Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự trong hiến pháp việt nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.38 KB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TRƯỜNG THANH

HOµN THIÖN C¸C QUY §ÞNH VÒ QUYÒN D
¢N Sù
TRONG HIÕN PH¸p viÖt nam HIÖN HµNH
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: Chương trình đạo tạo thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. HÀ THỊ MAI HIÊN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Trường Thanh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng
LỜI CAM ĐOAN.......................................................................................................................................2
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.................2
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn..................2
Tôi xin chân thành cảm ơn!....................................................................................................................2
NGƯỜI CAM ĐOAN................................................................................................................................2
Nguyễn Trường Thanh...........................................................................................................................2
Khoản 2, Điều 31, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp
thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật
thì việc tuyên án phải được công khai”[27]. Về vị thế và tính chất của cơ quan xét xử, Điều 1 Luật
tổ chức TAND năm 2002 quy định: TAND tối cao, các TAND địa phương các Tòa án quân sự và các
Tòa án khác do luật định là các cơ quan xét xử của các nước CHXHCN Việt Nam...Trong phạm vi
chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN; bảo vệ chế độ XHCN và quyền
làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm của công dân.................................................................................................43
Điều 48, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án
dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, quy định hành vi vi phạm quy định về cấm kết hôn, vi

phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng; vi phạm quy định về ly hôn như sau:..........................68


CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
BLDS
BLHS
BLTTHS
CAT
CEDAW

CHXHCN
HĐND
HRC
MTTQ
OPCAT
OHCHR
ICCPR
ICESCR
ICPPED

ICRPD
TAND
TANDTC
UPR
UDHR
UNDP
UNHCR
VKSND
VKSNDTC


Tên đầy đủ
Bộ luật Dân sự
Bộ luật Hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự
Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt và đối xử tàn bạo,
vô nhân đạo hay hạ nhục khác, 1984 (Convention against Torture and
Other Cruel, Inhuman or Degrading Treatment or Punishment)
Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại
phụ nữ (Convention on the Elimination of All Forms of
Discrimination against Women)
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Hội Đồng nhân dân
Uỷ ban Nhân quyền
Mặt trận tổ quốc
Nghị định thư không bắt buộc của Công ước chống tra tấn
Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về nhân quyền (Office of the
High Commissioner for Human Rights)
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (International
Covenant on Civil and Political Rights)
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
(International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights)
Công ước quốc tế về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị đưa đi mất
tích, 2006 (International Convention for the Protection of All
Persons from Enforced Disappearance)
Công ước về quyền của những người khuyết tật, 2006 (Convention
on the Rights of Persons with Disabilities)
Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân tối cao
Cơ chế đánh giá nhân quyền định kỳ toàn thể (Universal Periodic Review)

Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, 1948 (Universal
Declaration of Human Rights)
Chương trình phát triển Liên hợp quốc (United Nations
Development Programme)
Văn phòng Cao uỷ Liên hợp quốc về người tỵ nạn (Office of the
United Nations High Commissioner for Refugees)
Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu

Bảng 1.1:

Tên bảng

Trang
Error:

Một số sự kiện đánh dấu sự phát triển của tư tưởng về Reference
quyền con người của nhân loại từ trước đến nay

source
not found
Error:

Bảng 1.2:

Một số các cách phân loại quyền con người


Tổng hợp khái quát các quyền và tự do dân sự được
Bảng 1.3:

ghi nhận trong UDHR, ICCPR một số công ước về
quyền con người

Reference
source
not found
Error:
Reference
source
not found


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là một giá trị phổ biến và thiêng liêng đối với mọi
người, mọi quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, cho đến nay, nhận thức về quyền con
người nói chung vẫn chưa đầy đủ. Xuất phát từ những điều kiện, đặc điểm về
văn hóa và văn minh trong mỗi giai đoạn phát triển, mỗi dân tộc, quốc gia có
những đặc thù nhất định trong việc ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ quyền con
người trong hệ thống pháp luật của mình.
Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc và hơn 100 năm chịu ách đô hộ của
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, phải gánh chịu những hy sinh to lớn để giành
độc lập dân tộc và tự do của Tổ quốc, bị tước đi hầu hết các quyền cơ bản vốn
có của một con người như quyền được sống, được tự do, được hạnh phúc, hơn
ai hết, dân tộc Việt Nam rất hiểu và trân trọng các giá trị thiêng liêng của
quyền con người. Do vậy, ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn

dân, toàn quân ta tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, giành
chính quyền về tay nhân dân, thành lập ra nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng
hòa ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng công bố trước toàn
thế giới bản Tuyên ngôn độc lập, lần đầu tiên khẳng định tôn trọng các quyền
công dân và quyền con người trên đất nước Việt Nam: “Tất cả mọi người đều
sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự
do và mưu cầu hạnh phúc” [18]. Ngay sau khi giành được chính quyền, Việt
Nam đã nhanh chóng tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội, xây dựng và ban
hành Hiến pháp (1946), trong đó các quyền tự do cơ bản của công dân - bộ
phận quan trọng nhất của quyền con người đã được trân trọng ghi nhận. Tiếp
đó, sự ra đời của các bản Hiến pháp 1959, 1980. Đặc biệt, năm 1982, Nhà
nước ta gia nhập hai công ước quốc tế cơ bản về quyền con người là: Công

1


ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR) và Công ước
quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, năm 1966 (ICESCR) nhằm
thể hiện với nhân dân và thế giới sự tôn trọng, bảo đảm quyền công dân,
quyền con người là bản chất của chế độ xã hội XHCN, sau đó là Hiến pháp
1992, Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) và hiện hành là Hiến pháp
năm 2013 đã ngày càng hoàn thiện hơn các quy định về các quyền cơ bản của
công dân nhằm hướng tới quyền con người ngày càng được đảm bảo một
cách tốt nhất.
Việc ra đời Hiến pháp 2013 đánh dấu một bước hoàn thiện mới về
quyền con người trong pháp luật Việt Nam, thể hiện sự tiến bộ vượt bậc về
nhận thức và tư duy đối với lĩnh vực quyền con người, quyền công dân. Tuy
nhiên, nhằm đảm bảo tính thống nhất giữa Hiến pháp hiện hành với các văn
bản luật dưới nó trở thành vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết, bởi Hiến pháp bản

thân nó là một đạo luật gốc, khi Hiến pháp thay đổi thì các văn bản luật đảm
bảo cơ chế thực thi cho Hiến pháp cũng cần phải thay đổi theo, xuất phát từ
thực tế đó tác giả chọn đề tài: "Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự
trong Hiến pháp Việt Nam hiện hành" để nghiên cứu luận văn thạc sĩ.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1 Mục tiêu tổng quát: Đề xuất những luận cứ khoa học cho việc hoàn
thiện các quy định Hiến pháp hiện hành về các quyền dân sự.
2.2 Mục tiêu cụ thể: Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ
nghiên cứu đặt ra là:
- Làm rõ những vấn đề lý luận chung về các quyền dân sự trong luật
nhân quyền quốc tế và Hiến pháp, pháp luật Việt Nam;
- Nghiên cứu, phân tích những qui định Hiến pháp hiện hành về các
quyền dân sự trong tương quan với những giá trị phổ biến của quyền con
người theo Luật Nhân quyền quốc tế và định hướng phát triển của Nhà nước

2


pháp quyền Việt Nam; tìm ra những tiến bộ, hạn chế, bất cập của Hiến pháp
Việt Nam hiện hành;
- Đưa ra kiến nghị về phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện các
qui định của Hiến pháp Việt Nam về các quyền dân sự phù hợp với giá trị
quyền con người của Nhà nước pháp quyền Việt Nam trong giai đoạn mới.
3. Tính mới của đề tài và ý nghĩa của luận văn
3.1. Tính mới:
- Nêu và phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của Hiến pháp về các
quyền dân sự;
- Đánh giá cách tiếp cận và phân tích nội dung các quy định về các
quyền dân sự trong Hiến pháp và sự tương thích với luật nhân quyền quốc tế;
- Nêu và phân tích, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nội dung các

quy định pháp luật về các quyền dân sự.
3.2. Ý nghĩa của luận văn:
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước
trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật có liên quan (đến chủ đề của luận
văn). Ngoài ra luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động
giảng dạy, nghiên cứu ở Khoa Luật ĐHQG Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác
của Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Là các công trình khoa học về quyền con
người, quyền công dân, về nhà nước và pháp luật, về Hiến pháp và hệ thống
chính trị; các văn kiện quốc tế về nhân quyền, văn kiện của Đảng và Nhà
nước về xây dựng và hoàn thiện nhà nước và pháp luật, Hiến pháp Việt Nam
và của một số nước khác…
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của Hiến pháp

3


hiện hành về các quyền dân sự. Quyền dân sự trong Luật Nhân quyền Quốc tế
và Pháp luật Việt Nam (Bao gồm các quyền: Quyền không bị phân biệt đối xử,
được thừa nhận và bình đẳng trước pháp luật; Quyền sống, tự do và an ninh cá
nhân; Quyền về xét xử công bằng; Quyền về tự do đi lại, cư trú; Quyền được bảo
vệ đời tư; Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo; Quyền kết hôn, lập gia
đình và bình đẳng trong hôn nhân).
5. Tổng quan tài liệu
Trong khoa học pháp lý nước ta cũng như quốc tế, vấn đề bảo đảm
quyền cơ bản con người nói chung, quyền dân sự nói riêng đã được nhiều tác
giả nghiên cứu từ các góc độ và với các mức độ khác nhau. Các công trình
nghiên cứu đã công bố:”

- Trong nước có các công trình như: "Quyền con người trong thế giới hiện
đại" của nguyên Giám đốc trung tâm quyền con người của Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh GS.TS. Hoàng Văn Hảo và Phạm Ích Khiêm; “Xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do GS.TS. Đào Trí Úc làm
chủ biên; “Hiến pháp trong Nhà nước pháp” quyền do GS.TS. Nguyễn Đăng
Dung làm chủ biên; “Bàn về quyền con người, quyền công dân” của GS.TS.
Trần Ngọc Đường; “Xây dựng xã hội dân sự ở Việt Nam – Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” do GS.TS. Dương Xuân Ngọc làm chủ biên...
- Ở nước ngoài cũng đã nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền
con người trong Nhà nước pháp quyền nói chung (The Rule of law của M.
Hager); bảo đảm quyền con người trong hệ thống tư pháp (Saudi Arabia,
human rights: Judicial system).
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa MácLênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), Tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà nước

4


pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về bảo đảm quyền con người. Việc nghiên cứu
được thực hiện từ góc độ lý luận chung về quyền con người và sử dụng cách
tiếp cận liên kết.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng
hợp, lịch sử, so sánh, thống kê v.v...
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã nghiên cứu thực tiễn việc
quy định về các quyền dân sự trong luật nhân quyền quốc tế, pháp luật Việt
Nam và một số nước trên thế giới làm cơ sở thực tiễn cho việc nghiên cứu.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của các quy định về các quyền

dân sự theo Hiến pháp Việt Nam
Chương 2: Nội dung các quyền con người về dân sự theo quy định của
Hiến pháp Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về các
quyền dân sự theo Hiến pháp Việt Nam hiện hành.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ CÁC
QUYỀN DÂN SỰ THEO HIẾN PHÁP VIỆT NAM
1.1. Lý luận chung về quyền con người và bảo vệ quyền con người
về dân sự bằng hiến pháp
1.1.1. Nhận thức chung về quyền con người
Quyền con người (nhân quyền - human right) là một phạm trù đa diện,
do đó từ trước đến nay có rất nhiều định nghĩa về quyền con người đã được
công bố tùy theo các cách tiếp cận khác nhau, nhưng không định nghĩa nào
bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người. Tuy nhiên, ở cấp độ
quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền
con người (OHCHR) thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo
định nghĩa này, Quyền con người: “là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác
dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ
mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của
con người” [9, tr.37].
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng theo quan niệm chung
của cộng đồng quốc tế thì quyền con người được xác định dựa trên hai bình
diện chủ yếu là giá trị đạo đức và giá trị pháp luật. Dưới bình diện đạo đức,
quyền con người là giá trị xã hội cơ bản, vốn có của con người như nhân
phẩm, bình đẳng xã hội, tự do...; dưới bình diện pháp lý, để trở thành quyền,

những đặc quyền phải được thể chế hóa bằng các chế định pháp luật quốc tế
và pháp luật quốc gia. Xét chung lại, quyền con người thường được hiểu là
những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo
vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Trong lịch sử chính trị tư tưởng của nhân loại, ngay từ thời cổ đại đã có

6


sự bàn luận về các quyền của con người. Ở thời kỳ đó, thị dân ở một số thành
phố Ai Cập đã sử dụng các quyền như quyền tự do ngôn luận, quyền bình
đẳng của tất cả mọi người trước pháp luật. Các triết gia thời đó cho rằng, các
quyền tự nhiên thuộc sở hữu của tất cả mọi người. Hammurabi (người sáng
lập ra Babylon cổ đại) quan niệm rằng, công lý bùng nổ để ngăn chặn kẻ
mạnh làm hại người yếu. Còn Mạnh Tử (Trung Quốc cổ đại) từ ba trăm năm
trước Công nguyên đã khẳng định rằng, cá nhân con người là vô cùng quan
trọng, nhất cách của vua chúa ít quan trọng hơn... Lịch sử phát triển của nhân
loại, các tư tưởng về quyền con người không chỉ thể hiện thông qua các đạo
luật như: Bộ luật Hammurabi (khoảng năm 1780 TCN), Bộ luật của vua
Cyrus Đại đế ban hành khoảng năm 576-529 TCN; Bộ luật do nhà vua
Ashoka ban hành vào khoảng năm 271 – 231; Hiến pháp Medina do nhà tiên
tri Muhammad sáng lập vào năm 622; Đại Hiến chương Magna Carta (1215)
và Bộ luật quyền (1689) của nước Anh; Bộ luật Hồng Đức (Quốc Triều Hình
Luật (1479-1497)) của Việt Nam; Tuyên ngôn về các quyền của con người và
của công dân (1789) của nước Pháp; Tuyên ngôn Độc lập (1776) và Bộ luật
về các quyền (1789) của Mỹ…mà còn được phản ánh một cách sâu sắc và cụ
thể trong các tư tưởng, học thuyết tôn giáo, chính trị và pháp lý như Kinh Vệ
Đà của đạo Hinđu ở Ấn Độ, Kinh phật của đạo Phật; Kinh Thánh của đạo
Thiên chúa và Kinh Kôran của đạo Hồi; Bàn về tự do của John Stuart Mill
(1959); các quyền của con người cảu Thomas Pain (1791) và còn nhiều tư

tưởng, học thuyết về con người của các nhà triết học tiêu biểu như: Thomas
Hobbes (1588-1679), John Locke (1632-1704), Thomas Paine (1731 – 1809)…
Vì vậy có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề quyền con người, do cách tiếp
cận, hoàn cảnh lịch sử, tư tưởng con người theo thế hệ, chế độ chính trị… tuy
nhiên có thể thấy học thuyết Mác – Lênin có cách nhìn khái quát, đầy đủ, toàn
diện về vấn đề con người hơn cả.

7


Học thuyết Mác – Lê nin thể hiện những tư tưởng nhân văn chân chính
nhất của loài người, là sự kế thừa một cách biện chứng những giá trị tinh hoa
của nhân loại về con người và quyền con người, xuất phát từ con người là một
thực thể thống nhất, một “Sinh vật – xã hội”. Do đó, quyền con người là sự
thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” và “quyền xã hội”, sự chế định
bằng các quy chế pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Sự thống nhất giữa hai yếu tố đó có thể tìm thấy trong lý luận của
C.Mác về quyền con người. C.Mác cho rằng, con người là sản phẩm cao nhất
của tiến trình vận động và phát triển của lịch sử, một mặt là sản phẩm của
những điều kiện xung quanh trong suốt cuộc đời và do đó lại chính là xã hội
sản sinh ra con người. Bản thân con người là sự thống nhất giữa mặt tự nhiên
và mặt xã hội. Từ đó, việc giải quyết nhu cầu của mỗi cá nhân chỉ có thể là
đúng khi đặt nó trong quan hệ xã hội, bởi vì, chỉ có trong cộng đồng thì mỗi
cá nhân mới có những phương tiện, điều kiện để phát triển toàn diện những
năng khiếu của mình và mới có thể có tự do cá nhân.
Tính lịch sử của quyền con người được C.Mác quan niệm rằng, quyền
con người không phải là một khái niệm trừu tượng và không chỉ là quyền
mang tính tự nhiên mà luôn gắn với cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, gắn
với trình độ, tiến bộ xã hội trong từng thời kỳ. Nghĩa là, quyền con người phụ
thuộc vào phương thức sản xuất và quan hệ sản xuất quy định nên chế độ

chính trị - xã hội ấy.
Quyền con người mang tính nhân loại sâu sắc vì nó là kết quả cuộc đấu
tranh của toàn thể nhân dân lao động nhằm đập tan ách thống trị trên toàn thế
giới giành lại quyền tự do chân chính cho mình, là giá trị nhân văn cao quý nhất
mà xã hội loài người hướng tới, là sự giải phóng hoàn toàn cá nhân con người để
phát triển toàn diện nhân cách của mình. Điều đó chỉ có thể thực hiện được
không chỉ ở một quốc gia, một dân tộc, mà phải là sự giải phóng toàn nhân loại.

8


Bảng 1.1: Một số sự kiện đánh dấu sự phát triển của tư tưởng về quyền
con người của nhân loại từ trước đến nay
Thời gian
1789 TCN
1200 TCN
570 TCN
586 – 456 TCN
479 – 421 TCN
7-1 TCN
610 – 612
1215
1689
1776
1789
1791
1859
1863 – 1864
1917
1919

1945
1948
1966
1968
1993
2002
2006

Sự kiện, văn kiện
Bộ luật Hammurabi
Kinh vệ đà
Luật của Cyrus Đại đế
Kinh phật
“Luật ngữ” của Khổng tử
Kinh Thánh
Kinh Kôran
Đại hiến chương Magna Carta (Anh)
Luật về Quyền (Anh); “Hai khảo luận về chính quyền” của John Locker
“Tuyên ngôn độc lập” (Mỹ)
“Tuyên ngôn quyền con người và quyền công dân” (Pháp)
Bộ luật về các quyền (10 tu chính án đầu tiên của hiến pháp) (Mỹ)
“Các quyền của con người” của Thomas Pain
“Bàn về tự do” của John Stuart Mill
Ủy ban Chữ Thập đỏ quốc tế được thành lập, Công ước Giơnevơ
lần thứ I được thông qua, mở đầu cho ngành luật nhân đạo quốc tế
Cách mạng tháng mười Nga
Hội quốc liên và Tổ chức Lao động thế giới (ILO) được thành lập
Liên hợp quốc ra đời, thông qua Hiến chương Liên hợp quốc
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người
Công ước quốc tế về các quyền chính trị, dân sự và Công ước về

các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ nhất tại Têhêran (Iran)
Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai tại Viên (Áo),
thông qua Tuyên bố Viên và Chương trình hành động
Quy chế Rô ma có hiệu lực, Tòa án hình sự quốc tế (thường trực)
được thành lập.
Cải tổ bộ máy quyền con người của Liên hợp quốc, thay thế Ủy
ban quyền con người bằng Hội đồng quyền con người

Nguồn: Khoa Luật – ĐHQGHN (2011), Giáo trình Lý luận và pháp luật về
Quyền con người, tr.56-57, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Ngày nay, trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, những nguyên tắc về
quyền con người trở thành những quy tắc ứng xử, những chuẩn mực pháp lý
quốc tế được ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế quan trọng như Hiến

9


chương Liên hợp quốc, trong các tuyên ngôn, các công ước quốc tế mà các
thành viên tham gia có nghĩa vụ bắt buộc phải tuân theo (theo thống kê, Liên
hợp quốc đã thông qua trên 70 văn bản quốc tế về lĩnh vực quyền con người
trong đó có 25 công ước). Hệ thống đồ sộ các văn kiện pháp lý quốc tế ấy làm
cho các quyền con người có căn cứ để được tôn trọng và bảo vệ. Ở nhiều
quốc gia, trong đó có Việt Nam. Việc bảo đảm quyền con người của các quốc
gia thể hiện ở ba nghĩa vụ cụ thể là:
Thứ nhất, nghĩa vụ tôn trọng (obiligation to respect): Các nhà nước có
nghĩa vụ kiềm chế không can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc hưởng thụ
các quyền con người của các chủ thể quyền. Nghĩa vụ này là nghĩa vụ thụ động
vì nó không bắt buộc các nhà nước phải chủ động đưa ra những sáng kiến, biện

pháp, chương trình hỗ trợ các công dân trong việc hưởng thụ quyền.
Thứ hai, nghĩa vụ bảo vệ (obligation to protect): Các nhà nước có
nghĩa vụ ngăn chặn sự vi phạm quyền con người của các bên thứ ba. Nghĩa vụ
này là nghĩa vụ chủ động vì để ngăn chặn sự vi phạm quyền con người của
các bên thứ ba, nhà nước phải chủ động đưa ra những biện pháp và xây dựng
những cơ chế phòng ngừa, xử lý những hành vi vi phạm.
Thứ ba, nghĩa vụ thực hiện (obligation to fulfil): Các nhà nước có nghĩa
vụ phải có những biện pháp nhằm hỗ trợ công dân hưởng thụ đầy đủ các quyền
con người. Đây cũng được coi là nghĩa vụ chủ động, bởi nó yêu cầu các nhà
nước phải có những kế hoạch, chương trình cụ thể để bảo đảm cho mọi công dân
có thể hưởng thụ đến mức cao nhất có thể các quyền con người.
Như vậy, nhìn ở góc độ, cấp độ, tính chất nào thì quyền con người cũng
được xác định như những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và
tuân thủ. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân
loại mới được bảo vệ và có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá
nhân với tư cách là một con người. Cho dù cách nhìn nhận có những khác biệt

10


nhất định, một điều rõ ràng là quyền con người là những giá trị cao cả cần
được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội, trong mọi giai đoạn lịch sử.
1.1.2. Quyền dân sự trong phân loại về quyền con người
Trong lý luận nhận thức về quyền con người, quyền dân sự cùng với
các quyền chính trị được xếp vào thế hệ thứ nhất của quyền con người. Sự ra
đời các quyền này gắn liền với giai đoạn phát triển các học thuyết về các
quyền tự nhiên, với sự bùng nổ cách mạng đòi giải phóng con người, bảo đảm
quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Các quyền này được quy
định tại Điều 2 đến Điều 21 Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới và trong Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. Quyền dân sự được đề cập ở

đây là quyền con người về dân sự, là các quyền mang những thuộc tính như:
i) Tính thống nhất và gắn bó hữu cơ; ii)Tính không thể phân chia của quyền
con người; iii) Tính không thể chuyển nhượng; iv) Tính phổ biến.
Khi nghiên cứu về quyền con người, người ta phân loại quyền con
người theo nhiều cách khác nhau tùy vào góc độ, mục đích nghiên cứu, cách
phân loại cơ bản và chủ yếu nhất hiện nay là phân loại quyền con người theo
thế hệ quyền con người hoặc theo lĩnh vực. Tuy nhiên, sự phân loại quyền con
người chỉ có ý nghĩa tương đối vì bản chất của quyền con người là một thể
thống nhất không phân chia. Trong các văn kiện quốc tế hoặc trong các công
trình khoa học, quyền con người được phân loại thành hai nhóm chính: nhóm
các quyền dân sự - chính trị và nhóm các quyền kinh tế - xã hội - văn hóa.
Đây cũng là cách phân chia được sử dụng khi soạn thảo bộ luật nhân quyền
quốc tế. Nhóm quyền dân sự - chính trị bao gồm các quyền như: quyền bầu
cử, ứng cử; quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; các quyền tự do cơ
bản; quyền được bảo đảm an ninh cá nhân; quyền bình đẳng…; Nhóm quyền
kinh tế - xã hội - văn hóa bao gồm quyền làm việc, quyền sở hữu, quyền kinh
doanh, quyền được bảo vệ sức khỏe, quyền được học tập và sáng tạo; quyền

11


hoạt động văn hóa - nghệ thuật…
Ngoài ra, quyền con người có thể được phân chia theo chủ thể của
quyền. Có thể chia quyền con người ra thành quyền cá nhân; quyền của nhóm
như quyền của phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi…, và quyền tập thể như quyền
dân tộc tự quyết và quyền của các dân tộc thiểu số.
Việc phân loại các quyền như vậy cho phép nhận rõ hơn đặc điểm, tính
chất và những yêu cầu đặc thù trong việc bảo đảm mỗi loại quyền con người.
Dưới các góc độ khác nhau (lịch sử - xã hội, triết học, chính trị, pháp lý…) sẽ
có các cách phân loại khác nhau (Phân loại theo lĩnh vực; phân loại theo chủ

thể của quyền; phân loại theo một số tiêu chí khác…) tuy nhiên phân loại chỉ
nhằm mục đích nghiên cứu và thực thi, chứ không nhằm xếp loại theo thứ tự
ưu tiên hay tầm quan trọng của các quyền con người, bởi việc bảo đảm tất cả
các quyền con người đều nằm trong mối liên hệ hữu cơ, tác động lẫn nhau và
đều phải coi trọng như nhau.
Bảng 1.2: Một số các cách phân loại quyền con người
TT
Tiêu chí phân loại
1. Lĩnh vực
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

Các loại quyền
Quyền chính trị, quyền dân sự Quyền kinh tế, quyền xã
hội, quyền văn hóa
Chủ thể
Quyền cá nhân
Quyền của nhóm
Quan điểm về nguồn gốc Quyền tự nhiên
Quyền luật định
Mức độ pháp điển hóa Quyền cụ thể
Quyền hàm chứa
Phương thức bảo đảm Quyền chủ động
Quyền thụ động
Điều kiện hưởng thụ

Quyền tuyệt đối
Quyền có điều kiện
Sự thừa nhận
Quyền tự do
Quyền đòi hỏi
Giới hạn áp dụng
Quyền có thể bị hạn chế
Quyền không thể bị hạn chế

Nguồn: Khoa Luật – ĐHQGHN (2011), Giáo trình Lý luận và pháp luật về
Quyền con người, tr.69, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Để thực hiện trách nhiệm quốc gia thành viên của các Công ước Liên
hợp quốc về quyền con người, việc nhận thức và nội luật hóa các quy định về
quyền con người trong hệ thống luật pháp quốc gia là rất quan trọng. Từ góc
độ pháp lý, có thể hiểu Luật nhân quyền quốc tế là một hệ thống các quy tắc,

12


tiêu chuẩn và tập quán pháp lý quốc tế xác lập, bảo vệ và thúc đẩy các quyền
và tự do cơ bản cho mọi thành viên của cộng đồng nhân loại. Luật Nhân
quyền quốc tế bao gồm hàng trăm văn kiện pháp lý quốc tế về vấn đề này, kể
cả những văn kiện mang tính ràng buộc (các công ước, nghị định thư) và các
văn kiện không mang tính ràng buộc (các tuyên bố, tuyên ngôn, khuyến nghị,
hướng dẫn…) trong đó bao gồm cả các văn kiện có hiệu lực toàn cầu và khu
vực. Trong luận văn này tác giả chủ yếu đề cập đến hai văn kiện chủ yếu của
Bộ luật quốc tế về nhân quyền bao gồm Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền
con người năm 1948 (UDHR) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị (ICCPR - được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào năm

1966) để phân tích rõ hơn về quyền dân sự được quy định trong 02 văn bản
này, đồng thời tìm hiểu rõ hơn việc nội luật hóa các quyền dân sự vào pháp
luật Việt Nam, thông qua văn bản có tính pháp lý cao nhất là Hiến pháp Việt
Nam năm 2013.
Có thể hiểu Quyền dân sự, theo “Tuyên ngôn thế giới về quyền con
người năm 1948” của Liên hợp quốc, được xem là những giá trị của tất cả
mọi người mà các nhà nước phải tôn trọng, bảo vệ. Quyền dân sự thực chất
là quyền tự do cá nhân, gắn liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao
cho người khác, như: Quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân; Quyền
không bị bắt làm nô lệ; Quyền không bị tra tấn, quyền được đối xử nhân đạo;
Quyền tự do đi lại và cư trú; Quyền có quốc tịch; Quyền kết hôn và xây dựng
gia đình… Những quyền này đã được đưa vào Công ước quốc tế về các quyền
dân sự - chính trị năm 1966.
Bảng 1.3: Tổng hợp khái quát các quyền và tự do dân sự được ghi nhận
trong UDHR, ICCPR một số công ước về quyền con người
Quyền, tự do

UDHR

Quyền không bị phân biệt Các Điều 1, 2, 6, 7, 8

13

ICCPR và một số công
ước khác
Các Điều 2, 3, 16 và 26 ICCPR


đối xử, được thừa nhận và
bình đẳng trước pháp luật

Quyền sống

Điều 6 ICCPR, CRC, CPPCG,

Điều 3

ICSPCA

Quyền được bảo vệ không
bị tra tấn, đối xử hoặc trừng
phạt tàn bạo, vô nhân đạo

Điều 7 ICCPR

Điều 5

CAT

hoặc hạ nhục
Điều 8 ICCPR Các điều ước về
Quyền được bảo vệ không
bị bắt làm nô lệ hay nô dịch

xóa bỏ chế độ nô lệ (1926, 1953,
Điều 4

1956) và trấn áp buôn người,
mại dâm người khác (1949,
2000)


Quyền được bảo vệ khỏi bị
bắt, giam giữ tùy tiện
Quyền được đối xử nhân đạo

Điều 9

Điều 9 ICCPR

và tôn trọng nhân phẩm của Điều 5

Điều 10 ICCPR

những người bị tước tự do
Quyền về xét xử công bằng Điều 10 và 11
Quyền về tự do đi lại, cư trú Điều 13
Quyền được bảo vệ đời tư
Điều 12
Quyền tự do tư tưởng, tín
Điều 18
ngưỡng, tôn giáo
Quyền kết hôn, lập gia đình
Điều 16
và bình đẳng trong hôn nhân

Các Điều 11, 14 và 15 ICCPR
Các Điều 12 và 13 ICCPR
Điều 17 ICCPR
Điều 18 ICCPR
Điều 23 ICCPR và Điều 10
ICESCR


Nguồn: Khoa Luật – ĐHQGHN (2011), Giáo trình Lý luận và pháp luật về
Quyền con người, tr.153-154, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Qua nghiên cứu, có thể thấy cùng với cơ chế quốc tế bảo vệ và thúc đẩy
quyền con người, những chuẩn mực quốc tế về quyền con người hay còn gọi
là các quy phạm quốc tế về các quyền và tự do của con người là một trong hai
bộ phận quan trọng nhất cấu thành luật nhân quyền quốc tế. Xét ở góc độ
pháp điển hóa, các quyền và tự do cá nhân cơ bản được ghi nhận trong Tuyên
ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 (UDHR), sau đó, được tái
khẳng định và cụ thể hóa trong những văn kiện quốc tế khác mà đặc biệt là

14


Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) được Đại hội đồng
Liên hợp quốc thông qua vào năm 1966. Theo đó các nhóm Quyền Dân sự
được phân chia thành 11 nhóm quyền sau đây:
(1) Quyền sống: Được đề cập trong Điều 3 UDHR, Điều 6 ICCPR.
(2) Quyền không bị phân biệt đối xử, được thừa nhận và bình đẳng
trước pháp luật: Được quy định tại các Điều: 1, 2, 6, 7, 8 của UDHR và các
Điều 2, 3, 16 và 26 ICCPR.
(3) Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn
bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục: Quyền này được đề cập ở Điều 5 UDHR,
Điều 7 ICCPR
(4) Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt làm nô lệ hay nô dịch: Quyền
này được đề cập trong Điều 4 UDHR và Điều 8 ICCPR.
(5) Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện: Quyền này
là cốt lõi của tự do và an toàn cá nhân, được quy định trong Điều 9 UDHR và
Điều 9 ICCPR.

(6) Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của
người bị tước tự do: Quyền này được quy định trong Điều 10 ICCPR.
(7) Quyền về xét xử công bằng: Được đề cập trong các Điều 10 và 11
UDHR và các điều 14, 15 và 11 ICCPR.
(8) Quyền về tự do đi lại, cư trú: Được đề cập trong điều 13 UDHR
và Điều 12, 13 ICCPR.
(9) Quyền được bảo vệ đời tư: Quy định trong Điều 12 UDHR và
Điều 17 ICCPR.
(10) Quyền tự do chính kiến, niềm tin, tín ngưỡng, tôn giáo: Được
ghi nhận trong Điều 18 UDHR và Điều 18, 20 ICCPR.
(11) Quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân: Quyền
này được quy định tại Điều 16 UDHR, Điều 23 ICCPR và Điều 10 ICESCR.
1.2. Quyền con người về dân sự theo Hiến pháp Việt Nam qua các

15


giai đoạn phát triển
Ở Việt Nam, thuật ngữ quyền con người được nhắc đến đầu tiên từ Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945, người đã nhắc
đến con người rồi suy rộng ra là quyền tự quyết của dân tộc làm căn nguyên
cho cuộc đấu tranh giành độc lập của nước Việt Nam khỏi ách thống trị của
chế độ thực dân và phong kiến. Việt Nam không có một bản tuyên ngôn nhân
quyền riêng mà quyền con người được quy định nằm trong một phần của
Hiến pháp. Hiến pháp không chỉ đơn thuần là văn bản quy định việc tổ chức
nhà nước mà còn là cơ sở đảm bảo cho việc thực hiện nhân quyền, hay nói
cách khác là thực hiện quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Điều này
đã làm cho quyền con người mà biểu hiện là quyền công dân và Hiến pháp có
sự gắn bó chặt chẽ, là cơ sở cho cuộc đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân
tộc.

Giống như ở nhiều quốc gia khác, ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã
xác định những tư tưởng và đường lối chỉ đạo về quyền con người làm cơ sở
cho việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trên thực tế. Nhìn chung, có
thể thấy rằng, các quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về
quyền con người được hình thành, đúc rút từ các yếu tố: (i) Lịch sử đấu tranh
chống ngoại xâm của dân tộc, (ii) Truyền thống, bản sắc văn hóa Việt Nam;
(iii) Nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh;
(iv) Những nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người được hầu
hết các dân tộc trên thế giới thừa nhận; (v) thực tiễn và những yêu cầu đặt ra
trong công cuộc đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Các quan điểm này
được thể hiện trong các văn kiện của Đảng (Cương lĩnh chính trị, Nghị quyết,
Chỉ thị…) và văn kiện của các cơ quan nhà nước (Báo cáo của Chính phủ,
Sách trắng của Bộ Ngoại giao…). Nhìn lại quá trình phát triển của các quy

16


định Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam từ trước
đến nay ta có thể khái lược như sau:
- Bản hiến pháp đầu tiên của Việt Nam được ra đời vào năm 1946, tức
là sau 01 năm dành được độc lập. Điểm nổi bật của Hiến pháp 1946 là: Mặc
dù ra đời ngay trong những năm đầu tiên khi chính quyền nhân dân con non
trẻ, đang phải tập trung lo toan, ứng phó với các công việc chính trị trong
nước cũng như ngoại giao với nước ngoài nhưng vẫn dành một sự quan tâm
đặc biệt to lớn tới vấn đề quyền công dân. Điều này thể hiện ở chỗ, mặc dù
bản Hiến pháp 1946 chỉ có 70 điều nhưng đã dành hẳn Chương II bao gồm 18
điều để quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Các quyền dân
sự của con người trong Hiến pháp được quy định gồm có:
+ Quyền bình đẳng: Quy định từ Điều 6 đến Điều 9: Gồm các quy định

về bình đẳng trên các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, dân tộc và giới.
+ Quyền được tự do: Quy định tại Điều 10 và Điều 11: Gồm quy định
về tự do ngôn luận, xuất bản, tín ngưỡng, cư trú... và tự do về an ninh cá
nhân.
- Tiếp theo đó là Hiến pháp 1959 cũng quy định quyền và nghĩa vụ của
công dân trong một chương gồm 21 điều dựa trên sự kế thừa và phát triển các
quy định của Hiến pháp 1946. Các quyền công dân được quy định thêm trong
tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, như: Điều 24 quy định: Quyền
được bảo hộ của bà mẹ và trẻ em, bảo hộ hôn nhân và gia đình...
Hiến pháp 1959 có những bước tiến mới trong việc ghi nhận các quyền
con người, đã có những quy định thể hiện một cách rõ ràng trách nhiệm của
Nhà nước trong việc bảo đảm cho công dân thực hiện quyền của mình, “Nhà
nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các
quyền...” hay “Nhà nước quy định..., để đảm bảo cho người lao động được
hưởng các quyền đó...” [22]. Điểm hạn chế trong việc quy định Quyền dân sự

17


của Hiến pháp 1959 là bỏ qua việc kế thừa một số quyền rất tiến bộ được đề
cập trong Hiến pháp 1946 là: Quyền của dân tộc thiểu số được nhà nước giúp
đỡ, Quyền tự do ra nước ngoài...Điều này làm cho quyền con người, quyền
công dân, quyền dân sự trong Hiến pháp 1959 không được hoàn thiện.
- Hiến pháp 1980 có 27 điều quy định quyền và nghĩa vụ của công dân,
là những quy định được kế thừa và phát triển từ hai bản Hiến pháp 1946 và
Hiến pháp 1959. Các quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong
bản Hiến pháp 1980 rất đa dạng và phong phú, trải rộng trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trong lĩnh vực quyền dân sự các quy
định mới của Hiến pháp 1980 bổ sung thêm như: Điều 62: Quyền có nhà ở;
Điều 70, Điều 71, Điều 72: Quyền được bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự

và nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở...
Điểm đặc biệt của Hiến pháp 1980 là các quy định về quyền và nghĩa
vụ của công dân được xác lập trên cơ sở tư tưởng về quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động. Điều 54 Hiến pháp chỉ rõ:
Quyền và nghĩa vụ của công dân thể hiện chế độ làm chủ tập
thể của nhân dân lao động, kết hợp hài hòa những yêu cầu của cuộc
sống xã hội với tự do chân chính của cá nhân bảo đảm sự nhất trí về
lợi ích giữa Nhà nước, tập thể và cá nhân theo nguyên tắc mỗi
người vì mọi người, mọi người vì mỗi người [23].
Điều này khẳng định mối quan hệ không tách rời giữa Nhà nước và
công dân, Nhà nước đảm bảo một cách tuyệt đối các quyền của công dân
được thực hiện, nhưng ngược lại, công dân cũng phải thực hiện đầy đủ các
nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, Hiến pháp 1980 lại
không thừa nhận sở hữu tư nhân – một quyền về sở hữu tài sản, một quyền tự
nhiên và là một quyền quan trọng nhất, thiêng liêng và bất khả xâm phạm của
con người. Trên thực tế, các quy định của Hiến pháp 1980 về quyền công dân

18


đã không phản ánh đúng được tình hình thực tế của xã hội Việt Nam thời đó.
Hiến pháp đã quy định một số quyền mang tính lý tưởng hóa quá mức, không
có tính khả thi để thực hiện trong thực tế. Đó là quy định về nhà ở (Điều 62),
quy định về chế độ học không phải trả tiền (Điều 60), về chế độ khám chữa
bệnh không phải trả tiền (Điều 61). Các quy định này chỉ có hiệu lực về mặt
pháp lý – trong bản Hiến pháp chứ không có hiệu lực trên thực tế vì bản thân
Nhà nước không thể có đủ điều kiện vật chất để đảm bảo cho việc thực hiện
nó. Mặc dù các quy định này hướng tới việc tạo cho con người có được một
cuộc sống tốt đẹp nhất, nhưng sự thoát ly quá xa các quy định ấy bị mất định
ý nghĩa tích cực và xây dựng vốn có của chúng.

- Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp 1992 (đã sửa đổi,
bổ sung qua Nghị quyết 51). Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong
Hiến pháp 1992 được quy định trong chương V bao gồm 34 điều chứa đựng
nhiều điểm tiến bộ của Nhà nước ta trong việc quy định về quyền con người
và đảm bảo quyền con người. Điều 50, Hiến pháp 1992 khẳng định: “Các
quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn
trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và
luật”[24]. Quyền con người với quan niệm thể hiện trong Hiến pháp 1992 là
chiếc cầu nối tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa pháp luật quốc gia và
pháp luật quốc tế, bảo đảm và tăng cường hiệu lực thực hiện các quyền con
người một cách mạnh mẽ hơn. Theo đó hàng loạt các quy định đề cao và phát
huy nhân tố con người được quy định trong Hiến pháp đã được thể chế hóa
trong các bộ luật, đạo luật như: Bộ luật dân sự, Bộ luật Lao động, Bộ luật
Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật cư trú.... Tuy nhiên, Hiến pháp 1992
trong góc độc quyền dân sự lại đồng nhất hai khái niệm quyền con người và
quyền công dân, đồng thời không thể hiện được rõ nét vai trò của nhà nước
trong việc đảm bảo quyền công dân...

19


- Hiến pháp năm 2013 là đạo luật cơ bản khẳng định mục tiêu xây dựng
nhà nước pháp quyền, điểm nổi bật nhất của Hiến pháp năm 2013 là chương II
về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp 2013
được nhận định là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ về kinh
tế và chính trị, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước và hội
nhập quốc tế trong thời kỳ mới. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp được
Quốc hội thông qua năm 2013 có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật
lập hiến; thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước
và chế độ Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Quyền con

người, quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định tập trung tại chương II
gồm có 36 điều, từ Điều 14 đến điều 49. Kế thừa và hoàn thiện các phần hạn
chế của các bản Hiến pháp trước đó, thể hiện rõ vai trò của Đảng, Nhà nước
trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong đó có quyền dân
sự của công dân thống nhất với các quy định của các văn bản pháp luật quốc
tế về quyền con người, đồng thời đã có sự phân định rõ ràng giữa hai phạm
trù quyền con người và quyền công dân.
1.3. Bối cảnh ban hành và các nhân tố tác động đến nội dung Hiến
pháp 2013 về quyền con người
Trong bối cảnh tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn, sâu sắc và
phức tạp. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện khác của Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu, định hướng phát
triển toàn diện, bền vững đất nước trong giai đoạn cách mạng mới nhằm xây
dựng nước Việt Nam XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Theo đó, Hiến pháp năm 1992 cần sửa đổi để bảo đảm sự đồng bộ cả về
kinh tế và chính trị, tiến tới bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động

20


×