Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận môn quyền lực chính trị và cầm quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.17 KB, 31 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

TIỂU LUẬN

MÔN: QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ VÀ CẦM QUYỀN

ĐỀ TÀI
CƠ CHẾ ĐẢM BẢO QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ CỦA NHÂN DÂN

Sinh viên thực hiện: Đinh Văn Hòa
Lớp: Chính trị phát triển K37B2
Đơn vị công tác: Chi cục Quản lý đường bộ I.8

Hà Nội - Năm 2019

1


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
CHƯƠNG 1......................................................................................................5
CHƯƠNG 2....................................................................................................14
CHƯƠNG 2....................................................................................................19
KẾT LUẬN....................................................................................................29

2


MỞ ĐẦU


Trong lịch sử xã hội loài người, từ khi đấu tranh giai cấp và đấu tranh
dân tộc dẫn đến ra đời nhà nước, vấn đề quyền lực và kiểm soát quyền lực
luôn được đặt ra. Ngày nay, quyền lực và kiểm soát quyền lực là vấn đề lớn,
phức tạp trong đời sống chính trị và pháp lý của các quốc gia, dân tộc. Quyền
lực là "quyền định đoạt và sức mạnh để đảm bảo sự thực hiện", bao gồm
quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước.
Tại Việt Nam, Nhà nước Việt Nam là nhà nước của Dân, do Dân và vì
Dân. Từ Hiến pháp năm 1946 đến nay đều thống nhất quan điểm đó. Hiến
pháp năm 2013 một lần nữa khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân... do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.
Hiến pháp không chỉ quy định Nhân dân là chủ thể của Nhà nước, tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân mà còn quy định phương cách Nhân
dân thực hiện quyền lực Nhà nước của mình. Điều 6 Hiến pháp 2013 ghi:
"Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân
chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ
quan khác của Nhà nước".
Vì thế cơ chế đảm bảo quyền lực chính trị của Nhân dân cũng là một
trong những nội dung bao trùm trong Hiến pháp là đề cao quyền lực của nhân
dân.
Do đó em chọn đề tài “Cơ chế đảm bảo quyền lực chính trị của nhân
dân”.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của tiểu luận:

3


Đối tượng nghiên cứu là Quyền lực chính trị của nhân dân và cơ chế

đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân.
Phạm vi nghiên cứu: Kiểm soát quyền lực chính trị.
Ý nghĩa thực tiễn của tiểu luận:
Việc nghiên cứu đánh giá cơ chế đảm bảo quyền lực chính trị của nhân
dân rất có ý nghĩa. Việc thực hiện quyền lực và kiểm soát quyền lực có quan
hệ mật thiết với nhau và phải được tiến hành đồng bộ, chặt chẽ; Thực thi
quyền lực và kiểm soát quyền lực một cách đúng đắn, không chỉ phòng ngừa
tiêu cực, lộng quyền, lạm quyền của cán bộ có chức, có quyền, mà còn bảo
đảm cho sự lãnh đạo, quản lý vận hành có hiệu lực, hiệu quả.

4


Chương 1
1.1. Khái niệm quyền lực và quyền lực chính trị là gì
a) Quyền lực là gì?
Quyền lực là một trong những vấn đề cơ bản của chính trị, do vậy đã từ
rất sớm, khi ý thức được các vấn đề chính trị thì người ta cũng đã đề cập đến
vấn đề quyền lực.
Từ thời cổ đại, ở phương Tây Arixtốt đã nghiên cứu vấn đề quyền lực và
xem xét những đặc điểm của nó. Theo ông, quyền lực tồn tại phổ biến trong
mọi sự vật và hiện tượng, không chỉ trong thế giới cảm giác mà cả trong thế
giới vô cảm. Đối với nhà nước và quyền lực nhà nước, ông coi đó như là kết
quả của sự thoả thuận giữa mọi người với nhau dựa trên ý chí chung của họ.
Còn theo Platon, chính trị là nghệ thuật cai trị những con người với sự
bằng lòng của họ. Cơ sở để đảm bảo sự cai trị đó là pháp quan, những nhà
thông thái. ở đây ông đề cao trí tuệ và coi đó như một thứ quyền lực trong
chính trị.
Tuy đã có nhiều quan niệm về quyền lực nhưng cho đến nay vẫn chưa có
một định nghĩa thật sự chính xác, xúc tích, khái quát được vấn đề để mọi

người chấp nhận. Nhà chính trị học Mỹ K.Đanta cho rằng, nắm quyền lực có
nghĩa là buộc người khác phải phục tùng.
Còn nhà chính trị học Mỹ khác - Lesbi lipson - xem quyền lực là khả
năng đạt tới kết quả nhờ hành động phối hợp. Nhà chính trị học A.Gra - zia
cho rằng: “quyền lực là khả năng ấn định những quyết định có ảnh hưởng đến
thái độ của con người” .
Bertrand Russel cho rằng: ta có thể coi quyền lực là sản phẩm của những
hiệu quả có chú ý”. Theo Từ điển Bách khoa Triết học thì “Quyền lực là khả
năng thực hiện ý chí của mình có tác động đến hành vi, phẩm hạnh của người
5


khác nhờ một phương tiện nào đó như kinh tế, chính trị, nhà nước, gia đình,
uy tín, quyền hành, sức mạnh…”.
Gần đây nhà tương lai học người Mỹ Alvin Toffer cho rằng” Bạo lực,
của cải, tri thức là ba dạng phổ biến và cũng là ba phương thức cơ bản để đạt
được quyền lực. Trong ba loại đó, trí tuệ được coi là loại quyền lực có phẩm
chất cao nhất và là phương thức cơ bản để đạt được quyền lực trong tương lai.
Tuy không đi sâu nghiên cứu vấn đề quyền lực và do đó chưa đưa ra một
định nghĩa có tính chất xác định, nhưng từ góc độ duy vật lịch sử, các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập đến vấn đề quyền lực từ trong bản
chất của nó. Đó là, trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm được quyền
kiểm soát tư liệu sản xuất thì giai cấp đó cũng nắm được quyền điều khiển,
chi phối các lĩnh vực cơ bản của xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, tư
tưởng tinh thần.
Cách tiếp cận này là chìa khoá cho ta nghiên cứu vấn đề quyền lực một
cách khoa học và hữu hiệu. Theo giáo sư Lưu Văn Sùng viết trong tập bài
giảng chính trị học “Quyền lực là mối quan hệ giữa các chủ thể hành động
của đời sống xã hội, trong đó chủ thể này có thể chi phối hoặc buộc chủ thể
khác phải phục tùng ý chí của mình nhờ có sức mạnh, vị thế nào đó trong

quan hệ xã hội”.
b) Quyền lực chính trị là gì?
Là một bộ phận của quyền lực trong xã hội có giai cấp. Quyền lực chính
trị cũng là một loại quan hệ xã hội, nhưng đó là quan hệ xã hội có liên quan
tới vấn đề Chính trị. Do vậy, việc làm sáng tỏ phạm trù “Chính trị” là điều cần
thiết để tiến tới một quan điểm đúng đắn về phạm trù “Quyền lực Chính trị”.
Trong tác phẩm “Chính trị”, Platon xem chính trị là nghệ thuật cung đình
liên kết trực tiếp các chuẩn mực của người Anh hùng và sự thông minh, sự

6


liên kết của họ được thực hiện bằng sự thống nhất tư tưởng và tinh thần hữu
ái.
Mac Vây - be cho rằng “Chính trị” là khát vọng tham gia vào quyền lực,
hay ảnh hưởng tới sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia, bên trong quốc
gia, giữa các tập đoàn người trong một quốc gia.
Theo Lênin, quyền lực chính trị là gì? Dựa trên quan điểm duy vật về
lịch sử, V.I.Lênin cho rằng chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp; là sự
tham gia của nhân dân vào công việc của Nhà nước và xã hội, vào định hướng
hoạt động của Nhà nước,…
Lênin cho rằng nhân tố quy định bản chất của chính trị là: “Chính trị là
sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Khi nhấn mạnh tính năng động của chính
trị đối với kinh tế, Lênin viết “Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng
đầu so với kinh tế”.
Từ hiện thực đa dạng và phức tạp của chính trị như một hiện thực trong
xã hội có giai cấp, chúng ta có thể đi tới một quan niệm tổng quát sau đây về
chính trị: “Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc
gia trong vấn đề giành, giữ, sử dụng quyền lực nhà nước; là những mục tiêu
được quy định bởi lợi ích cơ bản của các giai cấp, các đảng phái; là hoạt động

thực tiễn chính trị của các giai cấp, các đảng phái, các nhà nước để thực hiện
đường lối đã lựa chọn nhằm đi tới những mục tiêu đã đặt ra”.
Quan niệm vừa nêu về chính trị quy định cách hiểu phạm trù “Quyền lực
Chính trị”. Nói chung nhất: “Quyền lực Chính trị là quyền lực được sử dụng
sức mạnh của nhà nước nhằm thực hiện lợi ích khách quan của giai cấp, dân
tộc,… trên cơ sở sự thừa nhận của nhà nước bằng luật pháp”.
Trong ý nghĩa đó, quyền lực chính trị là một kiểu quan hệ xã hội có liên
quan tới vấn đề nhà nước. Đó có thể là quan hệ giữa người với người ở nhiều
cấp độ tồn tại, nhiều hình thức tồn tại khác nhau của họ (giai cấp, dân tộc,
7


quốc gia, đoàn thể, đảng phái,…) trong quá trình ảnh hưởng tới nhà nước
nhằm giành, giữ, sử dụng nhà nước vì lợi ích của mình; chính trong ý nghĩa
đó Mác đã xem quyền lực chính trị là “Khả năng của một giai cấp thực hiện
lợi ích khách quan của mình”.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, một khi lợi ích căn bản của giai cấp
này được hiện thực hoá thì lợi ích căn bản của giai cấp khác bị triệt tiêu. Xung
đột giai cấp là điều không tránh khỏi. Quyền lực chính trị đóng vai trò như là
công cụ để giai cấp nắm được nó sẽ thực hiện được lợi ích của mình.
Đó là cơ sở để Mác và Ăngghen nêu ta định nghĩa về Quyền lực chính
trị: “Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó là bạo lực có tổ chức của
một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác”.
Định nghĩa trên đây cũng cho thấy: Quyền lực chính trị của một giai cấp
không tự nhiên mà có, nó là sản phẩm của quá trình phát triển kinh tế và đấu
tranh giai cấp.
Lực lượng sản xuất của xã hội nằm trong quá trình phát triển không
ngừng. Lực lượng sản xuất phát triển đến mức nào đó sẽ đòi hỏi thay đổi quan
hệ sản xuất hiện tồn. Trong phương thức sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu
tư nhân đối với tư liệu sản xuất, quá trình này sẽ sản sinh ra các giai cấp đối

kháng đặc trưng cho phương thức sản xuất đó. Các lực lượng chính trị mới
với tư cách là chủ thể tương ứng của các lợi ích giai cấp đó sẽ xuất hiện.
Sự xung đột quyền lực ngày càng gay gắt giữa các lực lượng chính trị
mới đại diện cho phương thức sản xuất mới với lực lượng chính trị cũ đại diện
cho phương thức sản xuất cũ lạc hậu nhưng còn nắm quyền thống trị. Do xu
hướng tất yếu của nó, lực lượng chính trị mới với yêu cầu Quyền lực chính trị
tương ứng sớm hay muộn nó sẽ vượt lên tự khẳng định chính mình về một
nhà nước. Khi đó, Quyền lực chính trị của lực lượng xã hội mới với tư cách là
đại diện cho một giai cấp sẽ được xác lập.

8


Khi một chủ thể chính trị chưa có đủ sức mạnh để khẳng định Quyền lực
chính trị của mình, chủ thể đó vẫn ngấm ngầm hoặc công khai dùng sức mạnh
nhằm đạt tới sự khẳng định đó. Kết cục, khát vọng đó hoặc bị Quyền lực
chính trị của giai cấp cầm quyền loại bỏ, hoặc là sẽ buộc lực lượng chính trị
cầm quyền thừa nhận về mặt nhà nước.
Do đó, trong chế độ xã hội có đối kháng giai cấp luôn tồn tại hai loại
Quyền lực chính trị thuộc hai chủ thể chính trị đối lập nhau: Quyền lực chính
trị của giai cấp cầm quyền (Thống trị) và Quyền lực chính trị (hay khát vọng
Quyền lực chính trị) của giai cấp, tầng lớp không cầm quyền.
Giai cấp thống trị tổ chức ra bộ máy nhà nước và sử dụng sức mạnh của
bộ máy đó để thực thi ý chí, lợi ích của mình. Khi ấy, Quyền lực chính trị của
giai cấp thống trị trở thành quyền lực nhà nước. Do đó, xét về bản chất quyền
lực nhà nước là quyền lực chính trị của giai cấp thống trị. Nó được thực hiện
bằng cả một hệ thống chuyên chính do giai cấp đó lập ra.
Nhờ hệ thống đó, giai cấp thống trị có khả năng vận dụng các công cụ
bạo lực của nhà nước để buộc các giai cấp, tầng lớp xã hội phục tùng ý chí
của giai cấp thống trị trong việc tổ chức xã hội như một chỉnh thể.

Các giai cấp và tầng lớp không nắm quyền thống trị dùng sức mạnh
chính trị của mình để chống lại hay đòi giai cấp thống trị phải thay đổi trật tự
xã hội, thay đổi các chính sách đã ban hành cho phù hợp với lợi ích của giai
cấp mình.
Trong trường hợp giai cấp bị trị là giai cấp có lợi ích cơ bản đối kháng
với giai cấp thống trị thì họ dùng Quyền lực chính trị của mình để đấu tranh
lật đổ sự thống trị của giai cấp cầm quyền, thiết lập nhà nước của mình, dùng
nhà nước đó để tổ chức lại xã hội theo một trật tự phù hợp với lợi ích của nó.
Khi ấy, Quyền lực chính trị của giai cấp mới giành được quyền thống trị trở
thành quyền lực nhà nước.

9


Như vậy, Quyền lực chính trị là một khái niệm rộng bao hàm cả quyền
lực nhà nước của giai cấp thống trị và bao hàm quyền lực của các giai cấp
khác nhau trong mối quan hệ biện chứng với quyền lực nhà nước để bênh vực
và bảo vệ quyền lợi của mình.
1.2. Quyền lực chính trị tại Việt Nam
Chính trị Việt Nam đi theo nguyên mẫu nhà nước xã hội chủ nghĩa, đơn
đảng, Nhà nước của ta là nhà nước của Dân, do Dân và vì Dân. Từ Hiến pháp
năm 1946 đến nay đều thống nhất quan điểm đó. Hiến pháp năm 2013 một lần
nữa khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân... do
Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức”.
Hiến pháp không chỉ quy định Nhân dân là chủ thể của Nhà nước, tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân mà còn quy định phương cách Nhân
dân thực hiện quyền lực Nhà nước của mình. Điều 6 Hiến pháp 2013 ghi:

"Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân
chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ
quan khác của Nhà nước".
Dân chủ trực tiếp là việc Nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà
nước. Tức là Nhân dân thể hiện một cách trực tiếp ý chí của mình (với tư cách
là chủ thể quyền lực nhà nước) về một vấn đề nào đó mà không cần thông qua
cá nhân hay tổ chức thay mặt mình và ý chí đó có ý nghĩa bắt buộc phải thi
hành. Hình thức biểu hiện cụ thể của dân chủ trực tiếp như ứng cử, bầu cử
Quốc hội, HĐND, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, trưng cầu dân ý... Các
cuộc đối thoại trực tiếp của nhân dân với cơ quan Nhà nước hiện nay cũng là
hình thức biểu hiện của dân chủ trực tiếp.

10


Ưu điểm của hình thức dân chủ trực tiếp là Nhân dân trực tiếp quyết
định, phản ảnh đúng ý chí, nguyện vọng của mình nhưng hạn chế của hình
thức này là nhhững vấn đề mà Nhân dân trực tiếp quyết định không nhiều vì
điều kiện không cho phép.
Dân chủ trực tiếp được mở rộng đến đâu còn phụ thuộc vào điều kiện
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, trình độ dân trí, nhận thức chính trị, trình
độ pháp lý của nhân dân...của một nước. Ở nước ta do trải qua cuộc chiến
tranh kéo dài và hiện nay đang trong quá trình xây dựng nên dân chủ trực tiếp
trên thực tế mới thực hiện mức độ nhất định. Hiến pháp năm 1946, tại Ðiều
21 có quy định: "Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc
có quan hệ đến vận mệnh quốc gia..." và Ðiều 32 quy định: "Những việc có
quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần
ba số nghị viên đồng ý...". Các Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và 2013 đều có
đề cập đến việc trưng cầu dân ý. Tuy nhiên đến nay chúng ta chưa tổ chức
được cuộc trưng cầu dân ý nào.

Nhận thức được hạn chế nói trên nên điều 6 Hiến pháp năm 2013 đã sửa
đổi so với điều 6 của Hiến pháp năm 1992, quy định rõ hơn các phương cách
Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước, không chỉ bằng dân chủ đại diện
thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân mà còn bằng các hình thức dân chủ
trực tiếp. (Điều 6 Hiến pháp năm 1992 quy định: Nhân dân sử dụng quyền
lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là các cơ quan đại
diện cho ý chí và nguyện vọng của Nhân dân, do Nhân dân bầu ra và chịu
trách nhiệm trước Nhân dân). Để hiện thực hóa quy định nói trên, và rút kinh
nghiệm trước đây do thiếu cơ chế cụ thể nên quy định của Hiến pháp về
Trưng cầu dân ý - Một nội dung của dân chủ trực tiếp - chưa được thực hiện.
Lần này, sau khi có Hiến pháp năm 2013 Quốc hội khóa XIII đã đưa vào
chương trình xây dựng pháp luật, đã giao cho các cơ quan chuẩn bị xây dựng

11


dự án luật trưng cầu dân ý và dự kiến sẽ trình ra Quốc hội khóa XIII tại kỳ
họp giữa năm 2015.
Dân chủ đại diện là hình thức Nhân dân thông qua các cơ quan nhà nước,
các cá nhân được Nhân dân ủy quyền để thực hiện ý chí của Nhân dân. Dân
chủ đại diện là phương thức chủ yếu để thực hiện quyền lực nhân dân. Dân
chủ đại diện có ưu điểm là với hình thức này chúng ta quản lý được mọi mặt
đời sống xã hội, nhưng có hạn chế là ý chí, nguỵen vọng của người dân phải
qua trung gian của ngừoi đại diện, có thể bị méo mó bởi nhiều lý do như trình
độ nhận thức, quan điểm, lợi ích...
Khi nói đến tính đại diện người ta hay nghĩ đến các cơ quan dân cử, theo
tôi điều đó đúng nhưng chưa đủ. Quyền lực nhà nước bao gồm quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Khi nói quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
thì chúng ta hiểu quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp là thuộc
về nhân dân. Như nói ở trên, do điều kiện không cho phép nên số lượng vấn

đề nhân dân quyết định trực tiếp không nhiều, bởi vậy nhân dân lập ra và trao
quyền cho các cơ quan nhà nước để thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực
của mình; các cơ quan này phải chịu sự giám sát của nhân dân và chỉ được
thực hiện quyền lực trong giới hạn cho phép. Như vậy, cơ quan được nhân
dân ủy quyền không chỉ là cơ quan dân cử mà bao gồm cả cơ quan hành pháp
và tư pháp, khi hoạt động các cơ quan này với tư cách là nhân dân, đại diện
nhân dân để thực thi nhiệm vụ. Nhận thức điều này có ý nghĩa trong thực tế là
các cơ quan nhà nước kể cả lập pháp, hành pháp và tư pháp phải thấy rằng
quyền mà các cơ quan này có được là do nhân dân trao, phải chịu trách nhiệm
trước nhân dân. Không chỉ có Quốc hội, HĐND các cấp lắng nghe ý kiến
nhân dân khi ban hành luật, nghị quyết, mà các cơ quan hành pháp, tư pháp
cũng phải thu thập, lắng nghe ý kiến nhân dân trong quá trình thực thi nhiệm
vụ của mình.

12


Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là hai hình thức cơ bản để thực
hiện quyền lực của nhân dân, đều có vai trò quan trọng trong nền dân chủ.
Nền dân chủ phát triển thì dân chủ trực tiếp được mở rộng, ngược lại đẩy
mạnh thực hiện dân chủ trực tiếp thì sẽ thúc đẩy nền dân chủ phát triển. Để
Nhân dân thực sự là chủ thể của Nhà nước thì phải thực hiện tốt cả dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện. Trưng cầu dân ý, một nội dung quan trọng của
hình thức dân chủ trực tiếp phải được luật hóa, trong đó quy định những việc
gì phải do nhân dân bàn và quyết định, quy định rõ trình tự, thủ tục, cách
thức tiến hành... Các cơ quan được Nhân dân trao quyền phải thực hiện tròn
trách nhiệm của mình. Các đại biểu Quốc hôi, HĐND phải thường xuyên tiếp
xúc với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân. Quốc hội và HĐND các cấp
khi quyết định một vấn đề nào đó phải phù hợp với ý chí, nguyện vọng của
nhân dân. Các cơ quan hành chính và tư pháp từ trung ương xuống địa

phương, người có thẩm quyền trong các cơ quan đó phải tận tụy phục vụ nhân
dân, tiến hành cải cách hành chính để tạo thuân lợi cho nhân dân, không được
cửa quyền hách dịch với nhân dân.

13


Chương 2
2.1. Cơ chế thực thi quyền lực của nhân dân
Trong thực tiễn đời sống xã hội, việc thực thi quyền lực của nhân dân
một cách hiệu quả và bảo đảm nhất là thực hiện tốt quy chế “Đảng lãnh đạo,
nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý”. Cơ chế đó xuất phát từ yêu cầu thể chế
hóa những quan hệ bản chất về chính trị, xã hội phù hợp với đặc điểm của
nước ta; đồng thời cũng là sự thể hiện sinh động việc thực thi quan điểm
xuyên suốt của Hiến pháp. Cơ chế này phân định rõ, trong xã hội ta, mọi
quyền lực thuộc về nhân dân. Quyền lực của nhân dân là tuyệt đối không thể
so sánh, không thể phân chia. Quyền hạn của Nhà nước là sự thể hiện tập
trung quyền lực của nhân dân. Quyền lực của Đảng thể hiện ở sự định hướng
và lãnh đạo tổ chức thực hiện.
Theo cơ chế này, “nhân dân làm chủ” phải là nhân tố bao trùm, Đảng và
Nhà nước không nằm ngoài phạm vi nhân dân. Có nghĩa là nội dung “nhân
dân làm chủ” hiện nay luôn luôn bao hàm và luôn đồng hành với “Đảng lãnh
đạo” và “Nhà nước quản lý”. Không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước khỏi quyền làm chủ của nhân dân. Quyền lực của nhân
dân là quyền lực của chủ nhân đất nước và việc thực hiện quyền lực đó có sự
phối hợp hài hòa với “Đảng lãnh đạo” và “Nhà nước quản lý”.
Để thực hiện đúng nguyên tắc “mọi nguồn lực trong xã hội và của Nhà
nước đều thuộc về nhân dân” trong khi thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo,
Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý”, cần bảo đảm những điều kiện vật chất
- văn hóa - xã hội ở một trình độ phát triển nhất định và phải nâng tầm dân trí.

Đó chính là việc bảo đảm sao cho đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
không ngừng được cải thiện, an sinh xã hội bền vững, nhân dân mọi vùng,
mọi miền đều được quan tâm, các dân tộc đều được bình đẳng. Trình độ dân
trí thể hiện ở sự hiểu biết, tôn trọng pháp luật, kỷ cương, hiểu biết về quy luật
14


phát triển của tự nhiên, xã hội, hiểu biết về thời cuộc và nhiệm vụ, trách
nhiệm của mình với xã hội.
2.2. Kiểm soát quyền lực
Tất cả quyền lực là thuộc về Nhân dân và Nhân dân là chủ thể kiểm soát
quyền lực, vì vậy để phòng, chống sự tha hóa quyền lực, để kiểm soát quyền
lực, thì Nhân dân phải thực sự làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, làm chủ bản
thân mình. Nhân dân phải thực sự tham gia vào quá trình quản lý đất nước,
tham gia quản lý xã hội, tham gia quản lý nhà nước, tham gia quản lý, điều
hành quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quá trình phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng… của đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao
nhiêu quyền hạn đều của dân”. Bao nhiêu quyền hạn, quyền lực đều thuộc về
Nhân dân, do vậy mà có quyền Nhân dân trực tiếp làm, trực tiếp thực hiện; có
quyền Nhân dân giao hay ủy quyền cho một tổ chức hay một nhóm người,
thậm chí cho một người thực hiện. Và khi đã giao, đã ủy quyền thì Nhân dân
phải kiểm tra, kiểm soát, giám sát xem tổ chức, nhóm người, cá nhân được
giao quyền, ủy quyền có thực hiện đúng, đầy đủ, nghiêm túc chức năng,
quyền hạn, nhiệm vụ được giao không hay lại lạm quyền, lộng quyền, lợi
dụng quyền lực vì mục đích cá nhân, vì “lợi ích nhóm”. Nhân dân giao quyền,
ủy quyền cho các tổ chức trong hệ thống chính trị thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công và có sự phối hợp để thực hiện mục
tiêu chung là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, trong đó có bộ
máy nhà nước ta.

Khi nói về Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Nhà nước ta là
Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Người dạy “Việc gì lợi
cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh. Chúng
ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới kính ta, yêu ta.” Nhân dân giao quyền
cho bộ máy nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
15


theo nguyên tắc có sự phân công và phối hợp để bảo đảm tất cả quyền lực
thuộc về Nhân dân và Nhân dân kiểm soát việc thực thi quyền lực của bộ máy
nhà nước. Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm đến cá nhân người cán bộ khi được
trao quyền lực, Người cho rằng: cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Sau khi
có đường lối đúng thì khâu quyết định là lựa chọn đúng cán bộ. Người căn
dặn: Cán bộ là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân.
Người cho rằng: “đức” là cái gốc của cán bộ. Để chống lại tình trạng lạm
quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân, Người đòi hỏi các
cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và cán bộ phải chịu sự kiểm tra, giám
sát của Nhân dân và sự kiểm tra, giám sát của tổ chức Đảng. Người nhắc nhở:
“Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không
giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của
dân…”. Vì vậy, cần phải “quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của
người lãnh đạo và bảy tỏ cách sửa chữa sai lầm đó”, “cán bộ muốn cho xứng
đáng, phải làm được việc”. Theo Hồ Chí Minh, cơ chế kiểm soát quyền lực
đối với bộ máy nhà nước, chính là kiểm soát “cán bộ”: “công việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Kiểm soát quyền lực thông qua việc thực thi thực chất, đầy đủ và rộng
rãi quyền làm chủ của Nhân dân, cả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân
chủ tham dự; thực hiện nghiêm phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, giám sát”; thông qua chế độ tranh cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán
bộ lãnh đạo, quản lý công khai, minh bạch; thông qua chế độ thực sự công

khai, minh bạch mọi công việc của đất nước, của Nhân dân phải rất coi trọng
chế độ công khai, minh bạch: công khai, minh bạch chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của tất cả các tổ chức, các cơ quan, đơn vị, của tất cả các cá nhân
từ người giữ cương vị cao nhất đến cán bộ, công chức, viên chức để Nhân dân
kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện; công khai, minh bạch thông tin
và trách nhiệm giải trình của các tổ chức và cá nhân được trao quyền lực;
thông qua việc kiểm tra, giám sát của các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn
16


thể, của Nhân dân, của công luận; thông qua việc tự do tư tưởng, tự do ngôn
luận để Nhân dân thể hiện chính kiến của mình tham gia xây dựng Đảng, xây
dựng Nhà nước, xây dựng hệ thống chính trị; Nhân dân tham gia xây dựng đất
nước, làm chủ đất nước. Muốn vậy, phải nâng cao trình độ dân trí, Nhân dân
phải vươn lên làm chủ thực sự mọi công việc của đất nước. Đại hội XII của
Đảng chỉ rõ “tiếp tục phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính
đáng của Nhân dân, được Nhân dân tham gia ý kiến”. Nhân dân có quyền chất
vấn, yêu cầu cơ quan nhà nước phải giải trình, có quyền phản đối những việc
làm sai trái, có quyền yêu cầu cán bộ không đủ tư cách phải từ chức hoặc bị
cách chức… Khuyến khích công luận lên tiếng phê phán, phản đối những việc
sai trái để tăng sức đề kháng của cơ thể xã hội… Phát huy mạnh mẽ, chủ
động, tích cực sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn dân vào
việc kiểm soát quyền lực. Xây dựng và thực thi cơ chế, chế tài đủ mạnh để
các tổ chức bộ máy, các nhóm người, các cá nhân được giao quyền lực phải
thực hiện đúng, đầy đủ, có trách nhiệm chức trách, nhiệm vụ được giao,
không dám - không thể - không muốn lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền
lực vì mục đích, lợi ích cá nhân. Cuộc đấu tranh phòng, chống tha hóa quyền
lực, kiểm soát quyền lực đòi hỏi quyết tâm chính trị cao của toàn Đảng, toàn

dân, toàn quân, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng, theo phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân
dân làm chủ” tạo ra sức mạnh tổng hợp để thực hiện có hiệu quả cao nhất.
Kiểm soát quyền lực phải trên cơ sở kết hợp giữa xây và chống, lấy xây
là chính, chống phải kiên quyết, nghiêm minh và lấy chống để xây. Kiểm soát
quyền lực không có “vùng cấm”, không loại trừ bất cứ đối tượng nào, ở bất
kỳ cấp nào, giữ bất kỳ cương vị nào: Nếu lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng
quyền lực vì lợi ích cá nhân, tham nhũng, “lợi ích nhóm” đều phải được kiểm
tra, thanh tra, điều tra, xem xét, kết luận và xử lý nghiêm minh theo kỷ luật
17


của Đảng và xử lý nghiêm hoặc truy tố theo pháp luật của Nhà nước. Bổ sung,
hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước để có cơ chế kiểm
soát quyền lực chặt chẽ và có chế tài xử lý nghiêm minh những tổ chức,
những cá nhân lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì mục đích vì lợi
ích cá nhân, vì “lợi ích nhóm”. Phải quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên, nhất
là cán bộ lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là người đứng đầu, không để xảy ra tình
trạng tha hóa quyền lực, tham nhũng, “lợi ích nhóm”. Để kiểm soát quyền lực
thực sự có hiệu quả đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người có chức, có
quyền phải tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu để trở thành người thực sự có “tâm”,
có “tầm”, vượt lên chính mình, vượt lên ma lực cám dỗ của quyền lực, của
đồng tiền. Thực tế đã chỉ ra rằng: Khi được trao quyền lực thì luôn có xu
hướng tha hóa quyền lực. Có người khi chưa được trao quyền lực thì là người
rất tốt, nhưng khi được trao quyền lực lại thay đổi bản chất rất nhanh, chỉ sau
một lần bỏ phiếu, sau một lần được bổ nhiệm… người đó đã ra dáng “quan
cách mạng”, dần trở nên tha hóa, hư hỏng, trở thành người xấu vì lợi ích thấp
hèn của cá nhân, của “nhóm lợi ích”. Khi được trao quyền lực cũng là lúc bắt
đầu đánh mất dần chính bản thân mình, đánh mất bản chất tốt đẹp, chân chính
trước đó. Trên đỉnh cao quyền lực, ít người để ý, nhìn thấy tai họa ẩn chứa từ

bên trong quyền lực ấy, nếu không phải là người lãnh đạo có nhân cách lớn,
minh triết, uyên thâm, suốt đời vì dân vì nước.
Do vậy, việc kiểm soát quyền lực trước tiên thuộc về cơ chế tự kiểm soát
của mỗi cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Họ phải tự thấy rõ đó là quyền
lực của Nhân dân, Nhân dân trao cho họ, ủy quyền cho họ thực hiện vì mục
đích chung, vì lợi ích của Nhân dân; không phải là quyền lực riêng của họ,
nên họ phải thực hiện đúng, đủ quyền lực, thực hiện đúng, hiệu quả chức
trách, nhiệm vụ được trao, không được lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng
quyền lực vì lợi ích cá nhân. Vì vậy, cán bộ và công tác cán bộ là công việc
hết sức hệ trọng, quyết định sự thành - bại của sự nghiệp cách mạng của Nhân
dân ta, của Đảng ta.
18


Chương 2
3.1. Quyền lực và kiểm soát quyền lực trong cơ chế “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta khẳng
định: “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý thành cơ chế
chung trong quản lý toàn bộ xã hội”. Cơ chế này phản ánh và giải quyết các
mối quan hệ cốt lõi của xã hội Việt Nam. Vì vậy, Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
nhấn mạnh “phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan
hệ lớn:...; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.”.
Đây là một cơ chế, giải quyết ba mối quan hệ chính trị cơ bản nhất ở Việt
Nam hiện nay, đó là quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, nhằm giải
quyết những vấn đề bản chất nhất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng
ta xây dựng. Có thể nói đây là vấn đề của mọi vấn đề. Để cho cơ chế này hoạt
động tốt, có hiệu quả, thì vừa phải tạo ra động lực cho từng nhân tố và phối
hợp hoạt động nhịp nhàng giữa ba nhân tố, vừa phải kiểm soát quyền lực

trong từng nhân tố nói riêng và kiểm soát lẫn nhau trong tổng thể nói chung.
3.2. Kiểm soát quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Quyền lực của
Đảng là quyền lực chính trị, là quyền lực của một tổ chức chính trị “đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc”, là “Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong
của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam” (Điều 4, Hiến pháp năm
2013). Đảng thực thi quyền lực chính trị của các giai cấp, tầng lớp, lực lượng
xã hội mà mình đại diện bằng cách tác động vào Nhà nước, để thông qua Nhà
nước, bằng Nhà nước, hiện thực hóa quyền, lợi ích và ý chí của lực lượng xã
hội mà mình đại diện.
19


Từ khi ra đời cho đến nay, nhờ các yếu tố khách quan và năng lực chủ
quan, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn là lực lượng lãnh đạo cách mạng.
Đặc biệt, trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, chỉ có một đảng chính
trị, nên Đảng Cộng sản Việt Nam vừa có vai trò lãnh đạo, vừa có vai trò cầm
quyền. Đảng một lúc phải thực thi hai loại quyền lực, quyền lực chính trị
(lãnh đạo) và quyền lực nhà nước (cầm quyền).
Quyền lực lãnh đạo, có thể không chính thức, chỉ được thừa nhận bởi
nhân dân, như trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền; cũng có thể chính
thức, được chế định trong Hiến pháp. Nhưng dù chính thức hay không chính
thức, đặc trưng của quyền lực lãnh đạo được thực thi bằng sự ảnh hưởng, sự
hấp dẫn và tính tiên phong, gương mẫu của người lãnh đạo, nó không có bộ
máy cưỡng chế để áp đặt ý chí của người lãnh đạo. Đảng lãnh đạo bằng tính
tiên phong, bằng sự hấp dẫn của lý tưởng và giá trị mà Đảng theo đuổi, thể
hiện trong cương lĩnh, đường lối, chủ trương, bằng sự vận động, thuyết phục
quần chúng nhân dân qua những tấm gương chiến đấu hy sinh của đảng viên.
Đảng phải thể hiện “là đạo đức, là văn minh”, là “không có mục đích nào

khác, ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân”.
Kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng được chế định bởi Hiến pháp và
bằng các phương thức khác nhau. Cụ thể như sau:
Một là, giới hạn quyền lực của Đảng, được chế định trong Hiến pháp
năm 2013 (Điều 4), bởi hai nội dung: Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam “là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Như vậy, Đảng là một chủ thể lãnh
đạo, thực thi quyền lực chính trị của giai cấp mà nó đại diện, chứ không phải
là một chủ thể thực thi quyền lực nhà nước, mặc dù đối với Đảng Cộng sản
Việt Nam, một đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền, có vai trò quyết định
trong quá trình tổ chức ra Nhà nước và thực thi quyền lực nhà nước (chúng ta
sẽ bàn tới sau). Giới hạn quyền lực của Đảng là “lực lượng lãnh đạo”, có
nghĩa Đảng không phải là Nhà nước, không làm thay Nhà nước, không ra các
20


văn bản quy phạm pháp luật như Nhà nước. Cương lĩnh, đường lối, chủ
trương của Đảng, dù trong thực tế có tác động lớn đến đâu, cũng không phải
là văn bản quy phạm pháp luật, tức không có bộ máy cưỡng chế hợp pháp đi
kèm đằng sau những văn bản đó, chúng tác động đến xã hội thông qua thể chế
hóa, hoạt động tuyên truyền, vận động, tổ chức của Đảng, thông qua tính
đúng đắn và sức hấp dẫn của cương lĩnh, đường lối, chủ trương đó. Thứ hai,
“Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Nội dung này đặt Đảng bình đẳng
trước pháp luật như mọi đối tượng điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Đảng
được làm những gì mà pháp luật không cấm, nhưng không thể vượt qua được
khung khổ pháp luật quốc gia. Nội dung Điều 4 Hiến pháp năm 2013 còn quy
định thêm, “Đảng chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân
dân về những quyết định của mình”.
Hai là, nhân dân thực hiện quyền giám sát hoạt động của Đảng theo các
tiêu chí cụ thể được ghi trong Cương lĩnh và trong Điều 4, Hiến pháp 2013.

Nhân dân giám sát Đảng, từ sự gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân
dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình, cho đến
các hành vi vi phạm pháp luật. Ngoài ra, việc kiểm soát quyền lực lãnh đạo
của Đảng còn được thực hiện với các hình thức giám sát, phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của các tổ chức chính trị - xã hội... Các hình thức
kiểm soát này đều được chế định trong Hiến pháp, các văn bản luật và Điều lệ
Đảng.
Ba là, Đảng thực hiện cơ chế “tự kiểm soát” bằng các hình thức sinh
hoạt đảng, như tự phê bình và phê bình, kỷ luật đảng, hoạt động kiểm tra giám sát của các tổ chức đảng từ chi bộ đến Trung ương theo Điều lệ Đảng.
Bốn là, kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng còn thực hiện bởi việc
đánh giá hiệu quả lãnh đạo theo vai trò lãnh đạo được chế định bởi Hiến pháp.
Đánh giá hiệu quả lãnh đạo của Đảng dựa trên ba tiêu chí cơ bản: 1- Mức độ
21


thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng đề ra; 2- Niềm tin của nhân dân đối
với sự lãnh đạo của Đảng; 3- Những giá trị tiến bộ mà Đảng mang đến cho
nhân dân, cho đất nước, cho dân tộc.
Như vậy, chủ thể quan trọng nhất trong kiểm soát quyền lực lãnh đạo của
Đảng là nhân dân. Công cụ kiểm soát mạnh mẽ nhất hiện nay là chế định của
Hiến pháp. Vì vậy, cần có nhận thức đầy đủ, rõ ràng về các chế định của Hiến
pháp về vai trò lãnh đạo của Đảng; về giám sát của nhân dân đối với cán bộ,
đảng viên; về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
khung khổ pháp luật, về giám sát nội bộ Đảng... nhờ đó mà việc kiểm soát
quyền lực lãnh đạo của Đảng trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ” sẽ đạt hiệu quả mong muốn.
“Chế tài” quan trọng nhất đối với kiểm soát quyền lãnh đạo của Đảng là
lòng tin của nhân dân, của những người đi theo Đảng. Mất lòng tin của nhân
dân đối với Đảng sẽ dẫn đến nguy cơ mất vai trò lãnh đạo và sẽ mất quyền
lãnh đạo của Đảng, dù quyền đó có thể được chế định bằng những hình thức

pháp lý.
3.3. Kiểm soát quyền lực nhà nước
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân (Điều 2, Hiến pháp
năm 2013). Chế định của Hiến pháp nước ta đã nói lên vấn đề có tính nguyên
lý của mọi nền dân chủ, mà Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Nguồn gốc
quyền lực nhà nước là từ nhân dân. Bản thân Nhà nước, cơ quan nhà nước,
công chức, viên chức nhà nước không tự nhiên phát sinh ra quyền lực, mà chỉ
nhận sự ủy quyền của nhân dân, thay mặt nhân dân thực thi quyền lực của
nhân dân mà thôi.

22


3.3.1. Bầu cử là phương thức kiểm soát quyền lực quan trọng nhất
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức thông
qua bầu cử dân chủ, nhận sự ủy quyền có điều kiện và có thời hạn của nhân
dân, thực thi quyền lực nhà nước của nhân dân. Đây là hình thức kiểm soát
quyền lực nhà nước quan trọng nhất, bởi vì bầu cử vào các cơ quan quyền lực
nhà nước liên quan đến quyền dân chủ của nhân dân và quyền lãnh đạo của
Đảng. Người dân phải có quyền, trách nhiệm và điều kiện để lựa chọn những
người gắn bó, có trách nhiệm với vận mệnh của nhân dân. Sau khi đã bầu,
người dân còn dùng quyền giám sát và quyền bãi miễn để có thể không bầu
lại trong nhiệm kỳ tới hoặc thu hồi lại quyền lực khi người đại diện không còn
xứng đáng. Trong lúc đó, với tư cách là đảng chính trị, đảng cầm quyền, Đảng
lựa chọn đảng viên giới thiệu ra ứng cử, cho nhân dân bầu. Như vậy, một đại
biểu được bầu phải đáp ứng được sự tín nhiệm của nhân dân và của Đảng.
Đảng và dân đều thực hiện sự giám sát của mình với các vị đại diện đó.
Vấn đề ở chỗ, bầu cử phải thực sự dân chủ, không hình thức. Quy trình
bầu cử chủ yếu phải dựa vào nhân dân, xuất phát từ nhân dân, coi trọng sự tín

nhiệm của nhân dân chứ không đơn thuần chỉ là một hình thức hợp pháp hóa
“quy trình” nhân sự của Đảng. Đảng nên coi trọng sử dụng những người mà
người dân thấy xứng đáng nhất, đáng tin cậy nhất và đưa người đó vào các vị
trí trong bộ máy nhà nước. Việc Đảng trở thành đảng duy nhất cầm quyền,
mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý đặt ra vấn đề
kiểm soát quyền lực nhà nước trở thành một nhiệm vụ kép và có ý nghĩa kép:
Đảng vừa thực hiện quyền lực lãnh đạo, vừa kiểm soát quyền lực nhà nước,
nhân dân vừa kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng, vừa kiểm soát quyền
lực nhà nước.
Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước dù chặt chẽ đến mức “hóa thân”
vào nhau, nhưng vấn đề đặt ra là không Đảng hóa Nhà nước và không Nhà
nước hóa Đảng. Không để “nhầm lẫn” giữa quyền lực của Đảng và quyền lực
23


Nhà nước, không để Đảng trùm lên Nhà nước hay Nhà nước trùm lên Đảng.
Nếu xẩy ra tình trạng đó, hệ thống quyền lực sẽ bị rối loạn, tê liệt, mặc dù
nhìn bên ngoài có vẻ rất tiện dụng. Kinh nghiệm của lịch sử chính trị thế giới,
của mô hình nhà nước xô-viết đã chứng minh điều đó. Khi một nhóm nào to
phình lên trùm lợp tất cả các nhóm khác, ta sẽ không có được tổng số của
nhiều sự khác biệt nhỏ, mà chỉ có một sự khác biệt duy nhất, lúc đó sẽ không
còn ý chí chung nữa, và ý kiến quyết định chỉ là ý chí riêng.
3.3.2. Giới hạn quyền lực nhà nước bằng Hiến pháp
Nguyên lý của giới hạn quyền lực nhà nước là nhà nước chỉ được làm
những gì mà pháp luật cho phép. Ở Việt Nam hiện nay, “Nhà nước được tổ
chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến
pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. (Điều 8, Hiến
pháp năm 2013).
Ở nước ta, tất cả các chế định của Hiến pháp đều cho thấy, Nhà nước
được tổ chức theo khuynh hướng tập quyền, thực hiện chức năng công quyền.

Như vậy, Nhà nước Việt Nam đã tách chức năng quản lý nhà nước ra khỏi các
chức năng sản xuất, kinh doanh, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, tránh can
thiệp sâu vào các quyền riêng tư cá nhân. Việc Hiến pháp giới hạn quyền lực
nhà nước như vậy là một bước tiến so với mô hình tập trung quan liêu bao cấp
trước đây, khi Nhà nước còn có thể trực tiếp tham gia sản xuất, kinh doanh,
hoặc đồng nhất các đơn vị sản xuất, kinh doanh, văn hóa nghệ thuật, y tế, giáo
dục với các cơ quan nhà nước, như là các cơ quan công quyền. Nhà nước có
thể bảo trợ các đơn vị đó, nhưng không nên biến các cơ sở đó thành cơ quan
nhà nước. Hệ lụy nhà nước hóa xã hội vẫn còn trầm trọng cho đến ngày nay.
Nhà nước không thể là doanh nghiệp đi tìm kiếm lợi nhuận, hay đi biểu diễn
nghệ thuật. Tuy nhiên, không loại trừ việc Nhà nước thành lập một số cơ sở
phi lợi nhuận để phục vụ trực tiếp cho việc thực hiện chức năng quản lý. Điều
đó phù hợp với tổ chức nhà nước từ xưa tới nay trên thế giới.
24


Quan trọng hơn hết, các chế định mới của Hiến pháp tạo điều kiện để
kiểm soát quyền lực nhà nước, để cắt bớt những “chiếc vòi bạch tuộc” của các
“quan chức” quan liêu hằng ngày hằng giờ tiêu tiền ngân sách, gây nhũng
nhiễu cho doanh nghiệp và người dân, can thiệp vào mọi mặt sinh hoạt của
đời sống xã hội để làm lợi cho riêng mình.
3.3.3. Kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước
Một trong những phương thức quan trọng để kiểm soát quyền lực nhà
nước là tổ chức bộ máy nhà nước sao cho các cơ quan quyền lực nhà nước,
hoặc thực thi quyền lực nhà nước vừa thống nhất phối hợp hành động, vừa
kiểm soát lẫn nhau để không một cơ quan nào có thể lạm quyền. Qua một quá
trình đổi mới lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn, chúng ta đã đưa phạm trù
kiểm soát quyền lực vào nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước và được hiến
định. Ở nước ta, “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập

pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2, khoản 3, Hiến pháp năm 2013).
Sự tiến bộ trong nhận thức về kiểm soát quyền lực đã bắt đầu phát huy
tác dụng nhất định trong thực tiễn. Tuy nhiên, chúng ta cũng “chưa chế định
rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà
nước ở các cấp. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản
trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, như Quốc hội, Chủ tịch
nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu
lực, hiệu quả”.
Để kiểm soát được quyền lực nhà nước, việc tách rõ về kỹ thuật (chứ
không phải chính trị) giữa chức năng lập pháp và hành pháp rất quan trọng. Ở
nước ta, Quốc hội “Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến
pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch
nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước
25


×