Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (877.02 KB, 94 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN
KHOA
HỌC
XÃ HỘI
VIỆN
HÀN
LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ MINH
HOÀNG
NGUYỄN
THỊ
KIM NGA

DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG TỪ THỰC

TIỄN QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành : Công tác xã hội
Mã số

: 876 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan


kết quả
nghiên DẪN
cứu trong
luậnHỌC:
văn Thạc sĩ Công tác
NGƢỜI
HƢỚNG
KHOA
TS. NGUYỄN HIỆP THƢƠNG

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới
sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Hiệp Thương. Các số liệu, những kết luận
nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên

Nguyễn Thị Kim Nga


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 5
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI
TRONG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT VẬN
ĐỘNG.......................................................................................................................13
1.1.Khái niệm công cụ ........................................................................................... 13
1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu ............................................................ 19

1.3. Lý luận về dịch vụ công tác xã hội trong giải quyết việc làm với người
khuyết tật vận động. ............................................................................................ 211
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG TẠI
QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................ 322
2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ....................................................................... 322
2.2.Thực trạng việc làm người khuyết tật vận động tại quận Hai Bà Trưng....... 333
2.3. Nhu cầu việc làm người khuyết tật vận động tại quận Hai Bà Trưng ............ 39
2.4. Thực trạng dịch vụ công tác xã hội và các yếu tố ảnh hưởng trong việc hỗ trợ
giải quyết việc làm cho người khuyết tật vận động tại quận Hai Bà Trưng. ...... 444
Chƣơng 3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG DỊCH VỤ
CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM ĐỐI VỚI NGƢỜI
KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN QUẬN HAI BÀ TRƢNG, TP
HÀ NỘI .................................................................................................................... 65
3.1. Các giải pháp về cơ chế quản lý và ban hành, thực thi chính sách hỗ trợ giải
quyết việc làm cho người khuyết tật vận động...................................................... 65
3.2. Các giải pháp về nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ nhân viên
công tác xã hội làm việc trong các trung tâm cung ứng các dịch vụ công tác xã
hội giải quyết việc làm cho người khuyết tật vận động ........................................ 67
3.3. Các giải pháp truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng .................... 69
3.4. Củng cố và phát triển các mô hình dịch vụ công tác xã hội đối với người
khuyết tật vận động ............................................................................................. 710
3.5. Các giải pháp về đầu tư cơ sở vật chất hạ tầng cho người khuyết
tật vận động..............................................................................................................721
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 76
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 793


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CTXH

Công tác x hội

DVCTXH

Dịch vụ công tác xã hội

NKT

Người khuyết tật

NKT VĐ

Người khuyết tật vận động

HBT

Hai Bà Trưng

NVCTXH

Nhân viên công tác xã hội

Bộ LĐ TB XH

Bộ Lao động, Thương binh và X hội


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng

Nội dung

Trang

biểu
Bảng 1
Biểu đồ
2.1
Bảng
2.2
Biểu đồ
2.3
Bảng
2.4
Biểu đồ
2.5
Biểu đồ
2.6
Biểu đồ
2.7
Biểu đồ
2.8

Mô hình DVCTXH trong tương lai – BLĐTBXH đề xuất

30

Tỷ lệ NKT VĐ có việc làm


33

Kết quả điều tra về thu nhập bình quân /tháng NKT của

35

NKT quận HBT
Lý do NKT VĐ quận HBT chưa có việc làm
Các lĩnh vực công việc mà NKT VĐ Quận Hai Bà Trưng

36

40

hướng tới
Nhu cầu về các dịch vụ hỗ trợ việc làm của NKT VĐ quận

41

HBT
Cơ cấu NKT VĐ quận HBT được tiếp cận với các dịch vụ

45

hỗ trợ việc làm
Mức độ các loại dịch vụ hỗ trợ tiếp cận NKT VĐ quận

47


HBT
Tương quan giữa nhu cầu dịch vụ hỗ trợ giải quyết việc
làm và số NKT VĐ quận HBT được tiếp cận

53


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đề án 32 về phát triển nghề CTXH tại Việt Nam giai đoạn 2010 –
2020, Chính phủ đ nhấn mạnh cần phải chú trọng phát triển các Trung tâm cung
cấp dịch vụ Công tác x hội tại các địa phương .Các trung tâm này có nhiệm vụ
cung cấp các họat động CTXH chuyên nghiệp nhằm giúp đỡ các cá nhân, nhóm,
cộng đồng yếu thế như người nghèo, trẻ em mồ côi, người khuyết tật … Hiện nay,
các dịch vụ CTXH đ dần dần được hình thành và phát triển cùng với sự ra đời của
các mô hình trung tâm dịch vụ CTXH.
Theo kết quả điều tra của UNFPA trong “ Người Khuyết tật tại Việt Nam :
Một số kết quả chủ yếu từ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam 2016” thì trong
số 78,5 triệu người Việt Nam từ 5 tuổi trở lên có 7 triệu người , tương ứng với 7,8%
dân số từ 5 tuổi trở lên là người khuyết tật, trong đó số lượng NKT vận động vào
khoảng 2,9 triệu người, đó là một con số không hề nhỏ [2]. Cộng đồng NKT VĐ
gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống, ngoài những khó khăn do thể chất thì họ
còn gặp nhiều vấn đề về tâm lý hay những rào cản từ sự kì thị và phân biệt đối xử.
Theo số liệu thống kê thì trên toàn quốc, trong số NKT VĐ có khả năng lao động
chỉ có 62% tỷ lệ NKT VĐ tham gia lực lượng lao động và việc làm nhưng chủ yếu
là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
NKT ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn trở ngại trong cuộc sống hàng ngày.
Một trong những khó khăn trong đời sống của họ chính là vấn đề việc làm. Cụ thể
hơn là những nhu cầu việc làm của họ, nhu cầu về các dịch vụ nhằm hỗ trợ, hay
giúp họ tiếp cận với những công việc phù hợp. Chúng ta có thể thấy rằng, cho dù là

ai, là NKT hay người không khuyết tật thì đều có nhu cầu làm việc để nuôi sống
bản thân. Tuy nhiên, bản thân NKT họ lại bị hạn chế bởi điều kiện thể chất trong
khi lao động, đặc biệt là NKT VĐ. NKT VĐ gặp phảt rất nhiều rào cản trong quá
trình học nghề và tìm việc làm phù hợp như sự kỳ thị, sự phân biệt đối xử.
Trên thế giới đ có những mô hình cung cấp dịch vụ việc làm cho NKT, nhất
là NKT VĐ để họ có thể phát huy tối đa năng lực của mình, và họ đ đạt được

1


những thành công nhất định. Tại Việt Nam hiện nay Đảng và Nhà nước đ xây
dựng những chính sách và luật để giúp cho NKT có cơ hội được làm việc, nhưng
thực tế là rất nhiều NKT còn khả năng lao động nhưng không tiếp cận được với các
cơ hội đó. Mặt khác, chưa có nhiều công ty, xí nghiệp tạo điều kiện cho người
khuyết tật những điều kiện làm việc phù hợp . NKT hiện nay hầu hết chưa tiếp cận
được các cơ hội làm việc ổn định tại các công ty xí nghiệp mà chỉ lao đông tại các
cơ sở cho NKT. Giải quyết việc làm cho NKT không chỉ đem lại cho họ một nghề
nghiệp để tự nuôi sống bản thân mà cũng là giúp họ tái hòa nhập cộng đồng. Như
vậy, việc giải quyết nhu cầu việc làm cho NKT nói chung và NKT VĐ hiện nay nói
riêng là rất cần thiết , nhưng các dịch vụ CTXH nhằm trợ giúp NKT tiếp cận với các
cơ hội việc làm còn rất thiếu.
Trong quá trình tình nguyện tại Hội người khuyết tật quận Hai Bà Trưng người
nghiên cứu nhận thấy rằng Quận Hai Bà Trưng là địa bàn khá rộng với 20 phường, đây
là một trong những Quận đi đầu trong việc hỗ trợ, giúp đỡ và kết nối NKT trong các
lĩnh vực cuộc sống trong đó bao hàm cả vấn đề việc làm. Với việc thành lập Hội NKT
vào năm 2008 trên địa bàn Quận với số lượng ban đầu 80 người cho đến nay đ phát
triển lên tới 216 người gồm nhiều dạng khuyết tật khác nhau. Và một trong những
nhiệm vụ mà Hội NKT cũng đề cập đến chính là tổ chức các hoạt động về giáo dục
nghề, tuyên trình chính sách pháp luật, vận động sự giúp đỡ của các doanh nghiệp, các
nhà hảo tâm trong việc hỗ trợ hướng nghiệp, giới thiệu việc làm cho NKT, mà các hoạt

động đó có phần nào mang màu sắc của công tác x hội.
Có thể nói với những hoạt động hiện nay của hội NKT cũng phần nào đáp
ứng và giải quyết một vài nhu cầu việc làm cho NKT. Tuy nhiên có thể nhận thấy
rằng phần đông NKT trong Hội , đặc biệt là những NKT VĐ hầu như chưa có việc
làm và chưa nhận được sự hỗ trợ của các loại hình dịch vụ nào để giải quyết các
nhu cầu việc làm . NKT VĐ mặc dù họ bị suy giảm chức năng các bộ phận trên cơ
thể nhưng họ vẫn có thể làm được các công việc đặc thù cho họ nếu bản thân họ
được giúp đỡ và được hỗ trợ từ các dịch vụ công tác x hội. Mặt khác, như đ nêu ở
phần trên, họ cũng đang rất cần và mong muốn được tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ

2


đó để giải quyết nhu cầu việc làm cho bản thân mình. Chính vì vậy việc tìm hiểu về
các dịch vụ CTXH trong việc giúp NKT VĐ có được việc làm đáp ứng được những
nhu cầu của họ là rất cấp thiết.
Với thực trạng hiện nay, vậy câu hỏi đặt ra rằng thực chất các dịch vụ công tác
xã hội trong vấn đề việc làm đ đến với NKT VĐ hay chưa? Hiệu quả các dịch vụ
đó với NKT VĐ đ thực sự làm họ hài lòng không? Xuất phát từ những lý do trên
người nghiên cứu quyết định nghiên cứu để tìm hiểu về " Dịch vụ Công tác xã hội
xã hội trong giải quyết việc làm cho người khuyết tật vận động từ thực tiễn Quận
Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội “ nhằm đưa ra một cái nhìn khái quát nhất về
vấn đề này, để từ đó có những căn cứ đúng đắn nhằm xây dựng những giải pháp và
đề xuất phù hợp.
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong cuộc sống, con người luôn là trung tâm đóng vai trò hết sức quan
trọng, là nhân tố quyết định trong mọi hoạt động thông qua mối quan hệ giữa
con người với con người, con người và x hội. Các mối quan hệ đó biểu hiện ở
nguyên tắc bình đẳng bất kể con người khác nhau về trí lực, thể lực và các đặc
điểm khác đều có giá trị và tầm quan trọng ngang nhau. Điều này có nghĩa là tất

cả mọi người, cần được đối xử công bằng và có cơ hội bình đẳng để tham gia
các hoạt động x

hội, kể cả thị trường lao động và vấn đề việc làm. Trên thế

giới nói chung và ngay cả Việt Nam, NKT được đề cập rất nhiều trong nghiên cứu
khoa học x hội. Tuy vậy, chúng ta cũng thấy rằng nghiên cứu vấn đề việc làm với
NKT VĐ thì vẫn chưa có nhiều.
Ngiên cứu nước ngoài “ The National Disability Strategy report, Council
of Australian Gorvement 2012” ( Báo cáo chiến lược Quốc Gia về NKT, Hội đồng
chính phủ ÚC, 2012 ) [4]. Chiến lược NKT quốc gia đ đưa ra bản kế hoạch mười
năm để cải thiện cuộc sống cho NKT Úc. Kế hoạch này sử dụng sự đồng bộ và
thống nhất của tất cả các ban ngành địa phương về chính sách và chương trình qua
đó cho phép NKT thực hiện đầy đủ các chức năng, tiềm năng của họ như những
công dân khác. Chiến lược này đóng góp một vai trò không nhỏ trong việc bảo vệ,

3


thúc đẩy quyền lợi cho NKT, từ đó đảm bảo các chính sách mà NKT, và gia đình họ
được hưởng. Một trong sáu khía cạnh ưu tiên hành động giành cho NKT , gia đình
và người chăm sóc họ có khía cạnh liên quan đến việc làm cho NKT, đó là “ NKT
được hưởng các quyền lợi về việc làm như người bình thường, được hưởng các chế
độ đ i ngộ, được tiếp cận các công trình giao thông, công viên, các tòa nhà và nhà
ở, thông tin kĩ thuật số và công nghệ truyền thông, đời sống dân sự , thể thao, giải
trí văn hóa… “
" Disability and social inclusion in Ireland, Brenda Gannon and Brian Nolan,
2011” ( Khuyết tật và hòa nhập x hội ở Ireland, , Brenda Gannon and Brian Nolan,
2011) [3]. Báo cáo này là nêu lên sự khác biệt giữa NKT và không khuyết tật trong
việc tham gia hòa nhập cộng đồng. Thông qua việc thống kê các số liệu thu thập

được để đánh giá mức độ đói nghèo , tỉ lệ có việc làm, sự tham gia giáo dục... của
NKT. Đồng thời tìm hiểu thêm mức độ ảnh hưởng của NKT đến cuộc sống hàng
ngày và tới nững người khác. Báo cáo cũng nhấn mạnh đến yếu tố khuyết tật có ảnh
hưởng lớn đến đời sống của NKT, thiết kế nơi làm việc không phù hợp với các dạng
tật sự kì thị của cộng đồng và việc tiếp cận giao thông đi lại còn khó khăn.
Tuy nhiên hai bài nghiên cứu nên trên, mặc dù đ tập trung rất nhiều vào
khả năng hòa nhập x hội của người khuyết tật, đưa ra những luận điểm về sự khó
khăn mà NKT phải đối mặt trong cuộc sống, đặc biệt là vấn đề việc làm. Nhưng
khía cạnh tìm hiểu nhu cầu việc làm và sự hỗ trợ của công tác x hội đối với NKT
thì chưa được nhắc nhiều đến trong các nghiên cứu này.
Tại Việt Nam, cũng có rất nhiều đề tài nghiên cứu liên quan đến các vấn đề
của NKT như vấn đề việc làm , phục hồi chức năng….Tuy nhiên nếu có thường các
nghiên cứu chỉ đề cập tới NKT nói chung chứ ít đề cập tới NKT vận động nói
riêng. Đơn cử như nghiên cứu năm 2010 của Nguyễn Quang Lê, đề tài “ Bước đầu
tìm hiểu khó khăn và biểu hiện vượt khó của người khuyết tật vận động để tiến tới
xây dựng chỉ số vượt khó của người khuyết tật” [13]. Nghiên cứu này cũng chỉ đề
cập đến khái niệm người khuyết tật vận động, những khó khăn mà người khuyết tật
gặp phải và các biện pháp tâm lí - giáo dục nhằm trợ giúp người khuyết tật vượt qua

4


mọi khó khăn, giúp họ đương đầu với cuộc sống của mình để hòa nhập vào cộng
đồng và cùng với toàn x hội.
“ Hướng dẫn giảm kì thị và phân biệt đối xử với NKT” của tác giả Khuất Thu
Hồng, Nguyễn Thị Vân Anh cùng nhóm biên tập ISPS năm 2011 [1]. Tài liệu này
nhằm tăng mục đích hiểu biết và nhận thức của NKT và sự phân biệt đối sử với
NKT, ngoài ra cung cấp các kĩ năng cần thiết để NKT có thể hòa nhập cộng đồng.
Trong đó có một khía cạnh và tài liệu này chỉ ra, đó là sự phân biệt đối xử trong vấn
đề việc làm của NKT : Quan điểm chung của cộng đồng về việc việc làm của NKT

còn rất thấp. Nhiều người cho rằng NKT vận động cùng với các dạng thức khuyết
tật khác nhau không có cơ hội làm việc như những người “ bình thường “ khác....
Đối với NKT đ từng đi làm thì cũng không được gắn bó lâu dài vì NKT gặp rất
nhiều khó khăn , gồm khó khăn trong việc đi lại, cơ sở hạ tầng, môi trường làm việc
chưa đáp ứng được những khó khăn mà họ gặp phải, bị kì thì của những người
khác…..Mặc dù vậy thì cả hai nghiên cứu trên chưa đề cập nhiều đến những khó
khăn cụ thể mà NKT gặp phải khi họ tìm kiếm việc làm, và khi họ đ đi làm, hơn
nữa là khía cạnh của NKT vận động thì chưa có nhiều các luận điểm đề cập tới.
Nhà nước ta đ ban hành rất nhiều nghị định, thông tư, luật liên quan đến
dạy nghề và tạo việc làm cho người lao động là NKT, đồng thời có rất nhiều nghiên
cứu về vấn đề này. Báo cáo kết quả thực hiện “ Pháp lệnh về người tàn tật và đề án
trợ giúp Người khuyết tật giai đoạn 2006 – 2010” của Bộ LĐTBXH [5]. Báo cáo
cũng nêu rõ các kết quả thực hiện công tác chăm sóc NKT trên các lĩnh vực như: trợ
cấp hàng tháng đối với NKT, hộ gia đình nuôi dưỡng NKT, NKT có việc làm, số
NKT được tiếp cận các công trình giao thông công cộng. Từ đó đề ra những giải
pháp công tác thực hiện Pháp lệnh Người tàn tật được tốt hơn .
Ngoài những khía cạnh trên cũng có rất nhiều các tài liệu, tạp chí các công
trình nghiên cứu liên quan đến việc đáp ứng nhu cầu việc làm của NKT. Điển hình
là nghiên cứu của Bộ lao động thương binh x hội năm 2011 với đề tài: “ Vai trò
của tổ chức người tàn tật trong việc xây dựng các chính sách, chương trình quốc
gia về về dạy nghề và việc làm cho người khuyết tật của bộ thương binh lao động và

5


xã hội” [6- tr75]. Nghiên cứu này cũng nói đến việc xây dựng và thực hiện các
chính sách cho người khuyết tật để họ được đáp ứng nhu cầu việc làm của mình, Họ
được tư vấn hỗ trợ dạy nghề, qua đây NKT biết được những nơi có thể nhận mình
vào làm việc, để có thể có một công việc phù hợp với bản thân.
Dịch vụ công tác x hội còn là khái niệm khá mới mẻ tại Việt Nam, tuy

nhiên cũng có nhiều tác giả đ nghiên cứu về vấn đề này. Tác giả Đặng Kim Chung
và nhóm nghiên cứu năm 2011 với đề tài:“Đánh giá nhu cầu về dịch vụ công tác xã
hội và xây dựngcông tác xã hội và xây dựng kế hoạch thiết lập mô hình và hệ thống
cung cấp dịch vụ từ trung ương đến cộng đồng” [7]. Nghiên cứu đ đánh giá nhu
cầu dịch vụ công tác x hội tại cộng đồng và trong trung tâm, nghiên cứu việc phát
triển những dịch vụ công tác x hội trong phạm vi tài nguyên có thể huy động, đề
xuất kế hoạch xây dựng và vận hành mô hình và hệ thống cung cấp DVCTXH từ
trung ương đến cộng đồng. Đề tài đ phân tích và đánh giá nhu cầu của các đối
tượng dựa trên hai khía cạnh: Cung và cầu dịch vụ cho từng nhóm đối tượng cụ thể:
Người cao tuổi, NKT, trẻ em, người trưởng thành… Nhu cầu với DVCTXH của các
nhóm đối tượng rất lớn nhưng vẫn còn đang tiềm ẩn trong x hội. Hệ thống cơ sở
cung cấp dịch vụ còn manh mún và chất lượng còn kém. Nhận thức và hiểu biết của
công chúng và các nhà hoạch định chính sách về nghề CTXH còn chưa sâu. Cán bộ
làm CTXH còn thiếu và chưa được đào tạo chính quy, tổ chức cung cấp DVCTXH
ở cộng đồng gần như chưa có.
Tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2014) trong bài “Thực trạng mạng lưới dịch vụ
xã hội ở Việt Nam-Những khuyến nghị” cho rằng: Mạng lưới dịch vụ x hội là một
tập hợp các dịch vụ trong hệ thống xét theo góc độ tính chất đó là dịch vụ việc làm,
đào tạo nghề, tư vấn, tham vấn, tư vấn tâm lý, sức khỏe, pháp lý, cung cấp thông
tin chính sách, hỗ trợ thu nhập dịch vụ, hỗ trợ các đối tượng yếu thế hòa nhập x
hội, tái hòa nhập gia đình, cộng đồng và dịch vụ hòa giải, biện hộ các vấn đề x hội.
Xét từ gốc độ quản lý mạng lưới dịch vụ x hội bao gồm dịch vụ công lập, ngoài
công lập, dịch vụ tư nhân, mạng lưới dịch vụ của tôn giáo và của các tổ chức dân sự
x hội khác [9].

6


Tuy nhiên nói chung, đa số các đề tài chỉ nghiên cứu hướng tới giải quyết việc
làm cho người khuyết tật bằng cách dạy nghề trực tiếp hoặc hỗ trợ tâm lí. Mặc dù vậy

người NKT VĐ và NKT nói chung có nhu cầu về việc làm đặc thù, nhưng mức độ đáp
ứng các nhu cầu đó còn rất hạn chế. Hơn nữa hầu như không có nghiên cứu nào nhắc
đến các DVCTXH nhằm giải quyết nhu cầu việc làm của người khuyết tật hay đánh giá
mức độ đáp ứng của các dịch vụ công tác x hội đó. Hầu hết là các nghiên cứu chỉ nêu
lên sự cần thiết của việc giúp NKT có thể tìm được một công việc mới để đáp ứng nhu
cầu bản thân, nhưng chưa nói lên được những nhu cầu riêng của họ và xây dựng mô
hình DVCTXH phù hợp để đáp ứng những nhu cầu đó.
Lĩnh vực nghiên cứu CTXH với NKT nói chung và NKT VĐ nói riêng còn
tương đối mới mẻ. Nên luận văn xin được nêu ra thực trạng việc làm của người
khuyết tật vận động Quận Hai Bà Trưng – TP Hà Nội, tìm hiểu những nhu cầu của
họ về việc làm và từ đó nghiên cứu về thực trạng các DVCTXH hiện nay trong việc
giải quyết các nhu cầu việc làm đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng DVCTXH trong giải quyết việc làm của NKT VĐ tại
quận Hai Bà Trưng. Căn cứ vào đó để đề ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả chất
lượng DVCTXH trong giải quyết việc làm cho NKT VĐ từ thực tiễn quận Hai Bà
Trưng, thành phố Hà nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu về thực trạng việc làm và nhu cầu việc làm của NKT VĐ tại quận
Hai Bà Trưng.
- Tìm hiểu thực trạng các hoạt động cung cấp DVCTXH trong việc giải quyết
việc làm cho NKT VĐ ở quận Hai Bà Trưng
- Đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc cung cấp DVCTXH
trong việc giải quyết việc làm cho NKT VĐ ở quận Hai Bà Trưng.

7


4. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu

4.1.Đối tƣợng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu
+ Dịch vụ công tác x hội trong giải quyết việc làm cho NKT VĐ từ thực tiễn
quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
+ Khách thể nghiên cứu
- Người khuyết tật vận động trong độ tuổi lao động vẫn còn khả năng lao động
và có nhu cầu việc làm đang sống tại quận Hai Bà Trưng.
- Cán bộ hội NKT Quận Hai Bà Trưng.
- Cán bộ cung cấp dịch vụ hỗ trợ việc làm cho NKT VĐ quận Hai Bà Trưng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khảo sát:
-

Không gian : Nghiên cứu tại quận Hai Bà Trưng.

-

Thời gian : từ 15 tháng 03 năm 2018 đến 10 tháng 07 năm 2018.

Phạm vi nội dung vấn đề nghiên cứu:
- Nhu cầu việc làm : bao gồm: nhu cầu về lương, chế độ đ i ngộ, môi trường làm
việc, loại hình công việc, nhu cầu về các dịch vụ công tác x hội hỗ trợ việc làm.
- NKT Vận động : Chỉ tiến hành nghiên cứu trên các đối tượng NKT vận động
vẫn còn khả năng lao động và đang ở độ tuổi lao động có nhu cầu việc làm được
quy định trong Bộ Luật Lao động và có nhu cầu về việc làm. Tức là với Nam giới
KT từ 15 đến 60 tuổi, Nữ giới KT từ 15 đến 55 tuổi.
- Dịch vụ CTXH : Các hoạt động CTXH mang tính chuyên nghiệp hoặc không
chuyên cung cấp các họat động hỗ trợ về tinh thần và vất chất cho NKT nhằm xóa
bỏ những rào cản và bất bình đẳng trong vấn đề việc làm của NKT. Do ở Việt Nam
các dịch vụ CTXH mang tính chuyên nghiệp mới đang trong quá trình hình thành
nên nghiên cứu cũng xin được coi những họat động trợ giúp việc làm cho NKT nằm

trong các dịch vụ CTXH.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp phân tích tài liệu

8


Tài liệu là những hiện vật do con người tạo nên nhằm mục đích nào đó
nhưng có tính chất truyền tin hoặc bảo lưu thông tin. Tài liệu trong điều tra x hội
học là vật chứa đựng thông tin bằng ngôn ngữ, chữ viết hiện vật. Phương pháp phân
tích tài liệu là phương pháp thu thập thông tin thứ cấp của những tài liệu có sẵn.
Phân tích tài liệu là xem xét các tài liệu có sẵn trong kho thông tin lưu trữ và các
nguồn khác để nghiên cứu về đề tài cần thiết, không phải làm các cuộc phỏng vấn
đề điều tra.
Điều cốt lõi trong phương pháp này là cần sưu tầm được đúng và đầy đủ các
tài liệu cần thiết cho nội dung nghiên cứu. Trước đây, công việc này rất khó khăn và
mất rất nhiều thời gian nhưng hiện nay với sự trợ giúp đắc lực của mạng internet,
thư viện trường và thư viện khoa X Hội Học lượng tài liệu được tìm kiếm cần thiết
đ tìm kiếm khá dễ dàng. Nhưng điểm khó khăn mới là phải chọn lọc từ nhiều
nguồn tư liệu khác nhau và đặc biệt là từ những nguồn tư liệu không chính thống.
Đây là phương pháp được dùng rất phổ biến vì không tốn nhiều chi phí và công sức
điều tra thực tế mà vẫn có được lượng thông tin cần thiết cho nghiên cứu.
Với nghiên cứu của mình, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích
định tính: để tìm ra những nội dung tư tưởng cơ bản của tài liệu, tìm ra những vấn
đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu và xác định xem những vấn đề gì được giải
quyết và những vấn đề gì chưa được giải quyết. Thu thập các đầu sách, xử lý số liệu
và kết quả sẵn có ở các nghiên cứu trước về các vấn đề của NKT VĐ gặp phải hiện
nay đó là vấn đề việc làm, giáo dục, phục hồi chức năng và chăm sóc sức khỏe của
người khuyết tật nhằm phục vụ cho đề tài nghiên cứu, tham khảo vận dụng số liệu
của một số báo cáo thống kê, báo cáo tổng kết, khảo sát của cơ quan nhà nước về

thực trạng NKT nói chung và NKT VĐ nói riêng, các dự án nghiên cứu khác có liên
quan; các văn bản pháp lý hiện hành của nhà nước về xây dựng các công trình công
cộng cho NKT VĐ, nhằm thu thập và phân tích những nội dung có liên quan đến
nghiên cứu. Kết quả của công việc này vừa là minh chứng đúng đắn, thực tế của các
nghiên cứu trước, mặt khác cung cấp cho cá nhân chúng tôi những kiến thức và
kinh nghiệm để xây dựng báo cáo nghiên cứu của mình.

9


5.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là một phương pháp phỏng vấn viết, được
thực hiện cùng một lúc với nhiều người theo một bảng hỏi in sẵn. Người được hỏi trả
lời ý kiến của mình bằng cách đánh dấu vào các ô tương ứng theo một quy ước nào đó.
Tác giả dự kiến thu thập số lượng NKT VĐ trong Quận còn trong độ tuổi lao động, có
khả năng lao động và có nhu cầu về vấn đề việc làm. Việc lựa chọn mẫu sẽ dựa trên số
lượng NKT VĐ thống kê được tại quận Hai Bà Trưng. Nội dung phỏng vấn sẽ là thu
thập các thông tin về thực trạng việc làm của NKT VĐ, nhu cầu về việc làm và thực
trạng DVCTXH trong giải quyết việc làm cho NKT VĐ.
Số NKT VĐ trong danh sách hội viên của Quận Hai Bà Trưng là 93 người
nằm rải rác ở 20 phường trong Quận. Từ danh sách đó tác giả đ lọc tìm những đối
tượng là NKT VĐ và nằm trong độ tuổi lao động có nhu cầu giải quyết việc làm đ
chọn ra 50 người theo cách chọn mẫu đơn giản để tiến hành trưng cầu ý kiến qua
bảng hỏi. Trong 1 tuần từ 18/5/2018 đến 25/5/2018, đ chủ động đến địa bàn để thu
thập đủ 50 bảng hỏi. Sở dĩ chọn con số 50 người để điều tra bảng hỏi là vì quy mô
thời gian và kinh phí cũng như số lượng NKT VĐ trong độ tuổi của quận sau khi
lọc chỉ có 50 người. Nên tác giả tiến hành chọn toàn bộ.
5.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp phỏng vấn sâu cũng là một phương pháp kỹ thuật chuyên sâu
được sử dụng để tìm hiểu sâu sắc về các phản ứng, suy nghĩ, thái độ, tình cảm, động

cơ, quan điểm, chính kiến của các đối tượng được phỏng vấn đối với các vấn đề liên
quan. Phỏng vấn được sử dụng trong luận văn này cho các đội tượng sau:
-

03 Cán bộ UBND quận Hai Bà Trưng và cán bộ hội NKT quận Hai Bà
Trưng

-

03 Cán bộ cung cấp các dịch vụ hỗ trợ NKT

-

05 Người khuyết tật ( Được chọn ngẫu nhiên trong danh sách NKT VĐ
trong độ tuổi lao động của Quận Hai Bà Trưng).

Nội dung phỏng vấn sâu là tìm hiểu và thu thập thông tin chuyên sâu về thực
trạng và nhu cầu việc làm của NKT VĐ tại quận Hai Bà Trưng, đồng thời tìm hiểu

10


thực trạng cung cấp DVCTXH trong giải quyết việc làm cho NKT VĐ và những
thuận lợi khó khăn trong việc cung cấp dịch vụ CTXH đến đối tượng này. Trên cơ
sở đó đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng DVCTXH trong việc giải quyết
nhu cầu việc làm.
6.

Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn


6.1. Ý nghĩa lý luận
Việc nghiên cứu đề tài trên một phần là củng cố tri thức, phương pháp
nghiên cứu khoa học x hội cho người nghiên cứu. Đồng thời đề tài sẽ làm phong
phú thêm phạm vi nghiên cứu, lĩnh vực nghiên cứu cho x hội học. Một mặt nghiên
cứu này muốn kiểm nghiệm tính ứng dụng của lý thuyết hệ thống và các lý thuyết
nhu cầu của Maslow và Herzberg để tìm hiểu mức độ cần thiết của nhu cầu việc làm
đối với NKT nói chung và NKT VĐ nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Công tác x hội là bộ môn khoa học luôn đi sát với thực tiễn và nhằm giúp
phát triển x hội theo hướng tích cực .Nghiên cứu cũng vận dụng những kiến thức
của bộ môn X hội học trong vịêc thu thập thông tin và sử lý số liệu để tìm hiểu về
thực trạng và nhu cầu việc làm của NKT VĐ Quận Hai Bà Trưng. Qua đó đưa ra
những nét khái quát nhất về thực trạng việc làm cũng như nhu cầu của NKT VĐ về
vấn đề việc làm. Căn cứ vào những thực tiễn đó để có thể tìm ra những xu hướng
giải quyết phù hợp với bối cảnh kinh tế - văn hóa – x hội Việt Nam.
Mặt khác từ vấn đề nghiên cứu có thể vận dụng những kiến thức của CTXH
để đánh giá mức độ đáp ứng của các DVCTXH nhằm trợ giúp NKT quận Hai Bà
Trưng trong vấn đề vịêc làm. Đồng thời từ những kiến thức về CTXH có thể đề
xuất ra những giải pháp , khuyến nghị để khắc phục những mặt hạn chế, phát huy
những mặt tích cực của các DVCTXH đ có. Hơn thế nữa, trong quá trình nghiên
cứu cũng rút ra được kiến thức cũng như kỹ năng và phương pháp làm việc phù hợp
và hiệu quả nhất đối với NKT VĐ cho nhân viên CTXH trong vấn đề này.
7. Kết cấu luận văn

11


Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về dịch vụ công tác x hội trong giải quyết việc

làm cho NKT vận động.
Chương 2: Thực trạng dịch vụ công tác x hội trong hỗ trợ giải quyết việc làm cho
NKT vận động từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ công tác x hội trong
giải quyết việc làm đối với NKT vận động từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng, thành
phố Hà Nội.

12


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG
1.1.Khái niệm công cụ
1.1.1. Khái niệm công tác xã hội
Trên thế giới có nhiều khái niệm khác nhau về công tác x hội. Dưới đây là
một số khái niệm về CTXH và nghề CTXH được đông đảo các nhà nghiên cứu và
những người thực hành CTXH trên thế giới tham khảo, sử dụng:
Theo định nghĩa của Hiệp hội quốc gia các nhân viên CTXH Mỹ (NASW 1970): "Công tác xã hội là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng
đồng tăng cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo
những điều kiện thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó”.
Theo Zastrow (1996): “Công tác xã hội là hoạt động nghề nghiệp giúp đỡ các
cá nhân, nhóm hay cộng đồng để nhằm nâng cao hay khôi phục tiềm năng của họ
để giúp họ thực hiện chức năng xã hội và tạo ra các điều kiện xã hội phù hợp với
các mục tiêu của họ”.
Theo tổ chức thực hành công tác x hội ( The Foundation of Social Work
Practice): “Công tác xã hội là một môn khoa học ứng dụng để giúp đỡ mọi người
vượt qua những khó khăn của họ và đạt được một vị trí ở mức độ phù hợp trong xã
hội. Công tác xã hội được coi như là một môn khoa học vì nó dựa trên những luận
chứng khoa học và những cuộc nghiên cứu đã được chứng minh. Nó cung cấp một

lượng kiến thức có cơ sở thực tiễn và xây dựng những kỹ năng chuyên môn hóa”.
Ở Việt Nam cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về CTXH. CTXH có thể
hiểu là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình
và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng x hội,
đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm
giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội
góp phần đảm bảo an sinh xã hội.

13


Theo TS Bùi Thị Xuân Mai: “Công tác xã hội là một nghề, một hoạt động
chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng
lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội đồng thời thúc đẩy môi
trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình,
cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề về xã hội góp phần đảm bảo an
sinh xã hội.” [9, tr.4].
Như vậy, có thể hiểu công tác x hội là một nghề chuyên nghiệp, áp dụng
những nguyên tắc, kỹ năng để trợ giúp có hiệu quả cho cá nhân, gia đình và cộng
đồng giải quyết vấn đề góp phần xây dựng x hội công bằng, hạnh phúc.
1.1.2. Khái niệm người khuyết tật
Người khuyết tật là người có một hoặc nhiều khiếm khuyết về thể chất hoặc
tinh thần mà vì thế gây ra suy giảm đáng kể và lâu dài đến khả năng thực hiện các
họat động, sinh họat hàng ngày,
Theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới, có 3 mức độ suy giảm là khiếm
khuyết (impairment), khuyết tật ( disability) và tàn tật (handicap):
-

Khiếm khuyết chỉ đến sự mất mát hoặc không bình thường của cấu trúc
cơ thể liên quan đến tâm lý hoặc/và sinh lý.


-

Khuyết tật chỉa đến sự giảm thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả của
sự khiếm khuyết.

-

Tàn tật đề cập đến tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi của người mang khiếm
khuyết do tác động của môi trường xung quanh lên tình trạng khuyết tật
của họ ( WHO, 1999)

Một số khái niệm mô tả mức độ khuyết tật được sử dụng trong báo cáo Tổng
điều tra Dân số năm 2009. Trong cuộc điều tra này đ sử dụng nhóm câu hỏi ngắn
về khuyết tật được sử dụng về mức độ khó khăn trong việc thực hiện 4 chức năng
là: 1) Nhìn; 2) Nghe; 3)Vận động và 4) Tập trung hoặc ghi nhớ. Người trả lời sẽ tự
đánh giá mức độ khó khăn của mình theo 4 mức độ: 1) Không có khó khăn gì; 2)
Có khó khăn; 3) Rất khó khăn; và 4) Không thể thực hiện được.

14


-

Người khuyết tật (NKT) là những người có khó khăn ( gồm những
người “có khó khăn”,”rất khó khăn”,và “không thể thực hiện được”)
trong việc thực hiện ít nhất một trong 4 chức năng nói trên.

-


Người không khuyết tật (NKKT) là những người không có khó khăn
nào trong việc thực hiện cả 4 chức năng nói trên.

-

Người đa khuyết tật ( NĐKT) là những người có khó khăn khăn ( gồm
những người “có khó khăn”,”rất khó khăn”,và “không thể thực hiện
được”) trong việc thực hiện được ít nhất từ hai chức năng ( trong 4 chức
năng nói trên) trở lên.

-

Người khuyết tật nặng (NKTN) gồm những người “không thể thực
hiện” ít nhất một trong 4 chức năng nói trên.

Theo

Pháp

Lệnh

của

Ủy

Ban

Thường

Vụ


Quốc

Hội

số

06/1998/PLUBTVQ10 ngày 30/7/1998 về Người Tàn Tật định nghĩa NKT không
phân biệt nguồn gốc gây ra khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ
phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm
khả năng hoạt động từ 41% trở lên ( được Hội đồng y khoa có thẩm quyền xác
định) khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn ( hồ sơ , thủ tục
giám định y khoa áp dụng theo hướng dẫn tại Thông tư 34/TT-LB ngày 29/12/1993
của liên Bộ Lao động – Thương binh và X hội – Bộ Y tế).
Tại Việt Nam: Theo Luật Người khuyết tật Việt nam (2010), “Người khuyết
tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức
năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó
khăn”[10]. Dạng tật được quy định trong luật bao gồm:
Khuyết tật vận động; Khuyết tật nghe, nói; Khuyết tật nhìn; Khuyết tật thần
kinh, tâm thần; Khuyết tật trí tuệ; Khuyết tật khác. Người khuyết tật được chia theo
mức độ khuyết tật sau đây:
NKT đặc biệt nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện việc
phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày. NKT nặng là người do khuyết tật
dẫn đến không thể tự thực hiện một số việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng

15


ngày. NKT nhẹ là người khuyết tật không thuộc trường hợp quy định tại điểm a và
điểm b khoản này..

1.1.3. Khái niệm người khuyết tật vận động
Khái niệm NKT VĐ của Trường ĐH Bang California ở Northridge, nước Mỹ
được đưa ra trong cuốn People with disablilities in the workplace là: “ NKT VĐ
những người bị khuyết tật ở cơ quan vận động (cơ, xương, khớp, thần kinh ngoại vi)
những khuyết tật trên làm cho NKT khó khăn trong việc đi đứng, làm việc như: Mất
đoạn, biến dạng, lệch trục chi thể sau chấn thương, vết thương. Dính khớp, biến
dạng khớp do chứng các bệnh lý khớp. Dị dạng bẩm sinh: bàn chân khèo, trật khớp
háng bẩm sinh, gai đôi …. Bại, liệt trong di chứng bại não, bại liệt, liệt dây thần
kinh ngoại vi, viêm não – màng não, tủy sống, tai biến mạch não. Teo cơ, cứng
khớp ở những bệnh nhân bị bệnh mạn tính phải nằm lâu ngày ở một tư thế “.
Các biểu hiện thường thấy ở những người khuyết tật vận động:
- Trẻ nhỏ có thể không bú được vì không thực hiện được động tác mút; khi bế
đầu trẻ ưỡn ra sau, lưỡi thè ra khi mẹ đặt núm vú vào miệng, thường quấy khóc,
không chịu chơi.
- Trẻ ít hoặc không sử dụng tay, ít hoặc không di chuyển từ chỗ này sang chỗ
khác; ít chịu vận động, không chịu chơi, hay ngồi một mình, không tự chăm sóc
mình được.
- Người lớn thường ít vận động, ít hoặc không sử dụng tay chân, di chuyển khó
khăn, đau khớp, không tự ăn, uống, tắm, rửa, đại tiểu tiện, vệ sinh cá nhân; không
tham gia được những công việc trong sinh hoạt hàng ngày của gia đình, cộng đồng
và x hội.
- Người khuyết tật vận động cũng có thể có những khuyết tật khác kèm theo
như khuyết tật về nghe, nói; nhìn, thần kinh…
- Cách cư xử không bình thường: buồn rầu, chán nản, tính tình thay đổi bất
thường, luôn trông chờ và sự giúp đỡ của người khác, giảm hoặc mất lòng tin vào
chính mình.
1.1.4. Khái niệm giải quyết việc làm

16



Giải quyết việc làm là tổng thể những biện pháp , chính sách kinh tế x hội
của Nhà Nước, cộng đồng và bản thân người lao động tác động đến mọi mặt của đời
sống x hôi tạo điều kiện thuận lợi để mọi người có khả năng lao động.
Trong phạm vi đề tài, giải quyết việc làm được hiểu là quá trình tạo điều kiện và
môi trường bảo đảm cho mọi người trong độ tuổi lao động , có khả năng lao động,
đang có nhu cầu tìm việc làm với mức tiền công thịnh hành trên thị trường để có cơ
hội làm việc. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X ( 2006-2010) xác định
giải quyết việc làm thông qua:
-

Chính sách vay vốn

-

Phát triển sản xuất, thu hút lao động

-

Tăng cường công tác hỗ trợ tìm kiếm việc làm cho người lao động

-

Đẩy mạnh công tác học nghề và đào tạo nghề

-

Cải thiện điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động

Theo Luật NKT năm 2010 tạo việc làm có nghĩa là: “Tạo cho NKT tìm được

một việc làm phù hợp, trụ lâu dài với công việc và thăng tiến với nó, nhờ đó thúc
đẩy hòa nhập hoặc tái hòa nhập của cá nhân đó vào xã hội ( Khoản 2 Điều 1)”.
1.1.5. Dịch vụ công tác xã hội
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): “Dịch vụ xã hội (DVXH) là các hoạt
động cung cấp dịch vụ, đáp ứng nhu cầu cho các cá nhân, nhóm người nhất định
nhằm bảo đảm các giá trị và chuẩn mực xã hội”. Ngoài ra còn có một số cách hiểu
khác về dịch vụ x hội nhìn từ vai trò của người cung cấp dịch vụ và người tiếp
nhận dịch vụ. Theo cách nhìn này, dịch vụ x hội là các hoạt động có chủ đích của
con người nhằm phòng ngừa hạn chế và khắc phục rủi ro, đảm bảo đáp ứng được
nhu cầu cơ bản và thúc đẩy khả năng hoà nhập cộng đồng, x hội cho nhóm đối
tượng yếu thế. Dịch vụ x hội là các sáng kiến can thiệp nhằm vào các nhu cầu và
các vấn đềcủa các nhóm người dễ bị tổn thương, bao gồm cả việc phòng ngừa bạo
lực, tan vỡ gia đình, xóa đói giảm nghèo và hỗ trợ NKT, trẻ em và người già.
Theo tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2013): “Dịch vụ CTXH có thể được coi là
một loại hình DVXH được cung cấp, điều phối bởi các NVCTXH. Việc cung cấp các

17


DVCTXH không thể tách rời với các dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục, dịch vụ truyền
thông và các dịch vụ khác. Chính vì vậy, NVCTXH hội phải có sự nối kết chặt chẽ
với các DVXH khác trong quá trình thực hiện DVCTXH” [8].
Tác giả Nguyễn Thị Thái Lan (2016) cũng đưa ra khái niệm DVCTXH như
sau: “Dịch vụ xã hội cho nhóm yếu thế là các hoạt động có chủ đích của con người
nhằm phòng ngừa-hạn chế và khắc phục rủi ro, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu cơ
bản và thúc đẩy khả năng hoà nhập cộng đồng, xã hội cho nhóm đối tượng yếu thế
“[12].
Cụm từ "Dịch vụ công tác x hội" được sử dụng khá phổ biến trong các tài
liệu về CTXH đ được xuất bản tại Việt Nam những năm gần đây. Song, cho đến
nay vẫn chưa có tài liệu nào chính thức đưa ra khái niệm về DVCTXH. Tuy nhiên

căn cứ vào khái niệm về CTXH, căn cứ vào khái niệm dịch vụ đ được đề cập trong
nhiều tài liệu, ta có thể đưa ra khái niệm về dịch vụ CTXH như sau: “Dịch vụ công
tác xã hội là hoạt động do các cơ sở có chức năng cung cấp dịch vụ CTXH, các
nhân viên CTXH thực hiện nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng
cao năng lựcđáp ứng nhu cầu và tăng cường các chức năng xã hội để giúp các cá
nhân, gia đình và cộng đồng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu cơ bản của mỗingười
đồng thời góp phần đảm bảo an sinh xã hội”.
Dịch vụ công tác xã hội trong giải quyết việc làm đối với người khuyết tật
vận động từ những khái niệm về DVCTXH nêu trên, khái niệm về DVCTXH đốí
với NKTVĐ trong giải quyết việc làm được hiểu như sau: Dịch vụ CTXH đối với
NKTVĐ trong giải quyết việc làm là các hoạt động có chủ đích, được cung cấp,
điều phối bởi các NVCTXH nhằm giúp NKT vận động:
Hỗ trợ về việc làm: Tư vấn, tham vấn để NKTVĐ có thể lựa chọn công việc
phù hợp với dạng tật và mong muốn của họ. Bên cạnh đó, NVCTXH tư vấn, hướng
dẫn để NKTVĐ có thể tìm đến các cơ sở, công ty tuyển dụng và có công việc phù
hợp với họ.
Hỗ trợ về việc làm : Đây cũng là cách duy nhất giúp NKTVĐ hòa nhập cộng
đồng.Vì vậy các cấp, các ngành, các địa phương, doanh nghiệp cần quan tâm hơn

18


nữa đến công tác dạy nghề, tạo việc làm cho NKT VĐ. Và để thúc đẩy khả năng tự
tạo ra thu nhập của NKT VĐ sau khi tiến hành học nghề, tạo việc làm cho NKT VĐ
không chỉ giúp họ xóa bỏ rào cản tâm lý tự ti, mà còn giúp NKT VĐ hòa nhập cộng
đồng, ổn định kinh tế, góp phần thúc đẩy x hội phát triển.
1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
1.2.1. Lý thuyết hệ thống
Lý thuyết hệ thống được sáng lập bởi L.V. Bertalanffy (1901-1972) người
Áo, thuộc trường Đại học Tổng hợp Chicago, tiếp cận vấn đề hệ thống từ góc độ

sinh học bởi theo ông: “Mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống được tạo nên từ
các tiểu hệ thống và ngược lại cũng là một phần của hệ thống lớn hơn” .Trong công
trình “Lý thuyết hệ thống ổng quát”, xuất bản năm 1956 của ông đ được nhân loại
đánh giá là công trình có tính chất nền tảng cho sự hình thành và phát triển của lý
thuyết hệ thống đ trình bày. [14]
Pincus và Minahan áp dụng lý thuyết hệ thống vào thực hành công tác x
hội. Nguyên tắc về cách tiếp cận này chính là các cá nhân phụ thuộc vào hệ thống
trong môi trường x hội trung gian của họ nhằm thoả m n được cuộc sống riêng, do
đó công tác x hội phải nhấn mạnh đến các hệ thống. Ba hình thức hệ thống tổng
quát đó là: Hệ thống chính thức, hệ thống phi chính thức và hệ thống x hội.
Có ba hệ thống chính:
-

Hệ thống phi chính thức ( hệ thống thân tình tự nhiên) như: gia đình,
họ hàng, người thân, bạn bè đồng nghiệp...

-

Hệ thống chính thức (hệ thống chính quy): Nhà trường, bệnh viện,
trường học, cơ quan làm việc …

-

Hệ thống x hội: Đây là hệ thống lớn, vĩ mô.Các tổ chức x hội như:
Hội phụ nữ, hội người cao tuổi, hội Chữ Thập Đỏ …
Sự phân biệt trên chỉ mang tính tương đối vì đối với cá nhân này hệ

thống trợ giúp có thể là hệ thống chính thức nhưng đối với các cá nhân khác nó lại
là hệ thống x hội hay phi chính thức. Như vậy thông qua thuyết lý thuyết hệ thống,
chúng ta thấy rằng đối với NKT VĐ của quận Hai Bà Trưng, các hệ thống có thể hỗ


19


trợ được họ bao gồm: gia đình, bạn bè trong hội người khuyết tật, các tổ chức dành
cho người khuyết tật, các cơ sở dạy nghề, các công ty tuyển lao động là NKT VĐ,
các trung tâm DVCTXH cung cấp, tư vấn hỗ trợ việc làm, tình nguyện viên...Trong
quá trình tiếp xúc và can thiệp, chúng ta cần phát huy hiệu quả sự hỗ trợ từ các hệ
thống này.
1.2.2.Lý thuyết nhu cầu của Frederick Herzberg
Frederick Herzberg (1923 – 2000) Một trong những lý thuyết quan trọng
trong lĩnh vực khoa học x hội phải kể tới thuyết nhu cầu của Frederick Heberg
[16]. Ông được xem như là cha đẻ của lý thuyết mở rộng nhiệm vụ để tăng động cơ
của người lao động và là người hoàn thiện lý thuyết của A. Maslow . Qua nhiều
nghiên cứu của mình, tác giả khám phá ra các nhân tố “đủ” và nhóm các nhân tố
“cần”. Hay nói cách khác, ví dụ trong quản lý người lao động không phải cứ tìm
cách loại bỏ các nhân tố cản trở lao động thì người lao động sẽ trở nên hứng thú làm
việc. Từ kết luận đó, tác giả đ xây dựng lý thuyết của mình theo hai nhóm nhân tố.
Vì vậy, chúng ta có thể gọi lý thuyết của Herzberg là lý thuyết hai nhóm nhân tố.
Như vậy trong cuộc sống, đặc biệt ở nhiều lĩnh vực khác nhau lý thuyết nhu cầu của
ông luôn được ứng dụng một cách hết sức rộng r i. Điển hình như trong quản lý lao
động. Cụ thể:
Nhóm nhân tố cần (nhân tố ngoại tại): Tác giả gọi nhóm nhân tố này là
các nhân tố vệ sinh vì chúng liên quan mật thiết đến sức khoẻ của người lao động (
đặc biệt với người khuyết tật họ rất mong muốn được những yếu tố này do tình
trạng sức khỏe bị hạn chế). Đây là những nhân tố thuộc về “không khí lao động”,
bao gồm:
-

Điều kiện vật chất


-

Lương bổng

-

Chiến lược doanh nghiệp

-

Cán bộ quản lý

-

An toàn việc làm

-

Tổ chức lao động

20


×