ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM TIẾN THÀNH
Tõ BIÖN PH¸P Xö Lý HµNH CHÝNH §¦A VµO C¥ Së
CH÷A BÖNH §ÕN BIÖN PH¸P §¦A VµO C¥ Së CAI
NGHIÖN B¾T BUéC
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Tiến Thành
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội........................................................................1
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.......................................................1
Tôi xin chân thành cảm ơn!......................................................1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CSCB:
XLHC:
XLVPHC:
Cơ sở chữa bệnh
Xử lý hành chính
Xử lý vi phạm hành chính
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới đất nước với ưu tiên cốt lõi là xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước đưa đất nước ta thoát
khỏi sự khủng hoảng kinh tế và từng bước cải thiện được đời sống vật chất
cho nhân dân. Những thành tự của quá trình đổi mới không chỉ dừng lại ở tốc
độ phát triển kinh tế, sự ổn định của đời sống xã hội và đảm bảo an ninh quốc
gia, độc lập chủ quyền của dân tộc mà còn được thể hiện trong các thành tựu
về văn hóa, xã hội, công tác giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ và đảm
bảo an ninh quốc phòng.
Bên cạnh những thành quả đã đạt được dưới tác động của toàn cầu hoá
và mặt trái của kinh tế thị trường đã xuất hiện nhiều yếu tố tác động đến đời
sống xã hội, gây nguy hại không nhỏ đến nếp sống, thuần phong mỹ tục, làm
băng hoại đạo đức, phẩm giá của con người. Tệ nạn ma tuý, mại dâm, buôn
bán người ở nước ta diễn biến phức tạp là một trong những vấn đề nóng bỏng,
nhức nhối, ảnh hưởng xấu đến đời sống và an toàn của xã hội, vi phạm pháp
luật, đạo đức, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc, phá vỡ hạnh phúc nhiều
gia đình, đe doạ tương lai của dân tộc. Trong tình hình đất nước mở rộng giao
lưu quốc tế hiện nay, cùng với việc phòng, chống nhiễm HIV/AIDS, thì vấn
đề đấu tranh phòng, chống tệ nạn mại dâm, ma túy đang trở thành một trong
những vấn đề quan trọng, cấp bách ở nước ta, góp phần tạo sự ổn định tình
hình chính trị- xã hội, phát triển đất nước.
Biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh là một trong bốn biện pháp xử lý
hành chính khác được quy định tại Pháp lệnh XLVPHC 2002 áp dụng đối với
người nghiện ma túy và người bán dâm với mục đích là bắt buộc cai nghiện,
chữa bệnh, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của các cơ sở chữa bệnh.
1
Biện pháp này có bản chất là hạn chế quyền tự do của công dân, do người
đứng đầu cơ quan hành chính ở địa phương quyết định. Thực tiễn áp dụng
biện pháp này trong thời gian qua đã bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập cần
được sửa đổi, bổ sung như: quy trình xem xét áp dụng biện pháp này chưa
thật sự đảm bảo công khai; là những biện pháp hạn chế quyền tự do của công
dân nhưng quá trình xem xét áp dụng lại không có sự tham gia của người bị
áp dụng cũng như luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích của họ… Đồng thời,
việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với gái mại dâm không
đáp ứng được yêu cầu đảm bảo về quyền con người trong tình hình mới. Bởi
vì, trong nhận thức hiện nay, họ nên được coi như một nhóm đối tượng dễ bị
tổn thương trong quan hệ xã hội, đồng thời cũng nên coi họ như nạn nhân của
các tệ nạn xã hội. Do đó, nhu cầu của việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
chữa bệnh đối với gái mại dâm là không cần thiết nữa.
Trong bối cảnh định hướng của Đảng và Nhà nước về xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật những năm gần đây đặc biệt nhấn mạnh đến
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự
do, dân chủ của công dân; quan điểm về tệ nạn xã hội và các biện pháp
phòng, chống tệ nạn xã hội đã có những thay đổi nhất định; yêu cầu thực hiện
các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên… quy định về các biện pháp
xử lý hành chính nói chung và quy định về biện pháp đưa vào cơ sở chữa
bệnh nói riêng cần được sửa đổi theo hướng bảo đảm tính công khai, minh
bạch và bảo đảm dân chủ, công bằng.
Chính vì vậy, Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
ban hành Luật XLVPHC năm 2012 đã có nhiều sửa đổi quan trọng. Trong
đó có vấn đề sửa đổi biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh
thành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Sự khác biệt của Luật
XLVPHC 2012 so với Pháp lệnh XLVPHC 2002 về biện pháp đưa vào cơ
2
sở cai nghiện bắt buộc thể hiện ở đối tượng áp dụng biện pháp; chủ thể áp
dụng; trình tự thủ tục áp dụng...
Xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu của Đảng về mục tiêu
cải cách bộ máy nhà nước nhằm nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy
nhà nước nói chung cũng như hiệu quả của hoạt động xử lý vi phạm hành
chính nói riêng, trong đó có biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh trước đây và
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hiện nay, thì việc tăng cường nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn của biện pháp XLHC đưa vào cơ sở chữa
bệnh trước đây và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hiện nay là
hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những phân tích nêu trên, học viên mạnh dạn chọn đề tài
“Từ biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh đến biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Pháp luật Việt Nam về các biện pháp XLHC khác nói chung và biện
pháp XLHC đưa vào CSCB trước đây nói riêng, khi nghiên cứu cần đặt nó
trong tổng thể các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Liên quan
đến lĩnh vực này cũng đã có một số tác giả tập trung nghiên cứu như sau:
* Các công trình nghiên cứu về xử lý vi phạm hành chính nói chung
- Tác giả Vũ Thư với luận án phó tiến sĩ luật học về “Chế tài hành
chính – Lí luận và thực tiễn”, bảo vệ thành công tại Viện Nhà nước và pháp
luật, 1996;
- Tác giả Nguyễn Trọng Bình với luận văn thạc sĩ luật học về “Hoàn
thiện các quy định pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính”,
bảo vệ thành công tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002;
- Tác giả Nguyễn Ngọc Bích với luận văn thạc sĩ luật học về “Hoàn
thiện pháp luật về XLHC với người chưa thành niên”, bảo vệ thành công tại
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003.
3
Các công trình nghiên cứu trên đây, đã đưa ra một số vấn đề lý luận
cũng như thực tiễn của việc xử phạt vi phạm hành chính đồng thời cũng đã đề
cập đến một số khía cạnh của các biện pháp XLHC khác như: đưa vào CSCB;
đưa vào trường giáo dưỡng; biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn…
* Các công trình nghiên cứu về các biện pháp XLHC khác
Trực tiếp đề cập nội dung về các biện pháp XLHC khác có thể kể đến
một số bài viết, chuyên đề và công trình nghiên cứu của một số tác giả như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp “Các biện pháp
XLHC khác và việc bảo đảm quyền con người” do Thạc sĩ Đặng Thanh Sơn
làm chủ nhiệm đề tài cũng nhóm nghiên cứu. Đây là công trình có tính quy
mô và khá chi tiết về các biện pháp XLHC khác.
- Tác giả Hoàng Thị Kim Quế với bài viết “Về các biện pháp XLHC
khác: Thực tiễn và giải pháp” đăng trên Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
- Tác giả Trần Thanh Hương với bài viết “Quyền công dân, quyền con
người và chỗ đứng của các biện pháp XLHC khác trong pháp luật về vi phạm
hành chính” đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật.
* Các công trình nghiên cứu về biện pháp XLHC đưa vào CSCB
Hiện nay, việc nghiên cứu về biện pháp XLHC đưa vào CSCB cũng đã
được một số tác giả nghiên cứu, tuy nhiên, các công trình đã công bố mới chỉ
dừng lại ở mức độ các bài viết nghiên cứu đăng trên một số tạp chí chuyên
ngành luật học, có thể kể đến một số công trình như:
- Tác giả Đào Thị Thu An với bài viết “Biện pháp đưa vào cơ sở chữa
bệnh trong Dự thảo Luật Xử lý vi phạm hành chính” đăng trong Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 20/2011;
Còn lại, việc nghiên cứu về pháp luật trong lĩnh vực này còn rất hạn chế.
Tất cả các công trình nghiên cứu trên đây đã phần nào giải quyết được một số
4
khía cạnh của vấn đề lý luận và và thực tiễn về biện pháp đưa vào CSCB trước
kia cũng như biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong giai đoạn hiện
nay. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có bất kỳ một công trình nào được công bố ở
cấp độ luận văn thạc sĩ luật học có liên quan đến vấn đề này, cũng như chưa có
một công trình nào giải quyết được một cách triệt để và tổng thể các vấn đề lý
luận cũng như thực tiễn của biện pháp XLHC đưa vào CSCB.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Công trình tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận và thực trạng
pháp luật về biện pháp đưa vào CSCB trước kia và biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc hiện nay. Luận văn cũng tập trung lý giải những nguyên
nhân, những cơ sở lý luận cho việc chuyển đổi biện pháp đưa vào cơ sở chữa
bệnh thành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Từ đó luận giải cho
những sửa đổi bổ sung này về mặt lý luận.
Luận văn cũng phân tích thực trạng của việc áp dụng biện pháp đưa vào
cơ sở chữa bệnh cho đến trước giai đoạn Luật XLVPHC năm 2012 có hiệu lực
và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong giai đoạn hiện nay. Mục
đích của việc này là nhằm luận giải những thay đổi của các biện pháp này từ
vấn đề thực trạng tổ chức và thực hiện.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được các mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ phải thực
hiện như sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về biện pháp XLHC đưa vào CSCB
nhằm xây dựng khái niệm mang tính khoa học về biện pháp này, tìm ra các
đặc trưng riêng và vai trò của biện pháp này trong việc đấu tranh chống lại
các hành vi vi phạm hành chính góp phần bảo vệ trật tự xã hội và đảm bảo an
ninh đất nước;
5
- Xác định những yêu cầu cơ bản trong việc xây dựng và áp dụng biện
pháp XLHC đưa vào CSCB nhằm đạt hiệu quả cao nhất, đồng thời bảo đảm
quyền tự do, quyền con người, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn tổ chức thực hiện
qua việc phân tích các số liệu thống kê về thực tiễn áp dụng biện pháp XLHC
đưa vào CSCB trong những năm vừa qua;
- Lý giải những nguyên nhân, sự cần thiết của việc chuyển biện pháp
đưa vào CSCB thành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
- Trình bày những vấn đề pháp lý hiện nay về biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc về thực trạng pháp luật và tổ chức thực hiện.
- Đề xuất những kiến nghị, những giải pháp xác đáng, khoa học có tính
khả thi cho việc hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả việc tổ
chức thực hiện pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước
về định hướng xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Nghiên cứu hệ thống các quy định của pháp luật về các biện pháp
XLHC khác nói chung cũng như biện pháp XLHC đưa vào CSCB và biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nói riêng.
Nghiên cứu thực trạng áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB và
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các biện pháp XLHC khác bao gồm: Biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào
6
CSCB. Đây là một lĩnh vực rất rộng và phức tạp. Trong phạm vi luận văn của
mình, học viên tập trung phân tích và đi sâu vào nghiên cứu biện pháp XLHC
đưa vào CSCB được quy định tại Pháp lệnh XLVPHC 2002 được sửa đổi, bổ
sung năm 2007 và năm 2008. Đồng thời luận văn cũng tập trung nghiên cứu
về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật XLVPHC 2012. Để
tìm ra mối liên hệ giữa hai biện pháp này, lý giải được tại sao biện pháp đưa
vào CSCB lại được thay đổi chuyển thành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc. Đồng thời luận văn nghiên cứu về vấn đề thực tiễn áp dụng biện
pháp XLHC đưa vào CSCB trong giai đoạn từ từ năm 2006 - 2013 và việc áp
dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lê nin, vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử để thấy rõ sự hình thành, phát triển của pháp luật về biện pháp
XLHC đưa vào CSCB.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh
đối chiếu, suy luận logic được sử dụng nằm lý giải các vấn đề lý luận, giúp
cho mỗi vấn đề được nhìn nhận từ nhiều góc độ, thấy được những điểm hợp
lý và chưa hợp lý của các quan điểm, quan niệm đưa ra trong luận văn, từ đó
đưa ra được kết luận có tính khoa học và nổi bật về vấn đề.
Phương pháp thống kê, phương pháp tổng kết thực tiễn cũng được sử
dụng có hiệu quả để từ những số liệu, tình hình thực tế cụ thể thống kê được
có thể phân tích, tổng kết thấy được bức tranh toàn diện về thực trạng pháp
luật và thực tiễn áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB, đó là cơ sở chính
xác nhất cho việc đề xuất các giải pháp hợp lý và khả thi.
7
6. Nhưng đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu trực tiếp và tương đối toàn diện về
biện pháp XLHC đưa vào CSCB và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Luận văn xác định được những yếu tố cơ bản tác động đến quy định
pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB và biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc trong Luật XLVPHC, đồng thời cũng đưa ra được
những yêu cầu cụ thể trong việc xây dựng và hoàn thiện các quy định của
pháp luật liên quan biện pháp này, đảm bảo việc tổ chức thực hiện trong
thực tiễn đạt kết quả cao.
Luận văn có giá trị trong việc làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu khoa
học của các sinh viên ngành luật học khi tiếp cận nghiên cứu vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở chữa bệnh.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh.
Chương 3: Việc chuyển đổi từ biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
chữa bệnh sang biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH
ĐƯA VÀO CƠ SỞ CHỮA BỆNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở chữa bệnh
1.1.1. Khái niệm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh
Xã hội chỉ có thể tồn tại và phát triển vững mạnh khi có sự ổn định về
trật tự an toàn về kinh tế, chính trị cũng như xã hội. Trật tự đó được bảo đảm
thực hiện bằng hệ thống chế tài, các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước để
điều chỉnh các quan hệ xã hội, cũng như để ngăn ngừa các hành vi vi phạm
pháp luật hết sức đa dạng và phức tạp. Trong hệ thống các biện pháp cưỡng
chế nhà nước có rất nhiều các biện pháp khác nhau như: cưỡng chế hình sự,
cưỡng chế dân sự và kỷ luật, bên cạnh đó cưỡng chế hành chính cũng có một
vai trò hết sức quan trọng trong việc đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp
luật, duy trì ổn định xã hội, bảo đảm an ninh trật tự, tăng cường hiệu quả
quản lý nhà nước.
Cưỡng chế hành chính cũng bao gồm nhiều cách thức, biện pháp khác
nhau. Dựa trên cơ sở áp dụng, cưỡng chế hành chính có thể chia thành hai
nhóm lớn là: nhóm biện pháp cưỡng chế hành chính được áp dụng khi có vi
phạm hành chính xảy ra; nhóm biện pháp cưỡng chế hành chính được áp dụng
trong trường hợp không có vi phạm hành chính nhằm mục đích ngăn chặn,
phòng ngừa vi phạm hành chính hoặc vì mục đích an ninh quốc gia, bảo vệ
cộng đồng, phòng chống thiên tai… Các hình thức XLHC thuộc nhóm biện
pháp cưỡng chế hành chính áp dụng trên cơ sở có vi phạm hành chính.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, khái niệm “xử lý vi phạm
9
hành chính” được cấu thành bởi hai nội dung cơ bản là biện pháp “xử phạt
vi phạm hành chính” và biện pháp “XLHC khác”. Tại Pháp lệnh XLVPHC
năm 2002 quy định:
Xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành
chính và các biện pháp XLHC khác và Các biện pháp XLHC khác
được áp dụng đối với cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về an
ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự được quy định tại các Điều 23, 24, 25, 26 của Pháp
lệnh này [44, Điều 1, khoản 1, 2].
Các biện pháp XLHC khác được xem là biện pháp cưỡng chế hành
chính đặc biệt vì thực chất các biện pháp XLHC khác đã hạn chế quyền tự do
cá nhân trong một giai đoạn nhất định với hình thức: đưa vào trường giáo
dưỡng, đưa vào CSCB và đưa vào cơ sở giáo dục. Các biện pháp này cũng
cách ly người bị xử lý ra khỏi đời sống xã hội, đưa vào một môi trường quản
lý đặc biệt có tính kỷ luật cao và chặt chẽ, về mức độ các biện pháp này
không hề thua kém các biện pháp tư pháp hình sự khác. Nhóm biện pháp này
có đặc trưng là thời gian cưỡng chế khá dài từ 3 tháng đến 2 năm; người bị áp
dụng phải chịu sự giám sát và quản lý chặt chẽ của cơ quan hành chính nhà
nước, tổ chức xã hội và các đoàn thể… Đối tượng bị áp dụng các biện pháp
này cũng đa dạng và đặc biệt hơn.
Theo quy định tại Điều 22, Pháp lệnh XLVPHC 2002 và Pháp lệnh
XLVPHC sửa đổi năm 2007 thì các biện pháp XLHC khác bao gồm:
- Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
- Đưa vào trường giáo dưỡng;
- Đưa vào cơ sở giáo dục;
- Đưa vào cơ sở chữa bệnh [44]; [45].
Biện pháo đưa vào CSCB là một trong bốn biện pháp XLHC khác được
10
áp dụng đối với người nghiện ma túy và người bán dâm với mục đích là bắt
buộc cai nghiện, chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý
của các CSCB.
Biện pháp đưa vào CSCB nhìn chung cũng mang những đặc điểm của
biện pháp XLHC, bản chất là biện pháp hạn chế quyền tự do của công dân, do
người đứng dầu cơ quan hành chính ở địa phương quyết định. Như chúng ta
đã biết, các đối tượng vi phạm hành chính mà là người nghiện ma túy, hoặc
người bán dâm thường có những biểu hiện về bệnh lý nhất định. Hiện nay, y
học đã chứng minh nghiện ma túy là một bệnh của não bộ, vì vậy việc tiến
hành các biện pháp điều trị (cai nghiện ma túy) được tiến hành như việc chữa
bệnh. Còn đối với người bán dâm, bản thân việc bán dâm chỉ là một tệ nạn xã
hội cần bị lên án, tuy nhiên, đối với người bán dâm rất hay mắc phải các bệnh
truyền nhiễm lây qua đường tình dục, đặc biệt là HIV/AIDS. Bên cạnh đó,
việc đưa người bán dâm vào các CSCB còn nhằm mục đích để họ được lao
động, học văn hóc, học nghề nên điều này là cần thiết trong việc ngăn chặn tệ
nạn mại dâm đang ngày càng nhức nhối hiện nay.
Hiện nay, khái niệm về CSCB còn được hiểu khác nhau giữa các văn
bản luật, theo Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 thì việc cai nghiện bắt
buộc cho người nghiện ma túy được thực hiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc,
còn theo quy định của Pháp lệnh XLVPHC và các văn bản hướng dẫn thi hành
thì được hiểu là CSCB áp dụng đối với người nghiện ma túy bị XLHC. Theo
quy định của Nghị định số 61/2011/NĐ-CP ngày 26/7/2011 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 135/2004/NĐ-CP ngày
10/6/2004 của Chính phủ quy định về chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ
sở chữa bệnh, tổ chức hoạt động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự
nguyện vào cơ sở chữa bệnh thì cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật Phòng,
11
chống ma túy và cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh XLVPHC được gọi chung là
Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động Xã hội. Đây là nơi chữa trị, học
tập và lao động phục hồi đối với người nghiện ma túy, người bán dâm bị xử lý
vi phạm hành chính bằng biện pháp đưa vào CSCB; người nghiện ma túy và
người bán dâm là người chưa thành niên và người nghiện ma túy, người bán
dâm tự nguyện vào CSCB để cai nghiện, chữa trị.
Như vậy, ta có thể hiểu khái niệm biện pháp XLHC đưa vào CSCB một
cách khái quát như sau: “Biện pháp XLHC đưa vào CSCB là một trong những
biện pháp XLHC khác được pháp luật quy định mà nội dung của biện pháp
này là việc đưa các đối tượng bán dâm, nghiện ma túy có đủ các điều kiện
quy định vào các CSCB (hay còn gọi là Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục –
Lao động Xã hội) để chữa trị, học tập và lao động phục hồi, nhằm mục đích
giúp những đối tượng đó trở thành công dân có ích cho xã hội”.
1.1.2. Đặc điểm của biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh
Biện pháp XLHC đưa vào CSCB là nằm trong nhóm biện pháp XLHC
khác được quy định tại Pháp lệnh XLVPHC 2002. Vì vậy, xét về đặc điểm
biện pháp XLHC đưa vào CSCB cũng có những đặc điểm chung của các biện
pháp XLHC khác.
- Biện pháp XLHC đưa vào CSCB là biện pháp cưỡng chế hành chính
nhà nước
Xét về đặc điểm này, biện pháp XLHC đưa vào CSCB có tính pháp lý,
bởi vì biện pháp này được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp
luật của nhà nước, cụ thể là Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Nghị
định của Chính phủ… Biện pháp XLHC đưa vào CSCB cũng do các cơ quan
có thẩm quyền áp dụng theo quy định của pháp luật. Nghĩa là chỉ có các chủ
thể được pháp luật quy định mới có thể tiến hành áp dụng biện pháp này khi
XLHC đối với người nghiện ma túy hoặc người bán dâm. Việc tiến hành biện
12
pháp XLHC đưa vào CSCB cũng được tiến hành theo những thủ tục hành
chính chặt chẽ, công khai, minh bạch do các quy phạm thủ tục hành chính quy
định. Thủ tục này được pháp luật hành chính quy định một cách chặt chẽ qua
nhiều khâu, quy định khác nhau.
Tính cưỡng chế hành chính nhà nước của biện pháp XLHC đưa vào
CSCB thể hiện ở chỗ biện pháp này mang tính bắt buộc thực hiện đối với
người bị áp dụng, đồng thời đây cũng là biện pháp cưỡng chế mang tính
nghiêm khắc cao chỉ sau cưỡng chế hình sự. Thể hiện ở việc hạn chế quyền tự
do nhân thân của người bị áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định.
- Biện pháp XLHC đưa vào CSCB là biện pháp xử lý chỉ áp dụng đối
với cá nhân – công dân Việt Nam
Theo quy định của Pháp lệnh XLVPHC 2002 thì biện pháp XLHC đưa
vào CSCB chỉ áp dụng đối với công dân Việt Nam có hành vi vi phạm pháp
luật về an ninh trật tự, an toàn xã hội. Như trên đã phân tích, việc áp dụng
biện pháp cưỡng chế hành chính đưa vào CSCB có bản chất là hạn chế các
quyền tự do của đối tượng bị áp dụng, đồng thời trong các CSCB thì chủ thể
đó sẽ được chữa bệnh, giáo dục, cải tạo và học tập để trở thành người có ích
cho xã hội. Chính vì vậy, đây là biện cưỡng chế hành chính chỉ áp dụng đối
với cá nhân mà không áp dụng đối với tổ chức như các biện pháp xử phạt vi
phạm hành chính.
- Việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB được áp dụng theo
những trình tự, thủ tục chặt chẽ và đối tượng bị áp dụng phải chịu sự quản lý
và hạn chế một số quyền tự do cá nhân nhất định
Với nội dung là hạn chế một số quyền tự do của con người khi áp dụng
biện pháp XLHC đưa vào CSCB nên Pháp lệnh XLVPHC 2002 cũng như các
văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định tương đối chặt chẽ trình tự, thủ tục
áp dụng biện pháp này. Điều này đảm bảo tính minh bạch trong quá trình xử
lý, đồng thời tránh tình trạng vi phạm các quyền con người trong khi áp dụng.
13
- Biện pháp XLHC đưa vào CSCB chỉ được áp dụng đối với hai nhóm
đối tượng là người nghiện ma túy và người bán dâm
Để phân biệt với các biện pháp XLHC khác được quy định trong Pháp
lệnh XLVPHC 2002 thì biện pháp XLHC đưa vào CSCB chỉ được áp dụng
đối với nhóm đối tượng là người nghiện ma túy và người bán dâm. Theo quy
định của Điều 26, Pháp lệnh XLVPHC 2002 thì những đối tượng sau bị áp
dụng biện pháp đưa vào CSCB [43]: Thứ nhất, người nghiện ma tuý từ đủ 18
tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc
chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định; Thứ
hai, người bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 16 tuổi trở lên đã bị áp
dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện
pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định. Đây là những nhóm đối
tượng có hành vi vi phạm thường xuyên các quy định của pháp luật về an
toàn, trật tự xã hội mà đã bị áp dụng các biện pháp xử lý khác nhưng vẫn vi
phạm hoặc trường hợp chưa bị áp dụng các biện pháp xử lý khác nhưng
không có nơi cư trú rõ ràng.
- Về nội dung việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB là nhằm để
người nghiện ma túy, người bán dâm lao động, học văn hoá, học nghề và
chữa bệnh dưới sự quản lý của CSCB
Theo quy định của Pháp lệnh XLVPHC 2002 thì mục đích cũng như
bản chất của việc đưa người nghiện ma túy, người bán dâm vào CSCB là
nhằm để họ cải tạo, lao động, học văn hóa, học nghề và chữa bệnh dưới sự
quản lý tập trung, thống nhất và kỷ luật của CSCB. Như vậy, về tên gọi biện
pháp này được thể hiện trong Pháp lệnh XLVPHC 2002 là biện pháp đưa vào
CSCB. Tuy nhiên, trên thực tế việc bị áp dụng biện pháp xử lý này, đối tượng
không chỉ vào để chữa bệnh mà còn để học tập, lao động, học nghề để đảm
bảo sau khi ra ngoài đời sống xã hội không quay trở lại con đường cũ mà có
14
thể làm ăn, sinh sống như những người bình thường khác. Đây cũng chính là
chính sách nhân văn trong việc xử phạt vi phạm hành chính của Nhà nước ta,
khi mà trong biện pháp trừng trị luôn có sự giáo dục và cải tạo.
1.2. Mục đích, vai trò của biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
chữa bệnh
Việc xác định mục đích của một loại biện pháp cưỡng chế cần xuất phát
từ chính vai trò của nó đối với xã hội, đồng thời căn cứ vào đối tượng áp dụng
của biện pháp đó. Các biện pháp XLHC có vai trò to lớn trong việc giáo dục,
cảm hóa, chữa bệnh và tạo điều kiện cho người vi phạm pháp luật trở thành
công dân lương thiện, có ích cho xã hội, góp phần ổn định an ninh chính trị,
trật tự, an toàn xã hội, giữ vững trật tự quản lý hành chính nhà nước.
Biện pháp XLHC đưa vào CSCB được ban hành và áp dụng nhằm
hướng đến các mục đích sau:
Thứ nhất, biện pháp XLHC đưa vào CSCB có mục đích trước hết là
để nhằm chữa bệnh cho người nghiện ma túy, người bán dâm. Như tên gọi
của biện pháp XLHC này là đưa vào CSCB vì vậy, mục đích đầu tiên của
biện pháp này là việc chữa bệnh cho những đối tượng được đưa vào CSCB.
Như chúng ta đã biết, khoa học đã chứng minh nghiện ma túy là một bệnh lý
thần kinh về não bộ và y học đã tìm ra các phương pháp chữa bệnh để khắc
phục tình trạng nghiện của người nghiện ma túy. Bên cạnh đó, người bán
dâm cũng là những đối tượng có nguy cơ cao trong việc bị nhiễm các bệnh
lây truyền qua đường tình dục, đặc biệt là HIV/AIDS, vì vậy, việc áp dụng
biện pháp chữa bệnh đối với những đối tượng này là cần thiết trong việc
giúp đỡ những người này.
Việc chữa bệnh cho người nghiện ma túy, người bán dâm là mục đích
cơ bản, quan trọng của việc áp dụng biện pháp đưa vào CSCB. Điều này thể
hiện tính nhân văn của biện pháp XLHC này khi mà bên cạnh mục đích trừng
15
trị, trừng phạt người có hành vi vi phạm hành chính mà còn là nhằm mục đích
chữa bệnh cho họ, để đạt được mục đích vừa giáo dục, vừa tạo điều kiện cho
người vi phạm hòa nhập cộng đồng.
Thứ hai, biện pháp XLHC đưa vào CSCB có mục đích giáo dục, chú ý
đến cải tạo tư tưởng, coi trọng các mối quan hệ của người bị áp dụng với cộng
đồng, gia đình và xã hội. Giáo dục là mục đích quan trọng của biện pháp
XLHC đưa vào CSCB, bắt nguồn từ bản chất nhân đạo sâu sắc của xã hội ta
luôn tạo điều kiện hoàn thiện nhân cách con người, biết tôn trọng và tuân thủ
pháp luật. Mục đích giáo dục ở đây không chỉ là giáo dục ý thức chấp hành
pháp luật của đối tượng vi phạm mà còn cảm hóa, giáo dục cả về đạo đức, lối
sống, cũng như phục hồi sức khỏe tạo điều kiện cho người vi phạm trở thành
người công dân có ích cho xã hội, sớm hòa nhập cộng đồng. Chính vì vậy, các
CSCB đã được cụ thể hóa trong Nghị định 135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004
của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào CSCB, tổ chức
hoạt động của CSCB theo Pháp lệnh XLVPHC và chế độ áp dụng đối với
người thành niên, người tự nguyện vào CSCB và Nghị định 61/2011/NĐ-CP
ngày 26/7/2011 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung nghị định 135/2004/NĐCP nói trên thì tên gọi của các CSCB và cơ sở cai nghiện bắt buộc được gọi
chung là các Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động Xã hội. Đó là mục
đích quan trọng và có ý nghĩa của biện pháp XLHC này.
Thứ ba, biện pháp XLHC đưa vào CSCB được áp dụng nhằm mục đích
trừng phạt người có hành vi vi phạm hành chính. Tính trừng phạt được coi là
một thuộc tính vốn có của các biện pháp cưỡng chế, không chỉ có trong cưỡng
chế hành chính mà còn trong cả cưỡng chế hình sự, cưỡng chế dân sự…
Trong luật hình sự thì một trong các mục đích của hình phạt đó là tính trừng
trị của hình phạt. Tương tự như vậy, các biện pháp cưỡng chế hành chính có
tính trừng phạt tương đối cao, chỉ sau cưỡng chế hình sự. Đặc biệt là các biện
16
pháp XLHC khác, trong đó có biện pháp đưa vào CSCB. Biện pháp đưa vào
CSCB là một biện pháp tính cưỡng chế tương đối cao khi nội dung của nó là
tước bỏ một số quyền nhân thân của người bị áp dụng trong một khoảng thời
gian nhất định. Chính vì tính chất này nên người bị áp dụng chúng sẽ phải
sinh sống, học tập và chữa bệnh trong các CSCB và chịu sự quản lý nghiêm
ngặt của các cơ sở này.
Tính trừng phạt của biện pháp XLHC đưa vào CSCB là hết sức cần thiết.
Bởi vì, đối tượng bị áp dụng biện pháp XLHC này là những đối tượng nghiện
ma túy hoặc bán dâm thường xuyên, đã bị áp dụng các biện pháp XLHC khác ở
cấp độ nhẹ hơn nhưng vẫn tái phạm hoặc các đối tượng này không có nơi cư
trú cố định. Các đối tượng này thường có những hành vi vi phạm pháp luật, gây
ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, tính trừng phạt của
biện pháp XLHC đưa vào CSCB là hết sức cần thiết, thể hiện tính nghiêm minh
của pháp luật, buộc họ phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi là hạn chế một
phần quyền tự do và chịu sự quản lý giám sát của CSCB.
Thứ tư, biện pháp XLHC đưa vào CSCB được áp dụng nhằm mục
đích phòng ngừa, ngăn chặn khả năng tái phạm của người bị áp dụng. Như
chúng ta đã biết, đối tượng bị áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB là
những đối tượng nghiện ma túy, bán dâm đã vi phạm nhiều lần, đã bị xử lý
bằng các biện pháp khác nhưng vẫn tái phạm hoặc không có nơi cư trú rõ
ràng. Vì vậy, việc áp dụng đối biện pháp XLHC đưa vào CSCB đối với
những đối tượng này là cần thiết để ngăn chặn họ tái phạm và tiếp tục đi
vào con đường lầm lạc.
Mục đích phòng ngừa ở đây bao gồm cả phòng ngừa chung và phòng
ngừa riêng, chú ý loại trừ những nguyên nhân thực hiện hành vi trái pháp luật
và tạo điều kiện cho người bị áp dụng tái hòa nhập cộng đồng. Khả năng
phòng ngừa chung của biện pháp XLHC đưa vào CSCB có mục đích nhằm
17
răn đe, cảnh báo và ngăn ngừa sự vi phạm của các đối tượng khác trong xã
hội, khi đang có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
Như chúng ta đã biết, đối tượng nghiện ma túy hoặc người bán dâm
thường là những đối tượng nguy hiểm, mức độ tái phạm thường xuyên, cần
phải hạn chế quyền tự do đối với họ, cần sự giám sát và quản lý chặt chẽ để
ngăn ngừa khả năng tái phạm của họ. Mục đích phòng ngừa được thực hiện
thông qua sự kết hợp giữa giáo dục và trừng trị, lôi cuốn các lực lượng xã hội
tham gia đấu tranh và phòng ngừa vi phạm, thúc đẩy dư luận xã hội.
Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào CSCB còn có vai
trò to lớn trong việc đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, khôi phục trật tự quản lý hành chính nhà nước,
trật tự pháp luật.
1.3. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở chữa bệnh
1.3.1. Khái niệm pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ
sở chữa bệnh
Pháp luật là là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do
Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và được đảm bảo thực hiện bằng quyền
lực Nhà nước. Do đó, ta có thể hiểu pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào
CSCB như sau: “Pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB là hệ thống
các quy định do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong đó nội
dung của nó là việc quy định đưa những đối tượng nghiện ma túy hoặc bán
dâm có các điều kiện theo quy định của pháp luật vào các CSCB để lao động,
học văn hóa, học nghề và chữa bệnh dưới sự quản lý của CSCB”.
1.3.2. Đặc điểm của pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở chữa bệnh
Với tư cách là một nhóm các quy định pháp luật có tính độc lập trong
18
hệ thống pháp luật về các biện pháp XLHC, pháp luật về biện pháp XLHC
đưa vào CSCB cũng có những đặc điểm riêng cơ bản sau:
- Pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB do những cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành. Cũng như đặc điểm chung của pháp luật, biện
pháp XLHC đưa vào CSCB cũng do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành, cụ thể ở đây là: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh
XLVPHC 2002, trong đó có quy định về biện pháp XLHC đưa vào CSCB tại
Điều 26; Chính phủ quy định cụ thể biện pháp này bằng Nghị định
135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng
biện pháp đưa vào CSCB, tổ chức hoạt động của CSCB theo Pháp lệnh
XLVPHC và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự nguyện
vào CSCB; Nghị định 61/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004 của Chính phủ quy định về chế độ
áp dụng biện pháp đưa vào CSCB, tổ chức hoạt động của CSCB theo Pháp
lệnh XLVPHC và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự
nguyện vào CSCB. Đồng thời, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã chủ
trì, phối hợp với các Bộ, ngành trung ương ban hành một loạt thông tư, thông
tư liên tịch hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
Đặc điểm này còn cho thấy, tính pháp chế trong việc quy định biện
pháp XLHC đưa vào CSCB, theo đó, việc áp dụng biện pháp này phải tuân
theo những quy định hết sức cụ thể và chặt chẽ trong các văn bản quy phạm
pháp luật của nhà nước. Điều này cũng dễ hiểu bởi đây là biện pháp cưỡng
chế hành chính tương đối nghiêm khắc, khi tước đi một phần quyền tự do cá
nhân của chủ thể khi áp dụng.
- Pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB có nội dung là nhằm
đưa người nghiện ma túy, người bán dâm vi phạm nhiều lần đã được áp dụng
các biện pháp XLHC khác nhưng vẫn vi phạm hoặc không có nơi cư trú rõ
19
ràng vào các CSCB để lao động, học tập, học nghề và chữa bệnh. Đây là đặc
điểm thể hiện nội dung cơ bản của biện pháp XLHC này. Bởi đối tượng quy
định của biện pháp XLHC này chính là người nghiện ma túy và người bán
dâm, là những đối tượng có hành vi vi phạm hành chính ở mức độ tương đối
nguy hiểm, xâm phạm vào trật tự quản lý hành chính nhà nước, đe dọa an
toàn trật tự công cộng cần phải cách ly một thời gian khỏi cộng đồng để quản
lý và giáo dục thành người lương thiện cho xã hội.
- Pháp luật về biện pháp đưa vào CSCB có nội dung chủ yếu là biện
pháp giáo dục, học tập, cải tạo và chữa bệnh đối với những đối tượng bị áp
dụng. Bản chất của biện pháp này là việc đưa các đối tượng bán dâm, người
nghiện ma túy vào các CSCB để họ làm lại cuộc đời. Trong các CSCB người
nghiện ma túy, người bán dâm được học tập văn hóa, học nghề, lao động sản
xuất và chữa bệnh để phục hồi sức khỏe, cắt cơn và cai nghiện, chữa các bệnh
truyền nhiễm khác, đồng thời với đó là học nghề để đảm bảo quá trình tái hòa
nhập cộng đồng. Mục đích của pháp luật quy định về biện pháp XLHC đưa
vào CSCB là nhằm cho người nghiện ma túy, người bán dâm lao động, học
nghề, học tập và chữa bệnh để trở thành người có ích cho xã hội. Đây chính là
tính nhân văn của các quy định pháp luật về biện pháp XLHC này.
1.4. Các yếu tố tác động và những yêu cầu cơ bản đối việc việc xây
dựng pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh
1.4.1. Các yếu tố tác động đối việc việc xây dựng pháp luật về biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh
- Yếu tố chính trị - tư tưởng
Các yếu tố về chính trị - tư tưởng là các yếu tố thuộc thượng tầng kiến
trúc luôn có sự tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Pháp luật về các biện
pháp cưỡng chế hành chính cũng bị chi phối và phụ thuộc nhiều vào yếu tố
chính trị - tư tưởng. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
20
tư tưởng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo và mở rộng các
quyền tự do dân chủ luôn là những yếu tố chính trị - tư tưởng có tác động
mạnh mẽ đến pháp luật về các biện pháp XLHC trong đó có biện pháp
XLHC đưa vào CSCB.
Nằm trong mối tương quan với các biện pháp XLHC khác, biện pháp
đưa vào CSCB cần được xây dựng một cách đúng đắn và phù hợp nhất, đáp
ứng hiệu lực, hiệu quả tình hình xử lý vi phạm pháp luật, phản ánh được
các yêu cầu khách quan của sự vận động, phát triển kinh tế - xã hội đồng
thời thể hiện được nội dung dân chủ, công bằng và nhân đạo của pháp luật
xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, về mặt bản chất, các biện pháp XLHC khác nói chung và
biện pháp đưa vào CSCB nói riêng luôn mang trong mình ý chí của giai cấp
thống trị. Khi có sự thay đổi về giai cấp thống trị xã hội thì tất yếu dẫn đến
quan niệm, nội dung, mục đích áp dụng các biện pháp này là khác nhau. Quan
niệm của các giai cấp trong xã hội đối với các đối tượng bị áp dụng các biện
pháp, về tệ nạn, hiện tượng trong xã hội sẽ quy định nội dung, trình tự, thủ tục
của biện pháp XLHC đưa vào CSCB. Cụ thể như, sự nhìn nhận của xã hội về
các đối tượng bán dâm là người vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp
XLHC đưa vào CSCB hay họ chỉ là nạn nhân cần được hỗ trợ trong quá trình
tái hòa nhập cộng đồng, cũng làm thay đổi quan niệm về đối tượng áp dụng
biện pháp đưa vào CSCB.
Cách thức tổ chức quyền lực nhà nước cũng có ảnh hưởng đến pháp
luật về biện pháp XLHC đưa vào CSCB. Theo đó, ở nước ta quyền lực nhà
nước tập trung vào Quốc hội, cơ quan đại diện cho lợi ích và ý chí của đông
đảo người dân. Tuy nhiên, giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp có
sự phân công, phối hợp hài hòa với nhau. Biện pháp XLHC đưa vào CSCB là
biện pháp hạn chế quyền tự do của công dân được quy định tại Điều 26 của
21