Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Pháp luật về hoạt động thanh tra của ngân hàng nhà nước việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.7 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ OANH

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA CỦA
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ OANH

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA CỦA
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

Chuyên ngành:
Mã số:

Luật kinh tế
603850

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: Hoàng Thị Quỳnh Chi


Hà nội – 2012


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NHNN

: Ngân hàng Nhà nước.

NHNNVN

: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Luật NHNNVN

: Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

TTNHNN

: Thanh tra ngân hàng Nhà nước.

TCTD

: Tổ chức tín dụng.


QTDND

: Quỹ tín dụng Nhân dân.



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước)
là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng Trung ương của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối (sau đây
gọi là tiền tệ và ngân hàng); thực hiện chức năng của Ngân hàng trung ương
về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ
tiền tệ cho Chính phủ.
Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình
quản lý nhà nước về tiền tệ và ngân hàng, hướng tới mục tiêu ổn định giá
trị của đồng tiền, bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng, kiềm chế
lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội
Thanh tra ngân hàng là hoạt động thiết yếu của Ngân hàng Nhà nước ở
bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Thanh tra ngân hàng là công cụ hữu hiệu
của Nhà nước nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động quản lý của nhà nước
trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Hoạt động thanh tra Ngân
hàng góp phần bảo đảm tăng cường pháp chế, kỷ luật nhà nước trong lĩnh
vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng, bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng. Hoạt động thanh tra của ngân hàng Nhà nước là hoạt động
không thể thiếu để Ngân hàng Nhà nước hoàn thành chức năng, nhiệm vụ
của mình, đáp ứng đòi hỏi của vị trí Ngân hàng Trung ương của quốc gia.
Với những đòi hỏi đặt ra, yêu cầu phải có một hệ thống pháp luật hoàn

chỉnh, đồng bộ và khoa học về hoạt động thanh tra ngân hàng Nhà nước là
vô cùng cấp thiết. Các quy định của pháp luật về hoạt động thanh tra ngân
hàng Nhà nước Việt Nam phải khả thi và phù hợp với đặc trưng của pháp

1


luật Ngân hàng Nhà Nước nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam và
thông lệ quốc tế nói chung.
Các quy định pháp luật về hoạt động thanh tra của ngân hàng Nhà
nước Việt Nam qua các thời kỳ đã có những bước tiến rõ rệt, thể hiện qua
thực tế áp dụng các quy định đó qua từng thời kỳ phát triển của đất nước. Từ
Pháp lệnh Ngân hàng, pháp lệnh Thanh tra năm 1990 đến Luật Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam năm 1997; Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm
2003 (sửa đổi, bổ sung) và Luật Thanh tra năm 2004; Luật Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam năm 2010, Luật Thanh tra năm 2010.
Tuy nhiên, pháp luật về hoạt động Thanh tra của ngân hàng Nhà nước
Việt Nam các thời kỳ trước và pháp luật hiện hành vẫn còn nhiều bất cập. Hệ
thống các quy định về thanh tra của ngân hàng còn nhiều sơ hở, bất cập, khó
áp dụng thực tế, bên cạnh đó còn có những quy định chồng chéo, thiếu đồng
bộ đôi khi còn mâu thuẫn. Hơn nữa, hoạt động áp dụng pháp luật cũng còn
nhiều hạn chế, tình trạng chậm chạp trong quá trình hướng dẫn luật và các
văn bản dưới luật, cộng thêm sự thiếu nghiêm minh trong quá trình áp dụng
luật, xử lý vi phạm và khắc phục hậu quả… Tất cả những tồn tại đó đã và
đang làm hoạt động thanh tra Ngân hàng Nhà nước kém hiệu quả, chưa bảo
đảm tính nghiêm minh trong quá trình thực thi luật nói chung và làm ảnh
hưởng đến vai trò quan trọng của hoạt động thanh tra ngân hàng trong quá
trình thực thi chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, hoạt động ổn định đồng
tiền của ngân hàng Nhà nước nói riêng.
Với việc lựa chọn đề tài: “Pháp luật về hoạt động thanh tra của

ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. Tác giả mong muốn nêu lên những thực
trạng của pháp luật về hoạt thanh tra của ngân hàng Nhà nước và đưa ra các
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động này.

2


2. Tình hình nghiên cứu
Về hoạt động thanh tra ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có nhiều
công trình nghiên cứu trước đây, như:
- Nguyễn Thị Thanh Tâm: “Hoàn thiện pháp luật về hoạt động thanh
tra ngân hàng Nhà nước Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học
- Nguyễn Văn Bình “Nguyên tắc và định hướng đổi mới hoạt động
thanh tra đến 2010 và tầm nhìn 2020”, Tạp chí Ngân hàng năm 2006.
- Nguyễn Văn Bình: “Đổi mới hệ thống thanh tra Ngân hàng – một
trong những định hướng quan trọng của chiến lược phát triển ngành ngân
hàng”, Tài liệu tham khảo, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà Nội.
- Trương Ngọc Anh: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh
tra của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng liên doanh, chi nhánh
nước ngoại tại Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường đại học Kinh tế
quốc dân, Hà Nội.
- Nguyễn Đăng Hồng: “Địa vị pháp lý của Thanh tra Ngân hàng Nhà
Nước trong nền kinh tế thị trường Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Viện
khoa học xã hội, Hà Nội.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh Tâm đã nêu được khá rõ
những quy định pháp luật về hoạt động thanh tra ngân hàng Nhà nước
Việt Nam qua các thời kỳ và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt
động này. Nhưng những phân tích chỉ dừng lại ở những quy định pháp
luật đến năm 2008.
Còn những công trình nghiên cứu khác chỉ dừng lại ở việc phân tích

vai trò của hoạt động thanh tra ngân hàng Nhà nước Việt Nam dưới góc độ
kinh tế, góc độ pháp lý chưa được khai thác sâu.
Với việc ra đời và có hiệu lực của Luật Thanh tra năm 2010, Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010. Các quy định về hoạt động thanh
tra ngân hàng Nhà nước có nhiều thay đổi. Dự kiến đề tài sẽ là một công
trình khoa học nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về những vấn đề lý luận và

3


thực tiễn hoạt động thanh tra của ngân hàng Nhà nước Việt Nam trên cơ sở
tham chiếu với mô hình thanh tra của ngân hàng Trương ương của một số
nước trên thế giới. Cụ thể đề tài sẽ làm rõ một số vấn đề như: Khái niệm, đặc
điểm, mục đích hoạt động thanh tra của ngân hàng Nhà nước; Vai trò của
pháp luật về hoạt động thanh tra của ngân hàng Nhà nước; Nội dung của
pháp luật về hoạt động thanh tra của ngân hàng Nhà nước; Thực trạng pháp
luật về hoạt động thanh tra của NHNNVN; Phương hướng, giải pháp, kiến
nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động thanh tra của NHNNVN…
3. Mục đích của đề tài
Dựa trên những nghiên cứu, phân tích, đánh giá về hoạt động thanh tra
Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam hiện nay, đề tài nhằm mục đích làm sáng tỏ
pháp luật về hoạt động Thanh tra Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đồng thời,
đề tài sẽ phân tích, đánh giá những quy định pháp luật và thực tế áp dụng
những quy đinh pháp luật về hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, đặc biệt là những thay đổi trong thực tiễn áp dụng các quy định
pháp luật tại Luật NHNNVN năm 2010 và Luật Thanh tra năm 2010. Bên
cạnh đó, đề tài còn tham chiếu với một số mô hình thanh tra, giám sát của
ngân hàng Trung ương ở các nước trên thế giới.
Trên cơ sở đó, đề tài sẽ đề xuất một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài sẽ đi nghiên cứu pháp luật về hoạt động Thanh tra Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn thông qua các quy
định pháp luật quy định trong: Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm
1997; Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2003(sửa đổi, bổ sung);
Luật Thanh tra năm 2004; Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010,
Luật Thanh tra năm 2010; Luật Các tổ chức tín dụng năm 2008

4


5. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài việc áp dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu,
phân tích tổng hợp, đánh giá, so sánh, đối chiếu, kiểm sát thực tiễn để phân
tích và đưa ra những bất cập, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động
thanh tra Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết thúc, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về hoạt động
thanh tra của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động thanh tra của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật
về hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

5



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT
ĐỘNG THANH TRA CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA CỦA
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động thanh tra của ngân hàng
Nhà nước Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ
và ngân hàng); thực hiện chức năng của Ngân hàng Trung ương về phát
hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ
cho Chính phủ. Để thực hiện chức năng của mình, Ngân hàng Nhà nước
triên khai rất nhiều các hoạt động khác nhau. Trong đó có hoạt động
thanh tra NHNN. Hoạt động này chịu sự điều chỉnh trực tiếp của Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật Thanh tra, Luật Các tổ chức tín
dụng, và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Hoạt động thanh tra
của ngân hàng Nhà nước là một hoạt động nằm trong tổng thể các hoạt
động thanh tra chuyên ngành.
Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối
với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan,
tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh
tra chuyên ngành [ Khoản 1 Điều 3, 22].
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật,
quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực [Khoản 3 Điều 3, 22].

6



Theo Nghị định số 91/1999/NĐ-CP ngày 04 tháng 9 năm 1999
của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngân hàng quy
định: “Thanh tra ngân hàng là Thanh tra Nhà nước chuyên ngành về
ngân hàng, được tổ chức thành hệ thống thuộc bộ máy của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam”.
Với cương vị là hoạt động thanh tra Nhà nước chuyên ngành về
ngân hàng nên hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước trực tiếp chịu
sự điều chỉnh Luật Thanh tra, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ
chức tín dụng và các văn bản pháp luật khác. Thanh tra NHNN được tổ
chức thành hệ thống thuộc bộ máy của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
nghĩa là Thanh tra ngân hàng là một cơ quan trực thuộc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam. Chịu sự lãnh đạo trực tiếp và có trách nhiệm báo cáo với
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Mô hình tổ chức cơ quan
Thanh tra ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước như ở Viêt Nam
hiện nay mang nhiều đặc điểm khác biệt so với mô hình tổ chức cơ quan
Thanh tra ngân hàng ở các nước trên thế giới.
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành hoạt động thanh tra của Ngân hàng
Nhà nước chính là cơ quan thanh tra – đơn vị trực thuộc ngân hàng Nhà
nước Việt Nam. Điều 1 Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27 tháng 05
năm 2009 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam quy định: “Cơ quan Thanh tra, Giám sát ngân hàng là cơ quan trực
thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước)
thực hiện chức năng thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám
sát chuyên ngành về ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà
nước của Ngân hàng Nhà nước; tham mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính quy


7


mô nhỏ, hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; thực hiện phòng, chống
rửa tiền theo quy định của pháp luật”.
Các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà
nước bao gồm: lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối. Như
vậy, hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước chính là hoạt động của
cơ quan thanh tra – cơ quan trực thuộc Ngân hàng Nhà nước đối với cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật về tiền tệ, hoạt
động ngân hàng và ngoại hối [Khoản 11 Điều 6, 21].
Hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước là công cụ của Nhà
nước nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, hướng tới
mục tiêu ổn định sức mua của đồng tiền, đảm bảo an toàn trong hoạt động
ngân hàng. Hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước là một trong
những hoạt động không thể thiếu của NHNN, hoạt động này giữ vai trò
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về tiền tệ và
hoạt động ngân hàng; góp phần quan trọng trong việc phòng ngừa rủi ro,
phát hiện kịp thời và lên phương án xử lý vi phạm trong pháp luật về tiền
tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối.
Cùng với hoạt động giám sát ngân hàng, hoạt động thanh tra của Ngân
hàng Nhà nước hướng đến mục đích: “Bảo đảm sự phát triển an toàn, lành
mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của tổ chức tín dụng;
duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống các tổ chức tín
dụng; bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng;
góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền
tệ và ngân hàng” [Điều 50, 21].
Hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước là hoạt động thanh tra
Nhà nước chuyên ngành về ngân hàng, được tổ chức thành hệ thống thuộc bộ


8


máy của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Chính vì vậy, hoạt động này vừa có
những đặc điểm chung của Thanh tra chuyên ngành, vừa có những đặc điểm
riêng biệt.
Thứ nhất: Về chủ thể của hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam
Chủ thể của hoạt động Thanh tra NHNN bao gồm: Cơ quan thực hiện
chức năng thanh tra của Ngân hàng Nhà nước và đối tượng thanh tra.
Cơ quan thực hiện chức năng thanh tra của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam là cơ quan có thẩm quyền tiến hành hoạt động thanh tra của ngân hàng
Nhà nước (co quan thanh tra) – đơn vị trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam. Cơ quan này có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn sau: “Thanh tra hành
chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát chuyên ngành về ngân hàng trong
các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước; tham
mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quản lý nhà nước đối với các tổ
chức tín dụng, tổ chức tài chính quy mô nhỏ, hoạt động ngân hàng của các tổ
chức khác; thực hiện phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật”
[Trích Điều 1, 28].
Cơ quan Thanh tra NHNN cũng là một trong những cơ quan thuộc hệ
thống các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra Nhà nước. Cơ quan thực
hiện chức năng thanh tra nhà nước bao gồm: Thanh tra Chính phủ; Thanh tra
bộ, cơ quan ngang bộ (sau đây gọi chung là Thanh tra bộ); Thanh tra tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Thanh tra tỉnh);
Thanh tra sở; Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây
gọi chung là Thanh tra huyện) [Khoản 1 Điều 4, 22].
Như vậy, cơ quan Thanh tra ngân hàng là cơ quan trực thuộc NHNN
Việt Nam và nằm trong tổng thể hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng

thanh tra Nhà nước.

9


Đối tượng thanh tra của TTNHNNVN là tổng thể các cá nhân, cơ
quan, tổ chức được pháp luật quy định chịu sự điều chỉnh của hoạt động
Thanh tra ngân hàng.
Điều 52 Luật NHNN Việt Nam năm 2010 quy định Ngân hàng Nhà
nước thanh tra các đối tượng sau đây:
(i) Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại
diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động
ngân hàng. Trong trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra hoặc phối hợp thanh tra công ty con,
công ty liên kết của tổ chức tín dụng;
(ii) Tổ chức có hoạt động ngoại hối, hoạt động kinh doanh vàng; tổ
chức hoạt động thông tin tín dụng; tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian
thanh toán không phải là ngân hàng;
(iii) Cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam và cơ quan, tổ chức, cá
nhân nước ngoài tại Việt Nam trong việc thực hiện các quy định của pháp
luật về tiền tệ và ngân hàng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngân
hàng Nhà nước.
Đối tượng thanh tra là một trong những nội dung được sửa đổi, bổ
sung nằm trong tổng thể những điểm mới quan trọng có tính chất đổi mới cơ
bản về hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng của Luật Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam năm 2010 so với Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm
1997. Theo đó, tại Luật NHNN Việt Nam năm 2010 đối tượng thanh tra được
mở rộng hơn so với Luật NHNNVN năm 1997.
Có thể nhận thấy, đối tượng thanh tra là các cá nhân, cơ quan, tổ chức
tham gia trực tiếp và gián tiếp vào thị trường tiền tệ, hoạt động ngân hàng.

Các đối tượng này có sức ảnh hưởng và đóng vai trò quyết định đối với nền
tài chính quốc gia, chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng.

10


Các chủ thể khác: Ngoài hai chủ thể chính là cơ quan thanh tra và đối
tượng thanh tra. Tham gia vào mối quan hệ trong phạm vi điều chỉnh của pháp
luật về hoạt động Thanh tra ngân hàng còn có các chủ thể khác là các tổ chức
tham gia quản lý như: Bộ Tài chính, Bộ Công an, Tòa án, Viện kiểm sát, Các Vụ,
Cục có liên quan trong các cơ quan quản lý tiền tệ, tín dụng và ngân hàng.
Thứ hai: Về mục đích hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam
Mỗi một cơ quan, một tổ chức khi được thành lập đều có vị trí, chức
năng hoạt động nhất định và hướng đến những mục đích hoạt động hết sức
cụ thể. Có thể khẳng định, mục đích hoạt động chính là mục tiêu hướng đến
mang ý nghĩa chi phối, điều chỉnh cả quá trình tồn tại và hoạt động của mỗi
một cơ quan, tổ chức.
Cơ quan Thanh tra Ngân hàng là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của
Ngân hàng Nhà nước, thực hiện nhiệm vụ thanh tra ngân hàng. Hoạt động
thanh tra của ngân hàng Nhà nước Việt nam nhằm các mục đích sau (i) Góp
phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín
dụng và hệ thống tài chính; (ii) Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
gửi tiền và khách hàng của tổ chức tín dụng; (iii) Duy trì và nâng cao lòng
tin của công chúng đối với hệ thống các tổ chức tín dụng; (iv) Bảo đảm việc
chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; (v) Góp phần nâng
cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân
hàng [Điều 50,21].
Như vậy, mục đích hoạt động thanh tra của ngân hàng Nhà nước có sự
khác biệt rất lớn so với mục đích của hoạt động Thanh tra Nhà nước. Thanh

tra Nhà nước hoạt động nhằm mục đích phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý,
chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện
pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật;

11


giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát
huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản
lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân .
Thứ ba: Về nguyên tắc thanh tra
Thanh tra ngân hàng là hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước
đối với các đối tượng thanh tra ngân hàng trong việc chấp hành pháp luật về
tiền tệ và ngân hàng. Để thực hiện được chức năng, nhiêm vụ, quyền hạn,
trong quá trình tổ chức và hoạt động pháp luật quy định hoạt động thanh tra
của Ngân hàng Nhà nước phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
(i) Thanh tra NHNN phải tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác,
khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; không làm cản trở hoạt
động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra, giám
sát ngân hàng.
(ii) Kết hợp thanh tra, giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật
về tiền tệ và ngân hàng với thanh tra, giám sát rủi ro trong hoạt động của đối
tượng thanh tra, giám sát ngân hàng.
(iii) Thanh tra ngân hàng được thực hiện theo nguyên tắc thanh tra
toàn bộ hoạt động của tổ chức tín dụng.
(iv) Thanh tra, giám sát ngân hàng được thực hiện theo quy định
của Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 và các quy định khác của pháp
luật có liên quan; trường hợp có sự khác nhau giữa quy định về thanh tra
ngân hàng của Luật NHNNVN với quy định của luật khác thì thực hiện

theo quy định của Luật NHNNVN.
(v) Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trình tự, thủ tục thanh
tra, giám sát ngân hàng.
Trong những nguyên tắc được quy định tại Điều 51 Luật Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam năm 2010, có nguyên tắc (ii) và nguyên tắc (iii) tạo nên

12


sự khác biệt giữa hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước và hoạt động
thanh tra nhà nước nói chung và thanh tra chuyên ngành khác nói riêng. Đối
với nguyên tắc (ii), đồng thời cũng là phương pháp thanh tra sẽ được phân
tích rõ ở phần sau. Riêng đối với nguyên tắc (iii) - nguyên tắc thanh tra, giám
sát toàn bộ hoạt động của tổ chức tín dụng. Nguyên tắc này lần đầu được
pháp luật ghi nhận trong Luật NHNNVN năm 2010 và là nguyên tắc “đặc
trưng” của hoạt động Thanh tra Ngân hàng Nhà nước. Nghĩa là, trong hoạt
động Thanh tra Nhà nước và các hoạt động thanh tra chuyên ngành khác
không có nguyên tắc này.
Thứ tư: Phương pháp thanh tra
Phương pháp thanh tra của hoạt động Thanh tra NHNN có sự khác
biệt rõ rệt so với hoạt động Thanh tra Nhà nước và các hoạt động Thanh tra
chuyên ngành khác. Các hoạt động thanh tra chuyên ngành khác chỉ thực
hiện thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định chuyên môn
– kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực được giao. Trong khi đó,
hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước phải kết hợp thanh tra việc
chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng với thanh tra rủi ro
trong hoạt động của đối tượng Thanh tra ngân hàng. Sở dĩ có sự khác biệt
này bởi hoạt động tiền tệ và ngân hàng là hoạt động tiềm ẩn rất nhiều rủi ro
và có sức ảnh hưởng lớn đến nền tài chính quốc gia. Đảm bảo an toàn trong
hoạt động của các đối tượng thanh tra chính là đảm bảo an toàn cho cả một

hệ thống tín dụng. Vì vậy, ngoài nhiệm vụ thanh tra việc chấp hàng chính
sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, thì thanh tra rủi ro trong hoạt động
của các đối tượng là vô cùng quan trọng và có ý nghĩa.
Phương pháp thanh tra dựa trên cơ sở rủi ro chủ yếu tập trung vào việc
xem xét, đánh giá các rủi ro của tổ chức tín dụng; chất lượng và hiệu quả hệ

13


thống quản trị rủi ro của tổ chức tín dụng và khả năng chống đỡ rủi ro của các tổ
chức tín dụng [13].
Tổng thể các quy định pháp luật về chủ thể hoạt động thanh tra ngân
hàng; mục đích; nguyên tắc; phương pháp hoạt động thanh tra của Ngân
hàng Nhà nước chính là những đặc điểm khác biệt của hoạt động thanh tra
của NHNN so với hoạt động Thanh tra Nhà nước và các hoạt động Thanh tra
chuyên ngành khác.
1.1.2. Vai trò của hoạt động Thanh tra Ngân hàng Nhà nước
Có thể khẳng định Thanh tra ngân hàng là hoạt động không thể thiếu
của Ngân hàng Nhà nước, hoạt động này thực hiện chức năng thanh tra đối
với các đối tượng thanh tra ngân hàng trong việc chấp hành pháp luật về tiền
tệ và ngân hàng. Hoạt động thanh tra của ngân hàng Nhà nước là công cụ
hữu hiệu của Nhà nước nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động quản lý của
Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng, hướng tới mục tiêu ổn định
sức mua của đồng tiền, đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. Thanh
tra ngân hàng nhằm góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của
hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của tổ chức tín dụng; duy trì và
nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo
đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; góp phần
nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và

ngân hàng.
Đặc biệt trong bối cảnh kinh tế hiện nay, trước sự gia tăng nhanh
chóng của các tổ chức tín dụng (TCTD), hoạt động dịch vụ ngân hàng
ngày càng phong phú và đa dạng thì vai trò của hoạt động thanh tra của
ngân hàng nhà nước ngày càng được khẳng định. Muốn đạt được được
mục tiêu bảo đảm cho sự an toàn của trong hoạt động ngân hàng, sự phát

14


triển lành mạnh của hệ thống tín dụng và hệ thống tài chính, qua đó góp
phần tích cực vào bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ
chức và nhà nước thì yêu cầu cấp thiết đặt ra đó là nhận thức đúng và
toàn diện bên cạnh việc phát huy vai trò của hoạt động thanh tra ngân
hàng nhà nước. Mặt khác, việc chỉ ra những bất cập, thiếu sót trong hoạt
động này góp phần không nhỏ trong tiến trình hoàn thiện hoạt động thanh
tra theo hướng hiện đại và phù hợp.
1.1.3. Nội dung của hoạt động Thanh tra Ngân hàng Nhà nước
So với các quy định về Thanh tra ngân hàng trong Luật Ngân hàng
Nhà nước năm 1997, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 có
nhiều điểm mới quan trọng có tính chất đổi mới cơ bản về hoạt động thanh
tra, giám sát ngân hàng. Một trong những nội dung quan trọng được sửa đổi,
bổ sung về hoạt động thanh tra ngân hàng trong Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam năm 2010 chính là việc đưa ra các quy định cụ thể về nội dung
hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước. Do đó, bên cạnh các quy định
tại Điều 4 Nghị định số 91/1999//ND-CP, nội dung của hoạt động thanh tra
ngân hàng được quy định cụ thể tại Điều 55 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam năm 2010.
Điều 55 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định nội
dung hoạt động Thanh tra ngân hàng bao gồm:

a) Thanh tra việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, việc
thực hiện các quy định trong giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp: Đây là
hoạt động mang tính thanh tra hành chính, thanh tra tuân thủ - một nội dung
quan trọng trong hoạt động Thanh tra Ngân hàng Nhà nước. Việc thực hiện
pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, thực hiện các quy định trong giấy phép do
Ngân hàng Nhà nước cấp của các đối tượng thanh tra là bắt buộc tuân thủ.
Nhưng trên thực tế không phải đối tượng nào cũng chấp hành nghiêm chỉnh

15


các quy định đó. Nhiệm vụ quan trọng của cơ quan Thanh tra NHNN là phải
phát hiện kịp thời và có hướng giải quyết theo thẩm quyền các trường hợp vi
phạm, góp phần bảo đảm cho sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống
các tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người gửi tiền và khách hàng của tổ chức tín dụng; duy trì và nâng cao
lòng tin của công chúng đối với hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm việc
chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; góp phần nâng cao
hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.
b) Xem xét, đánh giá mức độ rủi ro, năng lực quản trị rủi ro và tình
hình tài chính của đối tượng thanh tra ngân hàng: Nhận thấy, mục tiêu chính
của hoạt động thanh tra ngân hàng là đánh giá, đo lường và giảm thiểu rủi ro
của các TCTD. Từ đó đặt ra yêu cầu thanh tra ngân hàng phải đánh giá được
đầy đủ và hiệu quả của hệ thống quản lý, đo lường các rủi ro như rủi ro tín
dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường....của TCTD được thanh tra. Khi
thực hiện thanh tra trên cơ sở rủi ro, Thanh tra NHNN có khả năng đánh giá
tốt hơn năng lực quản lý của TCTD, tính chất phức tạp của hoạt động kinh
doanh và những rủi ro mà TCTD gặp phải; tập trung tối đa nguồn lực để giải
quyết các lĩnh vực có rủi ro cao nhất, làm lành mạnh hoá hoạt động của
TCTD, góp phần ổn định hệ thống các TCTD.

c) Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ
hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng yêu cầu quản lý nhà
nước về tiền tệ và ngân hàng: Thanh tra ngân hàng thực hiện chức năng thanh
tra việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, việc thực hiện các quy
định trong giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp của các TCTD. Vì vậy, bên
cạnh TCTD, Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan có liên quan khác, Thanh tra
ngân hàng là chủ thể có kiến thức sâu và rộng nhất đối với các quy phạm pháp
luật áp dụng trong hoạt động tiền tệ và ngân hàng. Hơn nữa, là cơ quan trực

16


tiếp tiếp xúc, thanh tra việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và ngân hàng của
các các đối tượng thanh tra, cơ quan này có cái nhìn thực tiễn nhất quá trình áp
dụng, thực hiện các quy phạm pháp luật về lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng. Bên
cạnh đó, với kinh nghiệm rút ra trong quá trình hoạt động, cơ quan thanh tra
ngân hàng sẽ đưa ra những kiến nghị pháp luật mang ý nghĩa phỏng đoán và
dự phòng đối với các vi phạm có thể phát sinh trong tương lai.
d) Kiến nghị, yêu cầu đối tượng thanh tra ngân hàng có biện pháp
hạn chế, giảm thiểu và xử lý rủi ro để bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng
và phòng ngừa, ngăn chặn hành động dẫn đến vi phạm pháp luật: Nhằm hạn
chế và giảm thiểu thiệt hại, phòng ngừa, ngăn chặn những rủi ro đe dọa sự an
toàn của hoạt động tiền tệ, ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói
chung. Thanh tra ngân hàng được trao quyền áp dụng những biện pháp “khẩn
cấp, kịp thời” trong quá trình hoạt động. Những biện pháp này là cần thiết và
phù hợp trong điều kiện thực tế quá trình hoạt động thanh tra thường kéo dài,
nếu không có các biện pháp kịp thời sẽ xảy ra những thiệt hại đáng tiếc, và
không đảm bảo được sự an toàn trong hoạt động tiền tệ, ngân hàng.
đ) Phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng:

Thanh tra NHNN là hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước với các
đối tượng thanh tra trong việc chấp hành pháp luật về tiền tề và ngân hàng.
Trong quá trình tiến hành hoạt động thanh tra việc phát hiện, ngăn chặn và
xử lý theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi
phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng là một nôi dung quan trọng của hoạt
động này. Nội dung này khẳng định Thanh tra Ngân hàng Nhà nước là một
quy trình quản lý khép kín, có hoạt động thanh tra và hoạt động xử lý vi
phạm sau thanh tra.

17


Với những nội dung hoạt động như trên, hoạt động thanh tra của
Ngân hàng Nhà nước đã và đang được triển khai theo hướng thực hiện đầy
đủ một chu trình gồm 4 khâu: Cấp phép; Ban hành Quy chế; Thực hiện
giám sát (giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ); Xử phạt và thu hồi giấy phép.
1.2.

TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA CỦA

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật về hoạt động thanh tra của
ngân hàng Nhà nước
Hoạt động thanh tra của ngân hàng Nhà nước là công cụ hữu hiệu của
Nhà nước nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động quản lý của Nhà nước,
hướng tới mục tiêu ổn định sức mua của đồng tiền, đảm bảo an toàn trong
hoạt động tiền tệ, ngân hàng. Thanh tra Ngân hàng nhằm góp phần bảo đảm
sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ
thống tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và

khách hàng của tổ chức tín dụng; duy trì và nâng cao lòng tin của công
chúng đối với hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm việc chấp hành chính
sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu
lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.
Nhằm phát huy vai trò đặc biệt quan trong của hoạt động Thanh tra
ngân hàng, yêu cầu bắt buộc đặt ra là phải có pháp luật điều chỉnh hoạt động
này. Có nghĩa là, hoạt động này phải được điều chỉnh bởi một hệ thống các
quy phạm pháp luật đầy đủ, thống nhất và phù hợp.
Như vậy, pháp luật về hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam là tổng thể nhữnguy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành quy
định về hoạt động thanh tra ngân hàng do Nhà nước ban hành, theo đó xác
định mối qua hệ giữa Thanh tra Ngân hàng với các đối tượng thanh tra; mối
quan hệ giữa cơ quan thanh tra và các cơ quan quản lý có liên quan khác.

18


Hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước vừa là hoạt động
thanh tra chuyên ngành, vừa là hoạt động của một chủ thể đặc biệt, đó là
Ngân hàng Nhà nước – Ngân hàng Trung ương của Việt Nam. Chính đặc
điểm này sẽ tạo lên một số nét đặc trưng của pháp luật về hoạt động thanh
tra của Ngân hàng Nhà nước.
Pháp luật về hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước có ảnh
hưởng quan trọng đến hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước. Bởi vì, đối
tượng của hoạt động này là những tổ chức, cá nhân tham gia trực tiếp hoặc
gián tiếp vào mối quan hệ tài chính, ngân hàng. Một trong những hoạt động
có sức ảnh hưởng và chi phối đến toàn bộ nền kinh tế - xã hội, thậm chí còn
có ảnh hưởng đến cả kiến trúc thượng tầng.
Pháp luật về hoạt động thanh tra của NHNN không những điều chỉnh
một số vấn đề cơ bản như: vị trí; chức năng, thẩm quyền của Thanh tra ngân

hàng, mà còn làm rõ mối liên hệ giữa cơ quan thanh tra NHNN và đối tượng
thanh tra, giữa cơ quan thanh tra NHNN và các cơ quan quản lý nhà nước có
liên quan khác như Bộ Tài chính, Bộ Công an, Tòa án, Viện kiểm sát, các
Vụ, Cục có liên quan có liên quan trong cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng
và ngân hàng. Bởi vì, cơ quan thanh tra của Ngân hàng, vừa là một cơ quan
thanh tra chuyên ngành, vừa là cơ quan trực thuộc Ngân hàng Nhà nước.
Hơn nữa, cơ quan thanh tra NHNN tuy không tham gia vào hoạt động ngân
hàng nhưng lại mối quan hệ sâu sắc với các tổ chức tình trạng kinh doanh
trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.
Các quy định pháp luật về hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà
nước được thực hiện trong quá trình thanh tra có tính bắt buộc đối với tất cả
các bên.
Hoạt động Thanh tra NHNN được thực hiện theo quy định của
Luật Ngân hàng và các quy định khác của pháp luật có liên quan; trường

19


hợp có sự khác nhau giữa quy định về thanh tra ngân hàng giữa các Luật
và văn bản pháp luật khác có liên quan thì ưu tiên áp dụng các quy định
của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
1.2.2. Vai trò của pháp luật về hoạt động thanh tra của ngân hàng
Nhà nước Việt Nam
Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ và ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được pháp luật trao cho rất nhiều nhiệm vụ
và quyền hạn khác nhau. Khi thực thi nhiệm vụ và quyền hạn của mình, bên
cạnh các hoạt động ngân hàng, Ngân hàng nhà nước có những hoạt động
khác bổ trợ khác, trong đó có hoạt động thanh tra ngân hàng. Hoạt động
thanh tra là một trong những hoạt động không thể thiếu của Ngân hàng Nhà
nước. Pháp luật về hoạt động thanh tra ngân hàng là một bộ phận thiết yếu

trong hệ thống pháp luật về ngân hàng nói riêng, pháp luật về tài chính nói
chung. Ngoài ra, pháp luật về hoạt động thanh tra ngân hàng còn có mối
quan hệ đặc biệt với hệ thống pháp luật về thanh tra nhà nước và các quy
pháp luật chuyên ngành khác.
Pháp luật về hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước là một
trong những công cụ đắc lực trong quản lý nhà nước về tiền tệ và ngân hàng.
Nhà nước bên cạnh việc sử dụng công cụ là những chính sách vĩ mô về nền
kinh tế, chính sách tiền tệ, chỉ tiêu tín dụng, ngoại hối…nhằm kiểm soát hữu
hiệu tiền tệ trong nước thì không thể thiếu các quy định pháp luật về hoạt
động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước.
Thanh tra ngân hàng là hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước
đối với các đối tượng thanh tra ngân hàng trong việc chấp hành pháp luật về
tiền tệ và gân hàng. Pháp luật về hoạt động thanh tra của ngân hàng Nhà
nước tác động trực tiếp và gián tiếp đến các chủ thể tham gia vào hoạt động
Thanh tra ngân hàng như: Thanh tra ngân hàng; các tổ chức được thanh tra

20


(Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của
tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân
hàng; Tổ chức có hoạt động ngoại hối, hoạt động kinh doanh vàng; tổ chức
hoạt động thông tin tín dụng; Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh
toán không phải là ngân hàng; Cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam và cơ
quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam trong việc thực hiện các quy
định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng thuộc phạm vi quản lý nhà nước
của Ngân hàng Nhà nước) và các chủ thể khác như Bộ Tài chính; Bộ Công
an; Viện Kiểm sát; Tòa án....).
Bên cạnh đó, pháp luật về hoạt động thanh tra của ngân hàng còn có
vai trò điều chỉnh mối quan hệ giữa các thành viên trong hệ thống thanh tra

bằng cách quy định rõ cấp bậc, nhiệm vụ, quyền hạn, hoạt động của từng cá
nhân, tổ chức trong hệ thống thanh tra ngân hàng. Qua đó, pháp luật về hoạt
động thanh tra ngân hàng vừa điều chỉnh các mối quan hệ vừa đóng vai trò
cầu nối, sợi dây liên kết giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động tiền tệ và
ngân hàng.
Một trong những vai trò quan trọng của pháp luật về hoạt động thanh
tra của Ngân hàng Nhà nước chính là tạo cơ sở nền tảng cho lòng tin của dân
chúng vào hệ thống tiền tệ, ngân hàng của một quốc gia. Nhờ có pháp luật về
hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước mà mọi chủ thể tham gia hiểu
được phạm vi quyền và nghĩa vụ của mình trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng.
Pháp luật về hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đủ mạnh thì sẽ đủ
sức răn đe tới mọi chủ thể liên quan trong hoạt động này, đồng thời tạo dựng
được lòng tin của dân chúng vào hệ thống pháp luật của nhà nước nói chung
và pháp luật về hoạt động thanh tra của ngân hàng nói riêng.
1.2.3 Các nội dung của pháp luật về hoạt động
thanh tra của Ngân hàng Nhà nước

21


×