai, hình phạt đối với tội làm giả, buôn bán hàng giả được sửa đổi
theo hướng tăng hình phạt ở mức cao hơn và bổ sung thêm đối tượng hàng giả
mới là "Vật liệu xây dựng, phân bón, thuốc trừ sâu" vào Điểm a, khoản 2.
Điều luật quy định:
Người nào làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả thì bị phạt
tù từ một năm đến bảy năm. Phạm tội thuộc một trong các trường
hợp sau đây thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm: Hàng giả
là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, phòng bệnh, vật liệu
xây dựng, phân bón, thuốc trừ sâu; Có tổ chức hoặc có tính chất
chuyên nghiệp; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh
nghĩa cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội; Hàng giả có số lượng lớn;
thu lợi bất chính lớn; Tái phạm nguy hiểm. Phạm tội trong trường
hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai
mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình [23].
Những sửa đổi, bổ sung trên đây xuất phát từ tình trạng gia tăng và
diễn biến ngày càng phức tạp của nạn hàng giả, cùng với sự gia tăng về tính
chất, mức độ nguy hiểm của hàng giả đối với xã hội và trật tự quản lý Nhà
nước về kinh tế, thể hiện đường lối xử lý nghiêm khắc của Nhà nước đối với
tội phạm này.

Về đối tượng tác động của tội phạm: BLHS năm 1985 quy định tội
phạm và hình phạt đối với hành vi sản xuất buôn bán hàng giả thuộc mọi lĩnh
vực trong cùng một điều luật. Trong đó hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là
22


lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, phòng bệnh, vật liệu xây dựng, phân
bón, thuốc trừ sâu được quy định là tình tiết định khung tăng nặng được quy
định tại khoản 2, Điều 167 BLHS năm 1985. Hàng giả là thức ăn dùng để
chăn nuôi, thuốc thú ý, thuốc bảo vệ thực vật nói chung và giống vật nuôi cây
trồng là đối tượng của tội sản xuất buôn bán hàng giả, không phải là tình tiết
tăng nặng định khung do tại thời điểm ban hành BLHS năm 1985 tình trạng
sản xuất, buôn bán hàng giả đối với các mặt hàng này về tình trạng, tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội không cao hơn so với các loại hàng giả khác.
Về hình phạt bổ sung: Hình phạt bổ sung đối với tội làm hàng giả, tội
sản xuất hàng giả được quy định trong BLHS năm 1985 cùng với các tội
thuộc nhóm tội về kinh tế. Theo đó, tùy trường hợp người thực hiện hành vi
phạm tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả có thể bị phạt tiền đến mười lần giá
trị hàng phạm pháp hoặc số lợi bất chính, có thể bị tịch thu một phần hoặc
toàn bộ tài sản, có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề
hoặc những công việc nhất định từ hai đến năm năm.
Việc xác định như thế nào là hàng giả, BLHS năm 1985 và pháp luật
tại thời điểm ban hành BLHS năm 1985 đã không quy định về vẫn đề này.
Đến năm 1991, sau gần 6 năm BLHS có hiệu lực định nghĩa hàng giả, các dấu
hiệu nhận biết hàng giả mới được quy định tại Nghị định 140/HĐBT ngày
25/4/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về kiểm tra xử lý việc sản xuất, buôn bán
hàng giả và Thông tư liên bộ số 1254-TTLB ngày 08/11/1991 của Ủy ban
khoa học Nhà nước, Bộ thương mại và du lịch hướng dẫn thực hiện Nghị định
số 140/HĐBT. Theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 140/HĐBT:
Hàng giả theo Nghị định này, là những sản phẩm, hàng hoá

được sản xuất ra trái pháp luật có hình dáng giống như những sản
phẩm, hàng hoá được Nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và
tiêu thụ trên thị trường; hoặc những sản phẩm, hàng hoá không có
giá trị sử dụng đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và
công dụng của nó [15].

23


Tại Điều 4 Nghị định 140/HĐBT quy định:
Sản phẩm, hàng hoá có một trong những dấu hiệu dưới đây
được coi là hàng giả: Sản phẩm, hàng hoá (kể cả hàng nhập khẩu)
có nhãn sản phẩm giả mạo hoặc nhãn sản phẩm của một cơ sở sản
xuất khác mà không được chủ nhãn đồng ý; Sản phẩm, hàng hoá
mang nhãn hiệu hàng hoá giống hệt hoặc tương tự có khả năng làm
cho người tiêu dùng nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của cơ sở sản
xuất, buôn bán khác đã đăng ký với cơ quan bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp (Cục sáng chế), hoặc đã được bảo hộ theo Điều ước
quốc tế mà Việt Nam tham gia; Sản phẩm, hàng hoá mang nhãn
không đúng với nhãn sản phẩm đã đăng ký với cơ quan tiêu chuẩn
đo lường chất lượng; Sản phẩm, hàng hoá ghi dấu phù hợp tiêu
chuẩn Việt Nam khi chưa được cấp giấy chứng nhận và dấu phù
hợp tiêu chuẩn Việt Nam; Sản phẩm, hàng hoá đã đăng ký hoặc
chưa đăng ký chất lượng với cơ quan Tiêu chuẩn Đo lường chất
lượng mà có mức chất lượng thấp hơn mức tối thiểu cho phép; Sản
phẩm, hàng hoá có giá trị sử dụng không đúng với nguồn gốc, bản
chất, tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó [15].
Với quy định này, lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật về phòng chống
hàng giả, định nghĩa hàng giả và các dấu hiệu để nhận biết hàng giả được quy
định. Theo đó, hàng giả gồm hai loại: hàng giả về hình thức và hàng giả về nội

dung. Hàng giả về hình thức là hàng sử dụng nhãn giả, bao bì mang nhãn giả
hoặc sử dụng nhãn của nhà sản xuất khác mà không được phép của nhà sản
xuất đó (bao gồm: nhãn sản phẩm, nhãn hiệu hàng hóa, dấu hiệu phù hợp tiêu
chuẩn chất lượng Việt Nam). Hàng giả về nội dung là hàng không có giá trị sử
dụng hoặc không đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng
của nó, hoặc có mức chất lượng dưới mức tối thiểu do Nhà nước quy định.
Nghị định 140/HĐBT với việc đưa ra định nghĩa hàng giả và các dấu hiệu
nhận biết hàng giả là một bước tiến mới góp phần hoàn thiện pháp luật về

24


phòng, chống hàng giả, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh chống tội
phạm về hàng giả, nguồn bổ sung của pháp luật hình sự về tội phạm hàng giả
và là căn cứ pháp lý cụ thể để các cơ quan tiến hành tố tụng xác định hàng giả.
Bên cạnh đó, BLHS năm 1985 và Nghị định số 140/HĐBT còn bộc lộ
một số hạn chế cả về nội dung và kỹ thuật lập pháp: theo quy định tại Điều
167, BLHS năm 1985 khó có thể phân biệt hành vi sản xuất hàng giả là hành
vi phạm tội với hành vi sản xuất hàng giả là hành vi vi phạm pháp luật khác
do nhà làm luật chưa định lượng hoặc định tính để xác định tính chất và mức
độ nguy hiểm của hành vi như thế nào thì bị coi là tội phạm và phải chịu trách
nhiệm hình sự. Mặc dù, Nghị định 140/HĐBT đã là nguồn bổ sung những
thiếu sót của Điều 167 BLHS năm 1985 về hàng giả lại tồn tại hạn chế là:
Việc quy định "mức chất lượng tối thiểu" giúp phân biệt hàng giả và hàng
kém chất lượng song trên thực tế đây là quy định không khả thi do hầu hết các
sản phẩm hàng hóa của nước ta giai đoạn này chưa có quy định về mức chất
lượng tối thiểu nên việc áp dụng pháp luật gặp không ít khó khăn.
Bộ luật hình sự năm 1985 được xây dựng trên nền tảng các quy định
của Hiến pháp năm 1980 - Bản Hiến pháp mang nặng tư duy của chế độ kế
hoạch hóa tập trung nên mặc dù là một bước phát triển về chất so với pháp

luật hình sự giai đoạn trước song trong bối cảnh đất nước có những chuyển
biến mạnh mẽ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là năm 1986
Đảng ta đã thông qua Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI đổi mới toàn diện
đất nước thì BLHS năm 1985, ngay từ lúc mới ban hành phải đối mặt với
nguy cơ lạc hậu, quy định về tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả được quy
định tại Điều 167 với những phân tích trên đây đến cuối thập niên 90 đã
không còn phù hợp với tình hình tội phạm về hàng giả. Việc xây dựng một bộ
luật mới, trong đó tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả được hoàn thiện phù
hợp với tình hình mới là hết sức cần thiết.

25


×