Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.24 KB, 78 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ QUYÊN

CHẤM DỨT DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG ANH TUẤN

HÀ NỘI - 2014


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤM DỨT DOANH
NGHIỆP............................................................................................................7
1.1. Khái niệm Doanh nghiệp............................................................................7
1.2. Khái niệm, bản chất và đặc điểm pháp lý chấm dứt doanh nghiệp............9
1.2.1. Khái niệm và bản chất pháp lý chấm dứt doanh nghiệp..................9
1.2.2. Ý nghĩa của chấm dứt doanh nghiệp..............................................15


1.3. ...........Quyền tự do kinh doanh – nền tảng của tự nguyện chấm dứt doanh
nghiệp..............................................................................................................17
1.3.1. Quyền tự do kinh doanh.................................................................17
1.3.2. Chấm dứt doanh nghiệp trong phạm vi quyền tự do kinh doanh...20
1.4. Phân loại chấm dứt doanh nghiệp............................................................21
1.4.1. Khái quát chung về phân loại chấm dứt doanh nghiệp..................21
1.4.2. Nội dung tổng quát các trường hợp chấm dứt doanh nghiệp.........22
1.4.3. Chấm dứt doanh nghiệp bởi giải thể...............................................22
1.4.4. Chấm dứt doanh nghiệp bởi phá sản..............................................25
1.5. Bảo vệ người thứ ba từ sự tác động của việc chấm dứt doanh nghiệp......29
Kết luận Chương 1.........................................................................................31


Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHẤM DỨT
DOANH NGHIỆP..........................................................................................32
2.1. Các quy định hiện hành về giải thể doanh nghiệp....................................32
2.1.1. Quy định về các trường hợp và điều kiện giải thể doanh nghiệp...32
2.1.2. Quy định về điều kiện giải thể doanh nghiệp.................................39
2.1.3. Quy định về thủ tục giải thể doanh nghiệp.....................................40
2.2. Các quy định về phá sản doanh nghiệp....................................................43
2.2.1. Quy định về xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản...43
2.2.2. Quy định về quyền và nghĩa vụ yêu cầu mở thủ tục phá sản..........44
2.2.3. Quy định về căn cứ quyết định mở thủ tục phá sản........................45
2.2.4. Quy định về tuyên bố doanh nghiệp phá sản..................................46
2.3. Các quy định về bảo vệ người thứ ba khi giải thể, phá sản doanh nghiệp 47
2.3.1. Đối với trường hợp giải thể............................................................47
2.3.2. Đối với trường hợp phá sản...........................................................48
2.4. . .Nguyên nhân khiếm khuyết của pháp luật và áp dụng pháp luật về chấm
dứt doanh nghiệp.............................................................................................50
Kết luận Chương 2.........................................................................................52

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ CHẤM DỨT DOANH NGHIỆP................................................53
3.1. Các định hướng.........................................................................................53
3.2. Các giải pháp hoàn thiện...........................................................................56
3.2.1. Giải pháp lập pháp.........................................................................56


3.2.2. Giải pháp thi hành..........................................................................62
3.2.3. Giải pháp tư pháp...........................................................................63
KẾT LUẬN.....................................................................................................66
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................67


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Thị Quyên



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

KÝ HIỆU

NỘI DUNG TỪ VIẾT TẮT

1.

BLDS 2005

: Bộ luật Dân sự năm 2005

2.

LDN 2005

: Luật Doanh nghiệp năm 2005

3.

Công ty TNHH

: Công ty trách nhiệm hữu hạn

4.

DNTN


: Doanh nghiệp tư nhân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng, pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam đã liên tục được cải cách, theo đó
nhiều loại hình Doanh nghiệp được pháp luật ghi nhận, và ngày càng khẳng
định vai trò to lớn của mình trong việc phát triển kinh tế, xã hội. Sự phát triển
các loại hình Doanh nghiệp cho thấy nhà làm luật Việt Nam đã chú ý tương
đối thích đáng tới quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư, và cũng cho thấy sự
nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của Doanh nghiệp.
Pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam đã từng bước hoàn thành sứ mệnh
của mình là tạo lập ra hình thức Doanh nghiệp đa dạng và phong phú cho các
nhà đầu tư lựa chọn. Cụ thể, sau khi thống nhất đất nước, với chính sách mở
cửa, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã cho phép tạo lập công
ty trách nhiệm hữu hạn để thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Kế tiếp đó là
Luật Công ty năm 1990 đã mở ra hai hình thức công ty mà các nhà đầu tư
Việt Nam có thể lựa chọn đó là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu
hạn. Đến năm 1999, tức là sau chín năm thực hiện, Luật Công ty năm 1990 đã
được thay thế bằng Luật Doanh nghiệp năm 1999, theo đó, đã mở rộng sự lựa
chọn của các nhà đầu tư Việt Nam trong năm hình thức doanh nghiệp - đó là
công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên,
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (mà chủ sở hữu là tổ chức), công
ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Luật Doanh nghiệp năm 1999 đã đạt
được những thành thành tựu đáng kể trong việc cải thiện môi trường kinh
doanh, nhưng cũng có nhiều hạn chế. Để khắc phục những hạn chế đó và mở
rộng quyền tự do kinh doanh, tăng cường khả năng gia nhập thị trường, Luật
Doanh nghiệp năm 2005 ra đời thay thế Luật Doanh nghiệp năm 1999 và
1



khẳng định quyền của cá nhân được thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên. Tuy nhiên, Pháp luật Doanh nghiệp không thể đảm bảo quyền
tự do kinh doanh chỉ bằng việc tạo điều kiện cho nhà đầu tư tạo lập Doanh
nghiệp, mà còn phải quan tâm tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư chấm
dứt Doanh nghiệp khi nhà đầu tư mong muốn hoặc khi có sự kiện pháp lý
phát sinh là điều kiện chấm dứt theo luật định.
Có thể nói rằng, chấm dứt Doanh nghiệp không phải là vấn đề mới,
nhưng ở Việt Nam hiện nay vấn đề này chưa được quan tâm nghiên cứu một
cách đầy đủ về mặt lý luận và thực tiễn. Các văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành quy định về chấm dứt Doanh nghiệp chưa đầy đủ, chưa phản ánh được
bản chất kinh tế và vai trò của chấm dứt Doanh nghiệp. Nhận định này được
minh chứng rõ ràng rằng các quy định về chấm dứt Doanh nghiệp theo Luật
Doanh nghiệp năm 2005 gần như không có sự thay đổi so với các quy định về
chấm dứt Doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2005. Các quy định về
điều kiện chấm dứt, các chế tài về vi phạm thủ tục, điều kiện chấm dứt còn bị
bỏ ngỏ. Các quy định về thủ tục chấm dứt tạo ra rào cản lớn cho các nhà đầu
tư muốn thực hiện việc chấm dứt Doanh nghiệp. Những bất cập của pháp luật
về chấm dứt Doanh nghiệp có thể gây khó khăn cho việc bảo đảm quyền tự
do kinh doanh và lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư.
Nhận thức rằng, việc nghiên cứu về chấm dứt Doanh nghiệp có ý nghĩa
quan trọng đối với việc nâng cao nhận thức và ứng dụng thực tiễn để từng bước
mở rộng và bảo hộ quyền tự do kinh doanh, đặc biệt là trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay. Do vậy, để tiếp thu có sàng lọc những
thành tựu hiện có, để góp phần đáp ứng yêu cầu thực tiễn về chấm dứt Doanh
nghiệp và để khắc phục những khiếm khuyết của pháp luật Việt Nam về vấn đề
này, học viên lựa chọn đề tài “Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt
Nam hiện nay” làm luận văn cao học luật của mình.
2



2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là nhằm làm rõ những vấn đề lý
luận về chấm dứt Doanh nghiệp; Làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật về chấm dứt Doanh nghiệp; Làm rõ những hạn chế, bất cập và
nguyên nhân của chúng trong các quy định BLDS 2005, Luật Doanh nghiệp
2005 để làm cơ sở đề xuất một số giải pháp và kiến nghị hoàn thiện.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn đã có những đóng góp về mặt lý luận và những phân tích về
mặt thực tiễn.
Luận văn đã đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về chấm dứt doanh nghiệp.
Trên cơ sở những kiến nghị và giải pháp luận văn đã trở thành một tài
liệu hữu ích cho các học viên nghiên cứu và tham khảo.
4. Tình hình nghiên cứu
Chấm dứt doanh nghiệp không thể xem là một vấn đề mới, bởi lẽ đơn
giản là pháp luật về doanh nghiệp đã ra đời khá sớm trong lịch sử loài người.
Hơn nữa, nó là một công cụ hữu hiệu trong hoạt động mưu sinh của con
người. Các thương nhân luôn luôn tìm kiếm việc sử dụng công cụ pháp lý để
chấm dứt doanh nghiệp một cách linh hoạt và hữu hiệu. Điều này dẫn đến
việc làm phát sinh nhu cầu nghiên cứu về chấm dứt doanh nghiệp. Thực tế,
pháp luật hiện hành đã đặt ra vấn đề chấm dứt doanh nghiệp. Tuy nhiên việc
nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn về chấm dứt doanh nghiệp hiện nay ở
Việt Nam vẫn được coi là một đề tài có giá trị quan trọng.
Nhận thức rằng nghiên cứu chấm dứt doanh nghiệp không thể không
dựa trên một nền tảng kiến thức pháp lý chung về doanh nghiệp, và từ đó đi
3



sâu phân tích pháp luật về chấm dứt doanh nghiệp từ lý luận cho tới thực tiễn
và đưa ra kiến nghị cho việc hoàn thiện. Do vậy, cần giới thiệu tình hình
nghiên cứu các vấn đề chung có liên quan và tình hình nghiên cứu trực tiếp về
chấm dứt doanh nghiệp. Cụ thể, có thể thấy một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu như sau:
- Xử lý tài sản thế chấp trong mối quan hệ với pháp luật về phá sản (Vũ
Thị Hồng – Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số định kỳ tháng 5 năm 2012);
- Khung pháp lý về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt
Nam (Vũ Thị Hồng – Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số định kỳ tháng 9 năm
2012);
- Mua bán, sáp nhập doanh nghiệp, thực trạng pháp luật và một số kiến
nghị (Vũ Ngọc Dũng – Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số định kỳ tháng 3 năm
2013);
- Địa vị pháp lý của tổ quản lý và thanh lý tài sản theo pháp luật phá
sản (Đặng Văn Huy – Tạp chí Dân chủ và pháp luật);
- Thực trạng pháp luật về giải thể doanh nghiệp, một số đánh giá và
kiến nghị hoàn thiện (Đặng Văn Huy – Tạp chí Luật học số 10 năm 2012);
- Hoàng Anh Tuấn, Chuyển đổi hình thức công ty theo pháp luật Việt
Nam, Luật án tiến sĩ luật học, 2012.
Tuy nhiên, các công trình nói trên chưa nghiên cứu một cách hệ thống,
toàn diện và đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn về chấm dứt doanh nghiệp. Kế
thừa những công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố của giới khoa
học pháp lý trong nước, Tác giả quyết tâm nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn để từ đó đề ra những phương hướng, kiến nghị lập pháp,
hành pháp về vấn đề này cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện của Việt Nam.

4


5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam hiện hành đang tồn tại một số khái
niệm chưa được làm rõ hoàn toàn như: khái niệm Doanh nghiệp, khái niệm
Công ty. Do vậy, để có thể nghiên cứu một cách chuyên sâu, tác giả xác định
đối tượng nghiên cứu là những Doanh nghiệp có tư cách chủ thể độc lập, có
tư cách pháp nhân. Với đề tài nghiên cứu đã chọn, tác giả chỉ tập trung giải
quyết vấn đề pháp lý của việc chấm dứt Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân
theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005.
6. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch
sử, và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các phương pháp mà luận văn sử dụng bao gồm: phương pháp phân
tích quy phạm, phân tích vụ việc, và phân tích lịch sử; phương pháp tổng hợp,
thống kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp điển hình
hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội; phương pháp hệ thống hóa các quy
phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá
thực trạng pháp luật.
Với phương pháp phân tích quy phạm, luận văn đã phân tích quy định
của pháp luật hiện hành về chấm dứt doanh nghiệp, qua đó chỉ ra các khiếm
khuyết, bất cập.
Khi phân tích vụ việc, luận văn đã chỉ ra khiếm khuyết trong thực tiễn
áp dụng pháp luật.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân
tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, luận văn sử dụng

5


phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về
vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể

hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật Doanh nghiệp.
Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh với pháp luật nước
ngoài để chỉ ra ưu nhược điểm, sự tiến bộ hay lạc hậu hoặc so sánh giữa pháp
luật hiện hành với các văn bản đã hết hiệu lực để chỉ ra sự thay đổi tích cực
hay tụt hậu.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, nội dung của Luận văn được bố cục như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chấm dứt doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về chấm dứt doanh nghiệp
Chương 3: Định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chấm dứt
doanh nghiệp
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤM DỨT DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm Doanh nghiệp
Từ góc nhìn ngôn ngữ, từ “enterprise” của tiếng Anh thường được dịch
sang tiếng Việt hiện nay là “Doanh nghiệp”, nhưng những năm đầu của thời
kỳ đổi mới theo Nghị quyết Trung ương VI, người ta đã từng dịch là “xí
nghiệp”). Ở Liên hiệp Vương quốc Anh có đạo luật được gọi là “Enterprise
Act 2002”. Trong Đạo luật này, tại Điều 129 quy định nguyên văn tiếng Anh:
“Enterprise” “means the activities, or part of the activities, of a business” [54,
tr 46] tức là nó được xem là các hoạt động, hoặc một phần của các hoạt động
của một việc kinh doanh.

6


Theo Deluxe Black’s Law Dictionary, “enterprise” trong pháp luật Hoa
Kỳ được hiểu theo hai nghĩa với các hoàn cảnh khác nhau. Nghĩa chung nhất
xem “enterprise là công cuộc, dự án hay cam kết kinh doanh” [58, tr 531].
Như vậy có thể hiểu “enterprise” là một hành vi thương mại.

Tuy nhiên, người ta thường hiểu doanh nghiệp là thực thể kinh doanh:
Doanh nghiệp là khái niệm chung nhất để chỉ các loại hình doanh
nghiệp, trong đó công ty là một loại hình doanh nghiệp”, và “công ty là một
loại hình doanh nghiệp với năm đặc điểm cơ bản i) là pháp nhân; ii) tách biệt
và là chủ thể pháp lý độc lập với chủ sở hữu” [50, tr 6].
Pháp luật Doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay cũng xác định Doanh
nghiệp là chủ thể kinh doanh, cụ thể Khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005
định nghĩa:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Như vậy, khái niệm doanh nghiệp theo quan niệm của pháp luật Việt
Nam thường dùng để chỉ những chủ thể kinh doanh có đăng ký kinh doanh,
bao gồm cả Doanh nghiệp tư nhân mà bản chất của Doanh nghiệp này chỉ là
cá nhân kinh doanh.
Thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam cho thấy, việc xem xét tư cách
pháp lý của doanh nghiệp tư nhân có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan
điểm thậm chí không chấp nhận doanh nghiệp tư nhân là một chủ thể của quan
hệ pháp luật. Quan điểm này đang hiện hữu tại các Phòng Đăng ký kinh doanh,
biểu hiện cụ thể là họ không chấp nhận Doanh nghiệp tư nhân là một cổ đông
hay thành viên Công ty TNHH. Có lẽ quan điểm này xuất phát từ việc quy định
thiếu thống nhất về tư cách chủ thể của Doanh nghiệp tư nhân trong Pháp luật
7


Doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể:
Với quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp thì DNTN đương
nhiên được hiểu là một chủ thể kinh doanh:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm

mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên, với quy định tại Khoản 3 Điều 143 Luật Doanh nghiệp 2005
thì DNTN không được coi là một chủ thể của quan hệ pháp luật:
Chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Toà án trong các tranh chấp liên
quan đến doanh nghiệp.
Trên cơ sở làm rõ một số quan điểm về bản chất Doanh nghiệp và để
thống nhất trong nghiên cứu, Luận văn đã giới hạn phạm vi nghiên cứu và chỉ
tập trung nghiên cứu việc chấm dứt Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân theo
Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005.
1.2. Khái niệm, bản chất và đặc điểm pháp lý chấm dứt doanh
nghiệp
1.2.1. Khái niệm và bản chất pháp lý chấm dứt doanh nghiệp
Luật Doanh nghiệp 2005 không có khái niệm cụ thể về chấm dứt doanh
nghiệp, tuy nhiên có quy định một số trường hợp cụ thể về chấm dứt doanh
nghiệp. Cụ thể: Khoản 3 Điều 150 quy định: Công ty bị chia chấm dứt tồn tại
sau khi các công ty mới được đăng ký kinh doanh; Khoản 4 Điều 152 quy
định: Sau khi đăng ký kinh doanh, các công ty bị hợp nhất chấm dứt tồn tại;
điểm c Khoản 2 Điều 153 quy định: Sau khi đăng ký kinh doanh, công ty bị
sáp nhập chấm dứt tồn tại; Khoản 3 Điều 154 quy định: Sau khi đăng ký kinh
8


doanh, công ty được chuyển đổi chấm dứt tồn tại; Đối với trường hợp giải thể
thì Luật quy định: cơ quan đăng ký kinh doanh xóa tên doanh nghiệp trong sổ
đăng ký kinh doanh.
Điều 99 BLDS 2005 quy định về chấm dứt pháp nhân, theo đó pháp
nhân chấm dứt trong các trường hợp: hợp nhất pháp nhân; sáp nhập pháp
nhân; chia pháp nhân; giải thể pháp nhân; Bị tuyên bố phá sản theo quy định
của pháp luật về phá sản. Pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm xoá tên trong

sổ đăng ký pháp nhân hoặc từ thời điểm được xác định trong quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy, so với Luật Doanh nghiệp thì Bộ luật Dân sự không quy định
trường hợp châm dứt do chuyển đổi hình thức pháp nhân. Chỉ với việc quy
định các trường hợp chấm dứt pháp nhân, pháp luật Việt Nam hiện hành đã
bộc lộ nhiều mâu thuẫn và đặc biệt là nhận thức về chấm dứt pháp nhân còn
quá mơ hồ, việc dùng thuật ngữ quá tuỳ tiện, cụ thể:
Bộ luật Dân sự 2005 sử dụng thuật ngữ “chấm dứt pháp nhân”. Tác giả
cho rằng việc dùng thuật ngữ này đảm bảo tính chính xác và đầy đủ về mặt
pháp lý. Tuy nhiên, Bộ luật này quy định các trường hợp chấm dứt pháp nhân
là chưa phù hợp. Bởi lẽ pháp nhân chưa thể chấm dứt trong các trường hợp:
hợp nhất pháp nhân; sáp nhập pháp nhân; chia pháp nhân. Vấn đề này có thể
luận giải như sau:
Đối với trường hợp hợp nhất pháp nhân: Bản chất pháp lý của vấn đề
này là hai hoặc nhiều pháp nhân được hợp nhất lại thành pháp nhân mới bằng
cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang pháp
nhân mới. Sự kiện pháp lý này có thể dùng cách ví von như “con dã tràng
sống trong vỏ ốc, chui từ vỏ ốc này sang vỏ ốc khác trong quá trình sinh
trưởng của mình” [19, tr 181]. Trường hợp này, các quyền yêu cầu và nghĩa
9


vụ của doanh nghiệp vẫn tồn tại. Do vậy, không thể coi là chấm dứt doanh
nghiệp.
Tương tự, việc sáp nhập pháp nhân, chia pháp nhân thì trách nhiệm
liên đới vẫn hiện hữu và quyền yêu cầu của người thứ ba cũng vẫn được đảm
bảo. Do vậy, không thể coi đó là chấm dứt doanh nghiệp.
Như vậy, việc chấm dứt có thể được chấp nhận đối với trường hợp:
giải thể pháp nhân và pháp nhân bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp
luật về phá sản.

Thời điểm chấm dứt được xác định kể từ thời điểm xóa tên trong sổ
đăng ký pháp nhân hoặc từ thời điểm được xác định trong quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Quy định này không đảm bảo tính chặt chẽ,
bởi lẽ việc xóa tên thường không đi liền với việc xóa bỏ mọi trách nhiệm, hay
việc xóa tên không đương nhiên là căn cứ chấm dứt quyền yêu cầu của người
thứ ba đối với pháp nhân, bởi một trong những quyền hiến định của các chủ
thể là được bảo hộ về quyền sở hữu đối với tài sản hợp pháp.
Luật Doanh nghiệp, với tư cách là luật chuyên ngành, nhưng không
những không đủ “dũng cảm” để sử dụng quyền năng pháp lý của mình, mà
còn “rón rén” và thiếu tri kiến pháp lý cơ bản khi quy định về chấm dứt doanh
nghiệp. Cụ thể, Luật này sử dụng thuật ngữ “chấm dứt tồn tại” đối với các
trường hợp công ty bị chia; công ty bị hợp nhất; công ty bị sáp nhập; công ty
được chuyển đổi. Về mặt pháp lý, chấm dứt tồn tại theo quy định của Luật
doanh nghiệp được hiểu như thế nào:
+ Đối với công ty bị chia, Luật Doanh nghiệp quy định “Các công ty
mới phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán,
hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị chia hoặc thỏa
thuận với chủ nợ, khách hàng và người lao động để một trong số các công ty
10


đó thực hiện các nghĩa vụ này”. Như vậy, nghĩa vụ của công ty bị chia chưa
chấm dứt, quyền yêu cầu của người thứ ba vẫn hiện hữu. Chỉ có tên gọi của
Công ty bị chia là không còn tồn tại.
+ Đối với công ty bị hợp nhất, Luật Doanh nghiệp quy định: Sau khi
đăng ký kinh doanh, các công ty bị hợp nhất chấm dứt tồn tại; công ty hợp
nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các
khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác
của các công ty bị hợp nhất.
+ Tương tự, đối với công ty bị tách Luật Doanh nghiệp quy định: công

ty bị tách và công ty được tách phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các
khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của
công ty bị tách, trừ trường hợp công ty bị tách, công ty mới thành lập, chủ nợ,
khách hàng và người lao động của công ty bị tách có thoả thuận khác.
Từ các luận giải nêu trên cho thấy, chấm dứt tồn tại của Doanh nghiệp,
theo quy định của Luật Doanh nghiệp chỉ đơn thuần là chấm dứt sự tồn tại của
tên gọi Doanh nghiệp đó mà thôi. Và về thời điểm chấm dứt, Luật xác định là
sau khi đăng ký kinh doanh. Đối với trường hợp giải thể thì xác định từ thời
điểm bị xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh.
Với đối tượng nghiên cứu là các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân
theo Luật Doanh nghiệp 2005, tác giả cho rằng chấm dứt doanh nghiệp là
chấm dứt tư cách pháp nhân của Doanh nghiệp. Sự kiện pháp lý này phát sinh
làm chấm dứt nghĩa vụ của Doanh nghiệp đối với người thứ ba, chấm dứt
nghĩa vụ trả nợ của Doanh nghiệp – người thứ ba chấm dứt quyền yêu cầu đối
với Doanh nghiệp. Khác với chuyển đổi hình thức doanh nghiệp, chỉ là
chuyển đổi hình thức kết cấu của doanh nghiệp, không làm chấm dứt hay thay
đổi nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp đó. Giống như câu ví von của Maurice
11


Cozian và Alain Viandier rằng “chuyển đổi hình thức công ty như hình ảnh dã
tràng sống trong vỏ ốc, chui từ vỏ ốc này sang vỏ ốc khác trong quá trình sinh
trưởng của mình” [19, tr 181]; Khác với chia doanh nghiệp, hợp nhất, sáp
nhập doanh nghiệp, quyền yêu cầu của người thứ ba trong trường hợp này
không bị chấm dứt.
Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân theo Luật Doanh nghiệp 2005
được xác định là Công ty Cổ phần, Công ty TNHH và Công ty Hợp danh. Về
mặt pháp lý, các doanh nghiệp này được tạo lập nên bởi ý chí của các thành
viên. Vấn đề này, có quốc gia quy định cụ thể trong luật thực định, có quốc
gia không quy định. Ví dụ: Ở Pháp, trừ công ty do một người thành lập, các

công ty khác đều được thành lập trên cơ sở hợp đồng, “công ty do hai hay
nhiều người thành lập trên cơ sở thoả thuận bằng hợp đồng về việc đóng góp,
sử dụng tài sản hoặc công sức của họ vào hoạt động kinh doanh chung nhằm
chia lãi hoặc thu lợi” [7, Điều 1832]; ở Ý, trong Bộ luật dân sự, tại điều 2247
quy định “Thông qua hợp đồng công ty, hai hay nhiều người góp tài sản hay
dịch vụ nhằm thực hiện chung một hoạt động kinh tế với mục đích chia sẻ lợi
nhuận kiếm được từ hoạt động đó”.
Ở Việt Nam, Luật Doanh nghiệp không đề cập đến vấn đề hợp đồng
thành lập công ty. Tuy nhiên, thực tế các Nhà đầu tư ngày càng quan tâm đến
vấn đề này. Có lẽ, các thành viên công ty nhận thức được rủi ro pháp lý trong
quan hệ giữa họ hoặc do nhận thức được ưu điểm của các quy định về thành
lập công ty liên doanh của Luật Đầu tư - một trong những công cụ hạn chế rủi
ro, giữa một hoặc nhiều bên nước ngoài với một hoặc nhiều bên Việt Nam để
thành lập công ty liên doanh. Mặc dù có tên gọi là hợp đồng liên doanh,
nhưng bản chất nó chính là hợp đồng thành lập công ty – là cơ sở kiến tạo nên
công ty liên doanh. Ngoại trừ, công ty TNHH một thành viên được hình thành
trên cơ sở hành vi pháp lý đơn phương. Các nhà đầu tư khi thành lập các loại
12


hình công ty có hai thành viên trở lên, họ thường giao kết các thoả thuận. Có
trường hợp các thành viên sáng lập giao kết hợp đồng thành lập công ty,
trường hợp khác họ họp, thảo luận và lập biên bản về việc thành lập công ty
trong đó quy định rõ các vấn đề cần thiết như: tên công ty, góp vốn, trụ sở, bộ
máy quản trị, phạm vi kinh doanh… xét về bản chất thì biên bản này là một
hợp đồng thành lập công ty.
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý ở Việt Nam, khi nghiên cứu để chứng
minh công ty có bản chất hợp đồng, TS. Ngô Huy Cương đã dẫn chiếu từ các
học thuyết “i) học thuyết hư cấu hay thực thể nhân tạo (fictyon or artyficial
entyty theory) xem công ty là một pháp nhân hay một thực thể nhân tạo được

thiết lập bởi nhà chức trách. Học thuyết này bắt nguồn từ Luật La Mã và luật
giáo hội với quan niệm về persona ficta” [59, tr 145]; ii) học thuyết thừa nhận
(fiat theory) hay học thuyết nhượng quyền (concession theory) xem sự tồn tại
của công ty bởi sự nhượng bộ của nhà nước. Các đặc quyền từ sự nhượng bộ
này cho phép các chủ sở hữu và các nhà đầu tư kinh doanh như một công ty.
“Học thuyết này còn có các tên gọi khác như học thuyết nguồn gốc chính phủ
(government paternity theory) hoặc học thuyết quyền công dân (franchise
theory)” [60, tr 4]; iii) học thuyết hiện thực (realistyc theory) hay học thuyết
về tính vốn có (inherence theory) xem nhân tính của công ty là sự thừa nhận
các lợi ích nhóm như một hiện tượng thực tế đã tồn tại; iv) học thuyết doanh
nghiệp (enterprise theory) nhấn mạnh tới doanh nghiệp thương mại cơ bản,
không nhấn mạnh tới thực thể-sự liên kết của những thực thể cấu thành; v)
học thuyết biểu tượng (symbol theory) xem công ty là một biểu tượng cho sự
liên kết của những cá nhân tạo thành công ty có nhân tính nhóm; vi) học
thuyết mối liên hệ hợp đồng (nexus of contracts) do các nhà kinh tế học phát
triển để tạo dựng các mô hình kinh tế [12].
Với bản chất pháp lý của mình, Công ty phải được chấm dứt bởi ý chí
13


của thành viên hoặc các thành viên. Tuy nhiên, tự do ý chí trong xã hội được
quản lý bằng pháp luật thì phải trong khuôn khổ những chuẩn tắc đã được
thừa nhận và áp dụng trên thực tế, bởi giao dịch hoặc hành vi của chủ thể có
thể được tạo lập trái pháp luật hoặc với tư cách là một thực thể kinh doanh,
một chủ thể của pháp luật, trong quá trình hoạt động doanh nghiệp luôn tiềm
ẩn nguy cơ gây ảnh hưởng tới cộng đồng hay người thứ ba. Hơn nữa, những
người tạo lập doanh nghiệp cũng có nhu cầu bảo hộ bởi pháp luật, nên việc
pháp luật can thiệp để buộc doanh nghiệp phải chấm dứt là một tất yếu khách
quan. Bởi lẽ đó, chấm dứt doanh nghiệp có thể chia thành nhiều trường hợp
như:

Chấm dứt doanh nghiệp bởi sự tự nguyện của thành viên;
Chấm dứt doanh nghiệp bắt buộc theo luật định;
Chấm dứt doanh nghiệp theo thủ tục hành chính;
Chấm dứt doanh nghiệp theo thủ tục tố tụng Toà án.
Tóm lại, chấm dứt doanh nghiệp theo LDN 2005 là chấm dứt tư cách
pháp nhân của doanh nghiệp trên cơ sở lựa chọn của thành viên hoặc theo quy
định của pháp luật; chấm dứt theo thủ tục hành chính; chấm dứt theo thủ tục
tố tụng Toà án. Chấm dứt doanh nghiệp làm chấm dứt nghĩa vụ của Doanh
nghiệp đối với người thứ ba và người thứ ba chấm dứt quyền yêu cầu đối với
Doanh nghiệp.
1.2.2. Ý nghĩa của chấm dứt doanh nghiệp
Thực tế cho thấy, khi gia nhập thương trường, các chủ thể luôn mong
muốn tối đa hoá một cách hợp lý những lợi ích, họ cố gắng tìm ra chiếc chìa
khoá, có thể giúp họ đạt được mục đích.

14


Xét về lợi ích, thành lập Doanh nghiệp là tạo ra một phương tiện để đáp
ứng nhu cầu sống nào đó của thành viên. Với bản chất là một hợp đồng hoặc
hành vi pháp lý đơn phương, Doanh nghiệp không thể không có trong kinh tế
thị trường, cho dù là kinh tế thị trường định hướng XHCN hay kinh tế thị
trường thực sự “Hợp đồng dân luật đóng vai trò quan trọng trong vận hành
của nền kinh tế tư bản. Chức năng cơ bản của hợp đồng quyết định bản chất
và giá trị xã hội của nó trong điều kiện xã hội của các nước phương Tây” [60,
tr 5]. Đối với một quốc gia đang đẩy mạnh phát triển kinh tế, thì không thể
thiếu một cơ sở hạ tầng pháp luật tập trung bảo vệ quan hệ hợp đồng. Do vậy,
việc chấm dứt Doanh nghiệp theo quyết định của thành viên cần được đảm
bảo. Như chúng ta đã biết, việc nhà lập pháp đặt ra các điều kiện, thủ tục, giấy
phép... là để bảo vệ, bảo đảm những giá trị, lợi ích công cộng nhất định hoặc

quyền và lợi ích của người thứ ba trong các giao dịch... Theo đó, pháp luật chỉ
ngăn cấm những hành vi của nhà đầu tư nếu có lý do chính đáng vì lợi ích
cộng đồng hoặc lợi ích người thứ ba. Vấn đề này đã được quy định tại Điều
14 Hiến pháp Việt Nam “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn
chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng
đồng”. TS. Ngô Huy Cương cho rằng “Luật tư không thể buộc bất kì ai hành
động trái với ý muốn của họ, nếu không có lý do chính đáng từ phía cộng
đồng” [11, tr 23-26].
Hơn nữa, lý do chấm dứt doanh nghiệp cũng gắn với tư duy lợi ích của
nhà đầu tư. PGS,TS. Phạm Duy Nghĩa đã nói đến một trong những chủ đích
lớn của Luật Doanh nghiệp là “giảm chi phí gia nhập thị trường”. Vấn đề đặt
ra là, người dân có quyền hành động theo ý muốn với chi phí thấp và không
xâm phạm đến lợi ích công, lợi ích của người thứ ba hay Nhà nước có quyền
ngăn cản mọi hành động của người dân một cách phi lý. Tuy nhiên, đôi khi
15


Nhà nước vẫn ngăn cản hành động của người dân một cách phi lý và theo đó,
người dân phải lựa chọn hành động với chi phí cao. Trường hợp dưới đây là
một minh chứng:
Công ty hợp danh A là chủ sở hữu một thương hiệu nổi tiếng thế giới trị
giá hàng tỷ USD. Với quy mô, lĩnh vực hoạt động hiện tại và khả năng tài
chính họ muốn chuyển đổi thành công ty cổ phần để thực hiện các dự án đầu
tư trong các lĩnh vực khác mà vẫn giữ được thương hiệu, hệ thống khách
hàng, nhân sự... Họ phải làm thế nào, phải tốn kém tiền bạc và thời gian như
thế nào để đạt được mục đích khi quốc gia mà công ty mang quốc tịch không
cho phép chuyển đổi từ công ty trách nhiệm vô hạn thành công ty cổ phần?
Để đạt được mục đích, các thành viên cùng nhau thành lập một công ty cổ
phần; thanh toán tất cả các khoản nợ (nếu có); công ty hợp danh, bằng hợp

đồng chuyển nhượng thương hiệu, hệ thống khách hàng, các tài sản khác...
của mình cho công ty cổ phần; giải quyết vấn đề về nhân sự; chuyển giao các
quyền yêu cầu phát sinh từ các giao dịch đã giao kết...và sau cùng giải thể
công ty hợp danh. Quá trình thực hiện các thủ tục này tốn rất nhiều thời gian,
công sức và chi phí như các khoản thuế phát sinh từ việc chuyển nhượng tài
sản, đăng ký lại tài sản, chi phí tư vấn đặc biệt là các khoản thuế... Trong khi
đó, nếu cho phép chuyển đổi thì chi phí rất thấp, không mất nhiều thời gian...
Như vậy, việc cản trở các nhà đầu tư hành động mà không vì lý do chính đáng
từ phía cộng đồng hoặc từ phía tha nhân sẽ làm cho Nhà nước kém hiệu quả với chi phí lớn phát sinh từ việc áp dụng các quy phạm pháp luật thì hiệu quả
cao sẽ không thể đạt được.
Như vậy, trong mọi trường hợp, Nhà nước nên tạo điều kiện cho các
chủ thể kinh doanh hành động theo ý muốn của họ, nếu hành động đó không
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của cộng đồng hoặc của tha nhân.

16


1.3.

Quyền tự do kinh doanh – nền tảng của tự nguyện chấm dứt

doanh nghiệp
1.3.1. Quyền tự do kinh doanh
Trong văn hóa châu Âu, khái niệm về tự do là một trong các tư tưởng
cơ bản, phản ánh thái độ của chủ thể đối với khả năng hành động của mình.
Về khởi thủy của tự do, có quan điểm cho rằng, con người, theo tự nhiên, tất
cả đều tự do, bình đẳng và độc lập, không một ai có thể bị đưa ra khỏi tình
trạng này. Như vậy, theo quan niệm này, tự do là sự vắng mặt những hạn chế
và cưỡng chế, là khả năng hành động theo chủ ý của con người. Tuy nhiên,
con người đã sống với nhau trong trạng thái tự nhiên như thế nào thì lịch sử

chưa lý giải cụ thể. Montesquieu khi viết về luật tự nhiên cũng chỉ gợi ý rằng
“Để hiểu được luật tự nhiên thì cần phải xem xét một con người trước khi
hình thành xã hội” [32, tr 42] mà không đưa ra dẫn chứng gì về con người
trước khi hình thành xã hội đã thực hiện quyền tự do như thế nào và quyền tự
do được đảm bảo bằng cách nào. John Locke mặc dù đã đưa ra khái niệm “Tự
do là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mà mình mong muốn mà
không gặp bất kỳ cản trở nào”. Tuy nhiên khi viết về trạng thái tự nhiên trong
tác phẩm khảo luận thứ hai về chính quyền, ông lại nói: “Trạng thái tự nhiên
có luật tự nhiên để cai quản... Không ai được phép làm hại đến sinh mạng, sức
khỏe, tạ do, hay tài sản của người khác, vì tất cả đều là tuyệt tác của một đấng
sáng tạo toàn năng và thông thái vô hạn” [25, tr 35-36]. Sự thật, các học giả,
triết gia…những người nghiên cứu về tự do, về trạng thái tự nhiên...mà chúng
ta biết đến đều được sinh ra trong một nhà nước nhất định. Do vậy, chúng ta
cần xem xét khởi thủy về tự do của con người xã hội trong mối liên hệ với
luật pháp và tương ứng là với trách nhiệm về việc tuân thủ nó và chế tài khi vi
phạm nó. Như vậy, quyền tự do ở đây cần được hiểu là tự do trong xã hội có
pháp luật, ở đó, việc xác định phạm vi hành xử của một người mang ý nghĩa
17


là bảo vệ quyền tự do của họ, nếu không có ranh giới đó thì quyền tự do của
họ luôn bị đe dọa xâm phạm và có thể dẫn đến không có tự do, vì bản tính tập
thể của con người, “tính bắt buộc” phải sống trong xã hội của nó.
Về hình thức, tự do của con người thể hiện ở hành vi lựa chọn, do vậy,
sự lựa chọn chỉ có thể là hiện thực khi các phương án lựa chọn hiện diện được
nhận thức. Tuy nhiên, tự do tự thân nó không dừng lại ở việc lựa chọn giữa
những khả năng hiện có mà còn thể hiện lối thoát ra khỏi những thực tại hiện
có bằng việc sáng tạo ra cái mới trên tính thần tôn trọng trật tự tự do. Nói theo
ngôn ngữ pháp lý hiện đại và trong khuôn khổ pháp lý là làm những điều mà
pháp luật không cấm. Sự tự do sáng tạo này, luôn đảm bảo sự liên hệ mật thiết

với trách nhiệm, thái độ tôn trọng pháp luật và quyền của những người khác.
Tự do chỉ có thể trong điều kiện có trật tự, còn trật tự trong xã hội hiện
đại lại do chính quyền đảm bảo. “Tự do tuyệt đối là sự chế nhạo đối với công
bằng. Công bằng tuyệt đối là sự phủ định tự do. Sức sống của cả hai khái
niệm này phụ thuộc vào sự tự hạn chế lẫn nhau của chúng. Không ai tự coi
mình là người tự do, nếu người đó đồng thời là người bất công và là người
công bằng, nếu đồng thời lại là người không tự do” [17, tr 345]. Một nhà
nước hiệu quả và công bằng không thể thiếu những quy định hạn chế hành vi
của công dân chống lại các chuẩn tắc pháp lý bằng cách áp dụng hay cảnh báo
sử dụng bạo lực, nói các khác là các quy định hạn chế tự do một cách thích
hợp. Vấn đề này ở Việt Nam đã được hiến định, cụ thể tại Khoản 2 Điều 14
Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị
hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng”.
Đề cập đến quyền tự do kinh doanh, có lẽ không thể nói đến quyền tự

18


do của chính quyền (cơ quan Nhà nước) mà phải nói đến quyền tự do kinh
doanh của cá nhân, tổ chức. Ngày nay, nguyên tắc “công dân được làm tất cả
những gì mà pháp luật không cấm” được phổ biến rộng rãi, pháp luật các
nước đều thừa nhận nguyên tắc này. Có lẽ, một quy định thể hiện nét nhất
nguyên tắc này được quy thể hiện trong Hiến pháp Mỹ, tại điều bổ sung thứ 9
ghi “Việc liệt kê một số quyền trong Hiến pháp không có nghĩa là phủ nhận
hay hạ thấp những quyền khác của người dân” [26, Điều 9]. Việt Nam, Điều
33 Hiến pháp quy định “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những
ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Qua các điều luật, chúng ta thấy, nhà
làm luật đã thể hiện trách nhiệm nhận thức và luật hóa quyền tự nhiên – tự do

kinh doanh để quyền này được đảm bảo thực thi trong cuộc sống.
Hiện tại, Nhà nước đang quản lý xã hội bằng pháp luật, trong đó trật tự
pháp luật được thiết lập để đảm bảo các quyền của con người, quyền công dân
“Konad Zweigert cho rằng ở một cách nhìn nhất định, nhiệm vụ trước tiên
của hệ thống pháp luật là bảo vệ tự do cá nhân và đảm bảo quyền tự định đoạt
của cá nhân” [61, tr 325]; Như vậy, có thể nhận thức rằng: Quyền tự do kinh
doanh là khả năng của chủ thể tự nguyện lựa chọn hợp lý một hoặc nhiều hoạt
động làm phát sinh quyền và nghĩa vụ, nhằm mục đích sinh lời, mà các hoạt
động này được pháp luật cho phép hoặc pháp luật không cấm nhưng không
ảnh hưởng đến tha nhân.
Tự do kinh doanh có vai trò và ý nghĩa quan trọng, trong Tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chủ Tịch dẫn
chiếu đến bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 “Tất cả mọi người đều
sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc”. Có lẽ, xuất phát từ quyền tối cao nhất của con
người – khi sinh ra có quyền được sống được bảo toàn về bản thân mình, mà
19


×