Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong pháp luật hôn nhân và gia đình việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.42 KB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ THANH HUYỀN

BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA PHỤ NỮ TRONG
PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Hà Nội – 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ THANH HUYỀN

BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA PHỤ NỮ TRONG
PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số

: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Cừ

Hà Nội – 2013




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan. Đây là công trình nghiên cứu riêng
của tôi, các số liệu trong luận văn là hoàn toàn trung thực. Các
kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được công bố
trong bất cứ một công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vũ Thị Thanh Huyền


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DLBK
DLTK
BLGL
BLHĐ
CEDAW

Dân Luật Bắc Kỳ
Dân Luật Trung Kỳ
Bộ Luật Gia Long
Bộ Luật Hồng Đức
Công ước về xóa bỏ mọi hình thức

HN&GĐ
NXB

TAND
UBND
VKSND

phân biệt đối xử với phụ nữ
Hôn nhân và Gia đình
Nhà xuất bản
Tòa án nhân dân
Ủy ban nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân

MỤC LỤC
Trang

Lời cam đoan
Mục lục


Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
Chương 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG
CỦA
PHỤ NỮ TRONG PHÁP LUẬT HN&GĐ VIỆT NAM.........................5
1.1. Khái niệm và vai trò của việc đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ.
...........................................................................................................................5
1.1.1. Khái niệm về quyền bình đẳng của phụ nữ................................................. 5
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người............................................................................ 5
1.1.1.2. Khái niệm quyền phụ nữ.........................................................................7
1.1.1.3. Khái niệm quyền bình đẳng của phụ nữ...................................................8
1.1.2. Khái niệm về bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ................................8

1.1.3. Vai trò của việc bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ........................... 9
1.2. Một số quy định về bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ................10
1.2.1. Theo quy định của luật pháp quốc tế...........................................................10
1.2.1.1. Công ước Cedaw..................................................................................10
1.2.1.2. Các văn bản pháp lý quốc tế khác.........................................................12
1.2.2. Lịch sử bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong pháp luật Việt
Nam.................................................................................................................14
1.2.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.....................................14
1.2.2.2. Giai đoạn sau cách mạng tháng 8 năm 1945.........................................23
Chương 2: PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM VỀ
VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA PHỤ NỮ...................31
2.1. Quyền bình đẳng của phụ nữ theo quy định của Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2000........................................................................................31
2.1.1. Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong việc kết hôn.................31


2.1.2. Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan
hệ vợ chồng..............................................................................................34
2.1.2.1. Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ nhân thân..............34
2.1.2.2. Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ tài sản..................45
2.1.3. Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong việc ly hôn...................50
2.1.3.1. Bình đẳng trong việc thực hiện quyền yêu cầu ly hôn.............................50
2.1.3.2. Bình đẳng trong việc chia tài sản khi ly hôn...........................................53
2.1.3.3. Bình đẳng trong việc cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn.................55
2.1.4. Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong việc thực hiện quyền
của cha mẹ đối với các con.........................................................................................55
2.1.4.1. Quyền được làm mẹ..............................................................................55
2.1.4.2. Quyền nhận nuôi con nuôi....................................................................60
2.1.4.3. Quyền bình đẳng giữa cha và mẹ đối với con cái...................................61
2.2. Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong các văn bản pháp luật

khác.................................................................................................................64
2.2.1. Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh
vực chính trị.............................................................................................................64
2.2.2. Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế..........66
2.2.3. Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực văn hóa, xã
hội.......................................................................................................................................67
2.2.4. Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực
tự do cá nhân........................................................................................................... 68
Chương 3: THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA
PHỤ NỮ
THEO PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM.........71
3.1. Tình hình thực hiện việc bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong
pháp Luật HN&GĐ Việt Nam......................................................................71


3.1.1. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.............71
3.1.2. Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ, chồng.. .75
3.1.3. Thực tiễn thực hiện quyền được làm mẹ của người
phụ nữ...........................................................................................................................78
3.1.4. Thực tiễn thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ khi ly hôn.............79
3.1.5. Thực tiễn thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ trong việc giải
quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn.....................................................................81
3.2. Đánh giá chung về bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong thực
tiễn áp dụng pháp luật HN&GĐ Việt Nam.................................................85
3.2.1. Những kết quả đạt được.................................................................................. 85
3.2.2. Nguyên nhân.......................................................................................................88
3.2.2.1. Nguyên nhân kết quả đạt được..............................................................88
3.2.2.2. Nguyên nhân hạn chế............................................................................90
3.3. Một số giải pháp nhằm bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong
pháp luật HN&GĐ........................................................................................95

3.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật......................................................................95
3.3.2. Tuyên truyền phổ biến pháp luật.................................................................. 97
3.3.3. Nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp..................................................100
KẾT LUẬN..................................................................................................101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................103


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Danh ngôn có câu: “Phụ nữ đỡ nửa bầu trời”. Sự đúc kết đó đã nói lên
vai trò đặc biệt quan trọng, không thể thiếu của người phụ nữ trong xã hội.
Tuy nhiên, ở hầu hết các nước trên thế giới, phụ nữ thường không nhận được
sự quan tâm, bảo vệ thích đáng của xã hội, thậm chí còn có sự phân biệt đối
xử, ngược đãi, bóc lột tàn bạo vẫn còn tồn tại. Là lực lượng chiếm đa số trong
xã hội, lại thực hiện nhiều chức năng quan trọng, như: thực hiện chức năng
sinh sản duy trì nòi giống, nuôi dưỡng con cái, tham gia các hoạt động xã
hội…, nhưng phụ nữ vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới. Chính vì
lẽ đó, Liên hiệp quốc và các tổ chức quốc tế khác đã ban hành nhiều điều ước
quốc tế nhằm bảo vệ và thực hiện quyền bình đẳng của người phụ nữ.
Ở Việt Nam, phụ nữ đã có những đóng góp hết sức to lớn vào công
cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm và giữ gìn độc lập, xây dựng tổ quốc.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, bên cạnh việc luôn sát cánh cùng xã hội
phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” người phụ nữ còn có những cống hiến xuất sắc trong việc chăm lo xây
dựng gia đình, nuôi dưỡng thế hệ công dân tương lai của đất nước.
Khẳng định vị thế của người phụ nữ Việt Nam, bên cạnh việc tham gia
các Điều ước quốc tế, Nhà nước ta còn ban hành nhiều văn bản quy phạm
pháp luật quy định quyền của phụ nữ, như: Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Luật
Hôn nhân và Gia đình, Bộ luật Hình sự… đây có thể coi là những bước tiến
dài, quan trọng trong lộ trình đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ Việt Nam.

Trong phạm vi nghiên cứu này, tôi chọn đề tài “Bảo đảm quyền bình
đẳng của phụ nữ trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam” làm công trình nghiên
cứu cho luận văn thạc sĩ của mình. Bởi lẽ, muốn thực hiện và bảo đảm thực
hiện quyền của người phụ nữ trong xã hội thì phải bảo đảm thực hiện quyền

1


của họ ngay từ trong gia đình. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và một
số văn bản pháp lý khác là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm thực hiện
quyền bình đẳng của phụ nữ. Công trình nghiên cứu này, bên cạnh việc phân
tích những quy định trong pháp luật HN&GĐ về quyền và việc bảo đảm
quyền bình đẳng của phụ nữ; cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn của những
quy định về bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ, cũng chỉ rõ những điểm
mới, hợp lý và bất hợp lý về bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ. Từ đó,
luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện việc bảo đảm quyền bình
đẳng của phụ nữ trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Trong những năm gần đây, đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu
xoay quanh vấn đề quyền của phụ nữ như : Quyền của phụ nữ trong Hiến
pháp Việt Nam – tác giả Chu Mạnh Hùng – Tạp chí Luật học số đặc san năm
2004 ; Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 với việc bảo vệ quyền lợi của
phụ nữ - Ths. Trần Thị Huệ – Tạp chí Luật học số đặc san năm 2004… được
thể hiện trên các Tạp chí Luật học, tạp chí Nhà nước và pháp luật…; Luận
văn thạc sĩ của tác giả Bùi Thị Mừng với nội dung "Bảo vệ quyền của phụ nữ
trong luật HN&GĐ Việt Nam’’. Bên cạnh đó, trong các giáo trình giảng dạy
luật học tại các cơ sở đào tạo luật học ở nước ta những năm gần đây như Giáo
trình Luật Dân sự, Giáo trình Luật Lao động, Giáo trình Luật HN&GĐ…
cũng đã đề cập đến quyền của phụ nữ, tuy nhiên, tất cả các công trình trên
mới chỉ đề cập đến một lượng kiến thức cơ bản và chưa chuyên sâu về quyền

bình đẳng của phụ nữ.
Đề tài ‘Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong pháp luật
HN&GĐ Việt Nam’ là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên nghiên cứu
và chuyên sâu về bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ, góp phần quan
trọng trong việc thực hiện bình đẳng giới và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam.

2


3. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
- Đánh giá đúng thực trạng, xác định phương hướng nhằm bổ sung
các giải pháp bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ theo pháp luật HN&GĐ Việt
Nam;
- Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và nhu cầu thực tiễn để hoàn thiện
các giải pháp nhằm đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ nói riêng và quyền
bình đẳng giới nói chung trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng bảo đảm quyền của phụ nữ
trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam. Cụ thể:
- Các quy định về bảo đảm quyền bình đẳng trong quan hệ nhân thân,
trong quan hệ tài sản, trong việc thực hiện quyền của cha mẹ đối với con …
- Vai trò của cộng đồng đối với việc đảm bảo quyền bình đẳng của
phụ nữ.
- Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật HN&GĐ Việt Nam vào
việc bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ.
- Nêu các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật HN&GĐ Việt Nam về
quyền bình đẳng của phụ nữ để từ đó nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
HN&GĐ vào việc bảo đảm quyền bình đằng của phụ nữ.
5. Phương pháp nghiên cứu.

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mac – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về HN&GĐ. Bên cạnh đó, để thực
hiện các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể, luận văn còn sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau như:
- Phương pháp lịch sử: được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu quyền
bình đẳng của phụ nữ theo pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ.

3


- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng khi phân tích các vấn
đề liên quan đến quyền bình đẳng của phụ nữ và khái quát những nội dung cơ
bản của từng vấn đề được nghiên cứu trong luận văn.
- Phương pháp so sánh: được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của
pháp luật hiện hành với hệ thống pháp luật trước đây ở Việt Nam cũng như
pháp luật một số nước khác quy định về quyền bình đẳng của phụ nữ.
- Phương pháp thống kê: được sử dụng để cung cấp một số tài liệu liên
quan đến việc bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong thực tiễn áp dụng
pháp luật HN&GĐ Việt Nam.
6. Những điểm mới của luận văn.
- Về cách tiếp cận: Luận văn lần đầu tiên nghiên cứu về bảo đảm quyền
bình đẳng của phụ nữ trong pháp luật HN&GĐ thông qua việc gắn các quy
định pháp luật có liên quan với vấn đề bình đẳng giới và quyền bình đẳng của
phụ nữ trong pháp luật quốc tế.
- Về nội dung: Luận văn khái quát hóa, phân tích và đánh giá một cách
có hệ thống các quy phạm pháp luật hiện hành về bảo đảm quyền bình đẳng
của phụ nữ cũng như việc thực hiện những quy phạm này trong thực tế. Bên
cạnh đó, luận văn cũng đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện hệ thống pháp
luật về bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực HN&GĐ.
7. Kết cấu của luận văn.

Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương :
Chương 1: Lý luận cơ bản về bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ
trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam.
Chương 2: Pháp luật HN&GĐ về việc bảo đảm quyền bình đẳng của
phụ nữ.
Chương 3: Thực tiễn việc bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ theo
pháp luật HN&GĐ Việt Nam.

4


Chương 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA
PHỤ NỮ TRONG PHÁP LUẬT HN&GĐ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và vai trò của việc đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ.
1.1.1. Khái niệm về quyền bình đẳng của phụ nữ.
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người.
Để tìm hiểu và đưa ra khái niệm về quyền bình đẳng của phụ nữ,
trước hết cần tìm hiểu về các khái niệm liên quan: quyền con người,
quyền của phụ nữ …
Quyền con người, ngay từ đầu là một thuộc tính bản chất tự nhiên, là
đặc quyền. Cho nên, khi các đặc quyền đó bị vi phạm, bị chà đạp thô bạo thì
ắt sẽ bùng nổ các cuộc cách mạng. Trong các Nhà nước cổ đại, đã có những
cuộc khởi nghĩa của tầng lớp bị trị nổ ra đòi lại những đặc quyền vốn sơ khai
đó. Do có những cuộc đấu tranh như vậy, công lý để ngăn chặn kẻ mạnh
không làm hại đến kẻ yếu đã bùng nổ, các văn bản pháp luật đã được thiết lập
để bảo vệ con người, quy định con người có những quyền hạn và nghĩa vụ
nhất định, tiêu biểu là việc lập nên Bộ luật Hamurabi, mặc dù còn nhiều hạn
chế nhưng Bộ luật đó đã nêu được tư tưởng đầu tiên về bình đẳng, dân chủ và

pháp luật hóa tư tưởng về quyền con người.
Khi xã hội loài người ngày càng phát triển, các trường phái triết học,
pháp luật dần hình thành và ngày càng lớn mạnh. Các trường phái này đi vào
nghiên cứu giải thích các vấn đề tự nhiên, xã hội và con người. Đáng chú ý là
thế kỷ 17-18 trường phái pháp luật tự nhiên với các đại diện như: Spinoda,
Hobbes, Kant… đã mở ra một trang mới cho sự phát triển tư tưởng bảo vệ
quyền cá nhân chống lại sự vi phạm từ phía quyền lực, tức là bảo vệ các
quyền hiển nhiên, có sẵn của con người, không phải quyền do Nhà nước,

5


pháp luật ban phát. Tư tưởng này góp phần thắng lợi vào cách mạng tư sản lật
đổ chế độ phong kiến tàn bạo, thiết lập Nhà nước mà ở đó con người với
những giá trị đích thực của nó được nâng lên một bước - công dân của xã hội
Nhà nước chứ không phải thần dân của ông vua.
Khác với các Nhà nước phong kiến và tư bản phương tây, chế độ Nhà
nước phong kiến Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử, nói chung vẫn
mang tính hà khắc. Song, thời kỳ đó "phép vua" và "lệ làng" có tính dân tộc,
nhân đạo, tiến bộ và được thể hiện rõ nét trong Quốc triều Hình luật là bộ luật
do vua Lê Thánh Tông soạn thảo, được ban hành năm 1483 có kế thừa, bổ
sung những luật lệ được ban hành từ rất nhiều năm trước và được nhiều bộ
luật, luật sau này tiếp thu những tư tưởng tiến bộ. Trong suốt các triều đại
phong kiến Việt Nam, vua được mệnh danh là con trời, cai trị trên nền tảng tư
tưởng nho giáo bị các triết lý nho giáo, điều chỉnh hành vi của mình. Vua là
cha mẹ của dân, buộc phải thích cái dân thích, ghét cái dân ghét bởi "ý trời là
lòng dân". Do đó, vương quyền của vua bị hạn chế, dân cũng có được một số
yếu tố về các quyền dù còn nhỏ nhặt mang tính cộng đồng. Tuy nhiên, đây chỉ
là những tư tưởng hết sức rời rạc.
Khi cách mạng tư sản nổ ra, thắng lợi với những tiền đề tư tưởng và

thành tựu của khoa học tự nhiên thì vấn đề quyền con người mới được đặt ra
như một học thuyết, hay nói cách khác, quyền con người bắt đầu được chính
thức công khai thừa nhận. Sự kiện này được đánh dấu bằng Tuyên ngôn độc
lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776 và sau đó là Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789.
Sau chiến tranh Thế giới thứ hai, cộng đồng quốc tế thông qua Liên
hiệp quốc tuyên bố chính thức về các quyền và tự do của con người bằng
Hiến chương Liên hiệp quốc năm 1945 và Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân
quyền năm 1948. Cụ thể hoá quyền con người trong các văn bản trên, năm

6


1966, Liên hiệp quốc thông qua Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã
hội và văn hoá (ngày 24/9/1982 Việt Nam gia nhập hai Công ước này).
Như vậy, quyền con người là một trong những giá trị xã hội cao quý
nhất đồng thời là vấn đề rộng lớn, phức tạp, được nhiều chuyên ngành khoa
học nghiên cứu, do đó có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về quyền
con người. Song, trước hết quyền con người được hiểu là những đặc quyền
mà con người sinh ra là tự nhiên có. Đó là những đặc quyền mang tính tự
nhiên mà nổi bật là quyền được sống, được bảo vệ, được tự do phát triển. Mặc
dù, những đặc quyền đó có trước, song chừng nào chưa được công nhận thì
chúng không thể được đưa ra áp dụng. Do đó, để đạt tới cái gọi là quyền cần
phải có sự ghi nhận mà cụ thể là bằng pháp luật. Các đặc quyền được pháp
luật ghi nhận, điều chỉnh thì mới chính thức trở thành quyền của con người.
Quyền con người là những đặc quyền (quyền tự nhiên) của con người
được pháp luật đảm bảo do cá nhân con người nắm giữ trong các quan hệ của
mình với các cá nhân khác và với chính quyền.
Tóm lại, quyền con người là hệ thống các quyền của con người được
xã hội thừa nhận và bảo đảm bằng pháp luật. Chính vì vậy, quyền con người

mang hai đặc tính cơ bản là tính nhân đạo và tính pháp luật. Thực tiễn cuộc
sống chỉ ra rằng, quyền con người là quyền của cá nhân con người, nhưng
quyền đó chỉ có thể có được trong quan hệ gắn bó với các con người khác
trong tập thể, cộng đồng. Hay nói cách khác quyền con người trở nên vô
nghĩa khi con người tách khỏi tập thể, cộng đồng và ở trong tập thể, cộng
đồng nên quyền của cá nhân con người không thể tách rời nghĩa vụ của họ đối
với xã hội, Nhà nước.
1.1.1.2. Khái niệm quyền phụ nữ.
Trên cơ sở khái niệm quyền con người, quyền phụ nữ cần được nghiên
cứu trong mối liên hệ với quyền con người. Quyền con người không chấp

7


nhận phân biệt đối xử, mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về nhân
phẩm, quyền lợi và mỗi người đều có tất cả các quyền lợi, quyền tự do vốn có
của con người. Nói tới quyền con người là nói tới việc đảm bảo quyền bình
đẳng giữa nam và nữ trong việc hưởng thụ quyền lợi về kinh tế, xã hội, văn
hóa, dân sự và chính trị. Bởi vậy, phụ nữ cũng như nam giới họ phải được
hưởng tất cả những quyền con người mà pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Sự
tham gia đầy đủ và bình đẳng của phụ nữ vào đời sống chính trị - kinh tế - xã
hội và văn hóa ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế và việc xóa bỏ tất cả các
hình thức phân biệt dựa trên cơ sở giới tính… là những mục tiêu cấp bách của
cộng đồng quốc tế. Vũ lực dựa trên sự khác biệt về giới tính và tất cả những
hình thức o ép, bóc lột tình dục và buôn bán phụ nữ đều không phù hợp với
nhân phẩm và giá trị con người và phải bị xóa bỏ. Như vậy, quyền phụ nữ
chính là quyền con người của phụ nữ.
1.1.1.3. Khái niệm quyền bình đẳng của phụ nữ.
Quyền bình đẳng của phụ nữ được ghi nhận trong các văn bản pháp lý
quan trọng, song việc bình đẳng không chỉ dừng lại bình đẳng giữa vợ và

chồng trong công việc gia đình. Người phụ nữ ngoài công việc gia đình còn
tham gia vào các hoạt động trong xã hội. Phụ nữ và nam giới đều là những
con người.
Vì vậy, quyền bình đẳng của phụ nữ là quyền ngang nhau về mọi mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình so với nam giới..
1.1.2. Khái niệm về bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ.
Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng quan tâm đến vấn đề bảo đảm
quyền bình đẳng của phụ nữ. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
“Người phụ nữ Việt Nam đã trở thành biểu tượng tuyệt vời của nền văn hóa
mới, trong thời đại mới. Chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước

8


đã vạch sẵn con đường: Xây dựng con người mới, lối sống mới, con người
mới bắt đầu từ mỗi gia đình…” [33, tr51]
Các quyền của phụ nữ là một bộ phận cấu thành không thể tước đoạt và
không thể chia cắt khỏi các quyền của con người. Cho nên, việc xác định và
ghi nhận các quyền con người cho họ, nhất là tiêu chí bình đẳng là rất cần
thiết. Có thể nói, đây chính là cơ sở để chúng ta tiến hành bảo đảm quyền
bình đẳng của phụ nữ.
Đấu tranh và bảo đảm quyền con người nói chung trong đó có quyền
phụ nữ nói riêng là một trong những mục tiêu của nhân loại tiến bộ, của xã
hội văn minh. Vì vậy, chúng ta phải không ngừng tiến tới xóa bỏ bất bình
đẳng trong xã hội, bất bình đẳng giữa nam và nữ để bảo đảm quyền con người.
Có nhiều phương thức để bảo đảm quyền con người, nhưng phương
thức không thể thiếu đó là việc bảo đảm quyền con người bằng pháp luật.
Chính vì vậy, bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ là sự ghi nhận các quyền
con người bằng pháp luật và phải bảo đảm các quyền đó được thực hiện.

1.1.3. Vai trò của việc bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ.
Phụ nữ là nhóm xã hội đặc biệt, dễ bị tổn thương, quyền của người phụ
nữ trên thực tế thường hay bị xâm phạm. Người phụ nữ luôn luôn chịu sự
phân biệt đối xử ở khắp mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh. Cho nên, việc bảo
đảm quyền bình đẳng của phụ nữ là hết sức cần thiết và cấp bách. Khi quyền
bình đẳng của phụ nữ được đảm bảo thì xã hội không còn sự phân biệt đối xử
và phụ nữ cũng có những điều kiện để thực hiện tốt thiên chức đặc biệt của
mình: sinh đẻ, chăm nuôi con, xây dựng tổ ấm gia đình…. “Nói về phụ nữ là
nói về phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng
một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là chỉ xây dựng chủ nghĩa
xã hội một nửa”[30, tr21]
Để thực hiện tốt công việc này cần đòi hỏi hệ thống pháp luật về bảo vệ

9


quyền của phụ nữ một cách hoàn chỉnh và đồng bộ với những biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc. Muốn vậy, các quy định của pháp luật về quyền của
phụ nữ phải được tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong xã hội, giúp mọi đối
tượng thấy rõ vai trò, vị trí của người phụ nữ để từ đó có nhận thức và hành
động đúng, cũng đồng thời, nâng cao nhận thức, hiểu biết của người phụ nữ,
để tự họ có thể hiểu và nâng cao ý thức tự bảo vệ các quyền lợi của bản thân.
Việc bảo đảm quyền của phụ nữ có ý nghĩa hết sức to lớn trong giai
đoạn hiện nay: Bảo đảm quyền bình đẳng đã góp phần hình thành và nâng cao
ý thức, nhận thức pháp luật cho mọi đối tượng trong xã hội; Là khâu quan
trọng trong quá trình thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc
sống; Góp phần ngăn ngừa và hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật, góp
phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; Góp phần bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người phụ nữ trong xã hội.
1.2. Một số quy định về bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ.

1.2.1. Theo quy định của luật pháp quốc tế.
1.2.1.1. Công ước Cedaw
“ Sự phân biệt đối xử với phụ nữ vẫn đang là một vấn đề nghiêm trọng
trên thế giới và chính nó đã vi phạm các nguyên tắc về quyền bình đẳng và
tôn trọng phẩm giá con người, là một trở ngại đối với việc phụ nữ tham gia
vào đời sống chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa, cản trở sự tăng trưởng của
xã hội và gia đình và gây khó khăn cho sự phát triển đầy đủ các khả năng tiềm
tàng của phụ nữ trong việc phục vụ đất nước và loài người”[29]
Công ước Cedaw về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
của Hội đồng Liên hợp quốc đã được thông qua ngày 18 tháng 12 năm 1979.
Cedaw đã nhận được nhiều sự hoan nghênh và ủng hộ của nhiều quốc gia và
nhiều tổ chức chính phủ và phi chính phủ trên khắp thế giới. Đây là một văn

10


bản pháp lý quốc tế toàn diện nhất từ trước đến nay đề cập đến phụ nữ và
những điều kiện để đảm bảo sự bình đẳng của phụ nữ. Văn bản này cũng đánh
dấu một bước ngoặt quan trọng trong phong trào đấu tranh cho quyền bình
đẳng nam nữ, đã đề ra những biện pháp cụ thể nhằm khắc phục những cản trở
trong việc thực hiện các quyền con người của phụ nữ
Nội dung quan trọng về quyền con người của phụ nữ mà Cedaw ghi
nhận và bảo vệ là quyền không bị phân biệt đối xử.
Công ước Cedaw ghi nhận:
Các quốc gia thành viên phải thể hiện nguyên tắc bình đẳng nam nữ
vào Hiến pháp và pháp luật của mình để bảo đảm cho người phụ nữ được
bình đẳng với nam giới.(Điều 2);
Ghi nhận và bảo đảm quyền được phát triển và tiến bộ của người phụ
nữ trên tất cả các lĩnh vực (Điều 3);
Gnhận quyền được ưu tiên trong đối xử của người phụ nữ (Điều 4);

Quyền con người của phụ nữ không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố văn
hóa truyền thống có hại (Điều 5);
Người phụ nữ không bị ảnh hưởng bởi các hình thức buôn bán, bóc lột,
mại dâm phụ nữ (Điều 6);
Quyền bình đẳng nam nữ trong các lĩnh vực chính trị, tham gia các
quan hệ quốc tế; quyền bình đẳng trong vấn đề quốc tịch; quyền bình đẳng
trong lĩnh vực giáo dục; quyền bình đẳng trong lĩnh vực lao động (Điều 7,
Điều 10);
Người phụ nữ quyền được cung cấp những thông tin cho việc bảo đảm
sức khỏe và hạnh phúc gia đình; thông tin về kế hoạch hóa gia đình; quyền
không bị phân biệt đối xử vì các lý do liên quan đến đặc trưng riêng biệt về

11


giới tính; quyền của phụ nữ có thai được bảo vệ đặc biệt; quyền được quan
tâm chăm sóc khi mang thai, sinh đẻ và nuôi con nuôi (Điều 11);
Công ước Cedaw ghi nhận và đảm bảo quyền bình đẳng của người phụ
nữ trong các lĩnh vực y tế; kinh tế xã hội; dân sự và trong lĩnh vực hôn nhân,
gia đình (Điều 12,13,14,15,16).
Cedaw được ban hành với mục đích nhằm trao cho phụ nữ những
quyền con người mà pháp luật quốc tế đã thừa nhận nhưng phụ nữ chưa được
hưởng trên thực tế bởi họ phải chịu sự phân biệt đối xử. Các quốc gia đã phê
chuẩn Cedaw đều đã cố gắng đưa tinh thần của Công ước vào các chính sách,
chương trình cụ thể của nước mình ở các mức độ khác nhau. Ngày 27 tháng 7
năm 1980 Việt Nam đã ký Công ước và phê chuẩn vào ngày 19 tháng 3 năm
1982. Việt Nam là nước thứ 6 ký và nước thứ 35 phê chuẩn công ước. Việt
Nam tham gia công ước Cedaw nên Đảng và Nhà nước cũng đã ban hành
nhiều chính sách, nghị quyết, quyết định cùng nhiều biện pháp cụ thể để đảm
bảo cho phụ nữ Việt Nam phát triển và tiến bộ đầy đủ, có khả năng thực hiện

và hưởng các quyền con người và tự do cơ bản trên cơ sở bình đẳng với nam giới.
1.2.1.2. Các văn bản pháp lý quốc tế khác
Ngoài Công ước Cedaw về bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ còn
có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong các Văn kiện quốc tế về quyền
con người đề cập đến. Bởi vì quyền của phụ nữ bị vi phạm do sự phân biệt đối
xử diễn ra ở khắp mọi nơi trên thế giới cho nên việc bảo đảm quyền bình đẳng
của phụ nữ là vấn đề quan trọng.
Khoản 3 Điều 1, Hiến chương Liên hợp quốc cũng đã đề cập đến việc
bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ: “Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong
việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo, và
trong việc khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và

12


các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới
tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”;
Bản tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc thúc
đẩy sự tôn trọng các quyền tự do cơ bản của con người, thông qua truyền bá
và giáo dục; cũng như phấn đấu đảm bảo cho mọi người dân, ở chính các
nước thành viên của Liên hợp quốc và ở các lãnh thổ thuộc quyền quản lý của
mình, công nhận và thực hiện những quyền và tự do đó một cách đồng bộ và
có hiệu quả thông qua những biện pháp tích cực trong phạm vi quốc gia hay
quốc tế. Tại điều 1 quy định: “ Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và
bình đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi con người đều được tạo hóa ban cho
lý trí và lương tâm và cần phải đối xử với nhau trong tình bằng hữu”; Điều 2:
“Mọi người đều được hưởng tất cả những quyền và tự do nêu trong Bản tuyên
ngôn này, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo,
quan điểm chính trị hay các quan điểm khác, nguồn gốc quốc gia hay xã hội,
tài sản, thành phần xuất thân hay địa vị xã hội….”;

Các Văn kiện quốc tế về quyền con người khác cũng đề cập đến quyền
con người của phụ nữ: Công ước quốc tế về quyền kinh tế – xã hội – văn hóa;
Công ước quốc tế về quyền dân sự – chính trị; Công ước Giơ - ne – vơ năm
1949 về bảo vệ thường dân trong chiến tranh; Tuyên ngôn Viên và chương
trình hành động năm 1993; Công ước về các quyền chính trị của phụ nữ năm
1952; Công ước về quốc tịch của phụ nữ khi kết hôn năm 1957; Tuyên ngôn
về loại bỏ hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1967; Tuyên ngôn Bắc
Kinh và Cương lĩnh hành động năm 1995…
Phụ nữ chiếm hơn một nửa nhân loại, cho nên các quốc gia đã đặt việc
giải phóng phụ nữ là một cuộc đấu tranh lâu dài. Chính vì vậy, pháp luật quốc
tế ngày càng được hoàn thiện, để luôn luôn có cơ sở vững chắc để bảo đảm
các quyền phụ nữ được bình đẳng.

13


1.2.2. Lịch sử bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ
trong pháp luật Việt Nam.
1.2.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.
a) Quyền của phụ nữ trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
Trước Cách mạng tháng Tám, pháp luật không tồn tại nguyên tắc bảo
vệ quyền của người phụ nữ. Pháp luật chỉ đề cao, củng cố vị trí người gia
trưởng, đàn ông trong gia đình, còn quyền của người phụ nữ và trẻ em không
được đảm bảo. Hơn nữa, pháp luật phong kiến Việt Nam lại chịu sự ảnh
hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo nên địa vị của người phụ nữ hoàn toàn phụ
thuộc vào nam giới (tư tưởng Nho giáo: sinh con trai được coi trọng hơn sinh
con gái; quyền hành của người gia trưởng trong gia đình rất lớn; người phụ nữ
phải kiêm đủ “Tam tòng tứ đức”; quyền thừa kế gia sản của cha mẹ dành cho
con trai; việc truyền nghề tại các làng nghề không truyền cho con dâu hay con
gái, người con trai được học hành thi cử để tiến thân bằng con đường quan lộ

nhưng người con gái chỉ làm việc nhà). Tư tưởng này chính là khởi điểm cho
mọi sự bất bình đẳng mà người phụ nữ ở chế độ này phải gánh chịu. Tư tưởng
Nho giáo đã đi vào pháp luật phong kiến, thể hiện rõ nét về thời kỳ này đó là
Bộ Luật Hồng Đức (BLHĐ) và Bộ Luật Gia Long (BLGL). BLHĐ ban hành
dưới thời Lê, vào thế kỷ 15, một thời kỳ hưng thịnh của Nhà nước phong kiến
Việt Nam cho nên BLHĐ có nhiều điểm tiến bộ. BLGL ban hành dưới thời
Nguyễn, thế kỷ 19, tuy không có nhiều điểm tiến bộ so với BLHĐ, nhưng cả
hai bộ luật này ít nhiều đã ghi nhận quyền của phụ nữ, nhưng chưa nhiều và
chưa thể hiện sự bình đẳng giữa nam và nữ. Cụ thể:
*) Quyền kết hôn
Quyền tự do kết hôn không được ghi nhận cho người phụ nữ, người
phụ nữ bị hạn chế quyền tự do khi kết hôn. Hôn nhân thời kỳ này thực hiện
trên nguyên tắc không tự nguyện. Theo quan niệm của Nho giáo: “Cha mẹ đặt

14


đâu con ngồi đấy” tức là chế độ cưỡng ép kết hôn. Tình yêu và sự lựa chọn
tình yêu của nam và nữ lại phải được sự đồng ý của cha mẹ, việc quyết định
hạnh phúc của con cái là do cha mẹ. Cho nên, trong thời kỳ này sự ưng thuận
của nam và nữ không được đề cập đến trong BLGL và BLHĐ. Điều 314
BLHĐ đề cập kết hôn phải có sự đồng ý của cha mẹ.
Điều 317 BLHĐ và Điều 98 BLGL quy định việc cấm kết hôn khi đang
có tang cha, mẹ hoặc tang chồng. Quy định này cũng thể hiện sự phân biệt đối
xử với người phụ nữ. Khi người chồng mang tang vợ thì luật pháp không cấm
kết hôn, ngược lại người phụ nữ phải “ở vậy” thờ chồng, nuôi con mà không
được phép “tái giá”. Đây chính là đặc quyền của quyền gia trưởng trong thời
kỳ phong kiến, thể hiện sự phân biệt đối xử giữa người phụ nữ và người nam
giới trong gia đình.
Bên cạnh đó, pháp luật phong kiến còn hạn chế quyền kết hôn của phụ

nữ dựa trên sự phân biệt về địa vị xã hội, sự cấm đoán này bắt nguồn từ ở các
mối quan tâm về phương diện đạo đức hay chính trị nhiều hơn là cá nhân.
Như tại Điều 323, BLHĐ quy định: “quan lại và con cháu không được lấy đàn
bà con gái hát xướng..”; hay tại Điều 107 BLGL: “các người lương gia và
người hà tiện (như các nô tỳ) không thể lấy nhau..”
*) Một số quyền khác giữa vợ và chồng
- Pháp luật phong kiến thể hiện sự phân biệt đối xử khá rõ nét trong các
quy định về quyền nhân thân thể hiện tình cảm giữa vợ và chồng. Người vợ
luôn phải chung thủy với người chồng “phục tùng chồng và chịu sự dạy dỗ
của người chồng” (Điều 481 BLHĐ), trong khi đó người chồng được pháp
luật cho phép lấy nhiều vợ. Người chồng không chung thủy thì không được
coi là có lỗi, nhưng người vợ không chung thủy là nguyên cớ để người chồng
ly hôn vợ. Vợ cả, vợ lẽ hay nàng hầu nếu không trung thành với người đàn
ông của họ đều bị pháp luật trừng phạt: Vợ cả hay vợ lẽ thông gian đều bị

15


phạt tội lưu, điền sản của họ phải chuyển sang cho người chồng (Điều 401
BLHĐ); hoặc phạt người vợ thông gian và gian phu 100 trượng cho người
chồng tùy ý gả bán vợ cho người khác (Điều 322 BLGL). Bên cạnh những
quy định thể hiện sự phân biệt đối xử giữa người vợ và người chồng, pháp
luật Phong kiến Việt Nam còn có những quy định ít nhiều bảo đảm quyền của
người phụ nữ, thể hiện những nét nhân văn sâu sắc của BLHĐ: “Chồng bỏ
lửng vợ 5 tháng thì mất vợ. Nếu vợ đã có con thì hạn cho một năm… Vì việc
quan đi làm xa thì không theo luật này…”.
- Theo quan điểm Nho giáo, người con gái phải theo con trai về nhà
chồng “thuyền theo lái, gái theo chồng”. Pháp luật phong kiến có những hình
phạt nghiêm khắc cho hành vi: “Người đàn bà tự ý bỏ nhà chồng đi thì phải bị
xử tội đồ làm nô tỳ phục dịch ở nhà bếp; Nếu bỏ chồng lấy chồng khác thì bị

xử tội đồ làm chung thất tỳ” (Điều 321 BLHĐ). Chỗ ở của người vợ là do
người chồng quyết định, đây chính là sự bất bình đẳng giữa nam và nữ về
quyền tự do trong lựa chọn chỗ ở trong quan hệ chung.
- Bên cạnh đó trong xã hội phong kiến quan niệm rằng: “Nhất nam viết
hữu, thập nữ viết vô” (tức là có một con trai cũng là con, có mười con gái
cũng coi là không có con). Người vợ được coi là công cụ sinh sản nên khi
người vợ trước không có con trai thì người chồng có quyền lấy vợ lẽ. Vị trí
của người vợ lẽ còn thấp hơn rất nhiều so với người vợ cả, người vợ lẽ thực
chất là nhân công rẻ mạt, là công cụ sinh con trai để nhà chồng có người nối
dõi tông đường. Dù công nhận chế độ đa thê nhưng không phải vì thế mà
người vợ lẽ được đề cao, trái lại đó là thân phận thấp kém. Cho dù là vợ cả
hay vợ lẽ thì người phụ nữ cũng chịu nhiều thiệt thòi với quan điểm này. Tuy
nhiên, trong xã hội phong kiến cũng đề cao vai trò của người phụ nữ trong
công việc gia đình: nội trợ, chăm sóc dạy dỗ con cái. Nghĩa vụ nội trợ và
chăm sóc dạy dỗ con cái chỉ thuộc về người vợ. Bởi trong thời kỳ này, người

16


chồng thực hiện quyền tài sản, nắm giữ quyền làm chủ toàn bộ tài sản trong
gia đình. Vì thế, pháp luật vẫn thể hiện sự phân biệt đối xử với người phụ nữ
trong mối quan hệ với các con. Thiên chức sinh con, chăm sóc con cái và làm
việc nhà là một lợi thế đối với người phụ nữ nhưng cũng chưa thật sự thoát
khỏi sự bất bình đẳng trong mối quan hệ gia đình nói chung và trong mối
quan hệ với người chồng nói riêng.
*) Quyền xin ly hôn của vợ, chồng.
Người đàn ông có thể bỏ vợ khi người vợ phạm vào “thất xuất”: Vô tử,
ghen tuông, ác tật, lắm lời, trộm cắp, không phụng sự cha mẹ chồng, dâm
đãng (Điều 108 BLHĐ). Quy định này có những điều nghiệt ngã và vô lý mà
người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia phải cay đắng chịu đựng. Ngay

cả chút tâm lý thông thường là sự ghen tuông khi bị chồng ruồng rẫy, người
vợ cũng không được phép, từ mối quan hệ ngoài giá thú mà người ta quen gọi
là “ngoại tình” pháp luật phong kiến cũng đề cập tới nhưng chỉ là những điều
khoản nhằm trừng phạt nặng nề đối với phụ nữ mà không có quy định về phía
người chồng. Theo Điều 332 BLGL, khi người phụ nữ phạm tội thông gian,
người chồng có quyền tùy ý bỏ vợ hoặc gả bán cho người khác. Vợ thông
gian mà chồng không bỏ thường bị xã hội coi khinh và lên án. Bên cạnh đó,
pháp luật phong kiến còn quy định những nguyên tắc hết sức khắt khe nhiều
khi trở nên tàn nhẫn, nhẫn tâm. Chẳng hạn người mẹ đã cải giá là mất quyền
làm mẹ với con chồng trước hoặc trong lúc có tang cha mẹ hay vợ cả mà con
hay nàng hầu có mang là bị khép vào tội bất hiếu. Nhưng pháp luật phong
kiến cũng ít nhiều bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ khi đề cập đến trường
hợp “tam bất khứ” – trường hợp người vợ phạm vào “thất xuất” hay trường
hợp “tam bất khứ” thì người chồng không được phép ly hôn người vợ: Khi
người vợ đã để tang nhà chồng được ba năm; khi vợ, chồng lấy nhau nghèo
về sau giầu có; Khi vợ, chồng lấy nhau, vợ còn bà con họ hàng, lúc bỏ nhau

17


×