Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Quyền xác định lại giới tính theo quy định của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.47 KB, 82 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRỊNH THỊ THU

QUYỀN XÁC ĐỊNH LẠI GIỚI TÍNH
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH ĐÀO TRÍ ÚC


HÀ NỘI - 2012

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã
thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn
Người cam đoan



Trịnh Thị Thu


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục

MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1.

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu (lý do chọn đề tài)......................1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài trong nước và ở ngoài nước...................3

3.

Mục tiêu nghiên cứu..............................................................................4

4.

Tính mới và đóng góp của đề tài...........................................................4

5.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................5


6.

Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.......................5

7.

Kết cấu của luận văn...............................................................................6

Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN XÁC ĐỊNH
LẠI GIỚI TÍNH.....................................................................................7
1.1.

Những vấn đề lý luận chung về quyền xác định lại giới tính..............7

1.1.1. Khái niệm về việc xác định lại giới tính................................................7
1.1.2. Căn cứ để xác định lại giới tính............................................................8
1.1.3. Tiêu chuẩn y tế xác định lại giới tính..................................................10
1.1.4. Các nguyên tắc xác định lai giới tính theo quy định của pháp
luật Việt Nam........................................................................................14
1.1.5. Hệ quả pháp lý của việc xác định lại giới tính...................................15
1.2.

Nội dung và thủ tục xác định lại giới tính..........................................24

1.2.1. Nội dung xác định lại giới tính............................................................24
1.2.2. Trình tự thủ tục xác định lại giới tính................................................25
1.3.

Cơ sở pháp lý hiện hành về quyền xác định lại giới tính...................26


1.3.1. Nghị định 88/2008/NĐ-CP..................................................................26
1.3.2. Thông tư số 29/2010/TT/BYT..............................................................28


1.4.

Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vấn đề về
quyền xác định lại giới tính.................................................................32

1.5.

Quyền xác định lại giới tính ở một số nước trên thế giới...................33

1.5.1. Vấn đề xác định lại giới tính ở Anh quốc...........................................33
1.5.2. Vấn đề xác định lại giới tính ở mỹ......................................................34
1.5.3. Vấn đề xác định lại giới tính ở Singapore..........................................34
1.5.4. Vấn đề xác định lại giới tính ở Thái Lan............................................34
Kết luận chương 1..........................................................................................36
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN XÁC ĐỊNH LẠI
GIỚI TÍNH Ở VIỆT NAM..................................................................37
2.1.

Những vấn đề đặt ra trong thực tiễn thực hiện quyền xác định lại
giới tính.................................................................................................37

2.1.1. Xác định lại giới tính cần được pháp luật coi trong và bảo vệ..........37
2.1.2. Khuyết tật bẩm sinh về giới tính hay giới tính chưa được định
hình rõ cần phát hiện càng sớm càng tốt............................................40
2.1.3. Một số hệ quả đặt ra đối với vụ việc liên quan đến vấn đề về giới
tính do bị khuyết tật bẩm sinh về giới tính hay giới tính chưa

định hình rõ gây chấn đọng trong xã hội...........................................46
2.2.

Vấn đề nhận thức của xã hội về xác định lại giới tính......................60

2.2.1. Về nhận thức trong các vấn đề về quyền xác định lại giới tính.........60
2.2.2. Đánh giá vấn đề trong quá trình nhận thức về xác định lại giới tính........61
Kết luận chương 2..........................................................................................63
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN XÁC ĐỊNH LẠI GIỚI TÍNH Ở VIỆT
NAM......................................................................................................64
3.1.

Phương hướng về quyền xác định lại giới tính theo quy định của
pháp luật...............................................................................................64


3.1.1. Quan điểm của pháp luật Việt Nam về quyền xác định lại giới tính........64
3.1.2. Quan điểm của ngành tư pháp về quyền xác định lại giới tính.........65
3.2.

Những giải pháp hoàn thiện về quyền xác định lại giới tính............67

Kết luận chương 3..........................................................................................70
KẾT LUẬN CHUNG......................................................................................71
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................73


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu (lý do chọn đề tài)

Nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI thế kỷ của nền văn minh tri thức,
khoa học, công nghệ, y học, kỷ thuật. Nhu cầu của con người không chỉ dừng
lại ở cuộc sống xa hoa, dầu sang, phú quý mà điều quan trong hơn là họ luôn
khao khát được sống đúng với giới tính thật của mình, đúng với bản chất mà
tạo hóa đã ban tặng.
Đứng trước bối cảnh đó đặc biệt hơn là trong giai đoạn hiện nay Việt
Nam đang trong thời kỳ có những chuyển biến quan trọng trong xu thế hội
nhập nền kinh tế thế giới và khu vực. Một trong những nhiệm vụ quan trọng
mà Đảng ta đề ra là hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể và khả
năng ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống trong việc ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống kiểm tra, giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước góp phần vào sự phát triển bền vững của đất
nước trong thời kì đổi mới. Hoàn thiện hệ thống pháp luật vừa có tính khẩn
trương để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước nhưng vẫn đảm bảo tính
thống nhất, tính khả thi của hệ thống pháp luật.
Việc được sống thực với giới tính của mình không chỉ là nguyện vọng
của mỗi người, mà còn được pháp luật bảo vệ như các quyền cơ bản khác của
con người. Giá trị nhân bản này đã được Bộ Luật Dân sự năm 2005 ghi nhận.
Và, mới đây là Nghị định 88/2008/NĐ-CP vừa được Chính phủ ban hành
ngày 5/8/200 đã cụ thể hoá sự ghi nhận này.
Tuy nhiên để đạt được mục đích của mình có người phải trả một cái giá
rất đắt; bởi lẽ không phải ai sinh ra cũng đều gặp may mắn và hạnh phúc có
1


những người vừa mới loạt lòng mẹ đã gặp nhiều bất hạnh, chua xót vì một
vấn đề tưởng chừng giản đơn.
Nhưng lại hết sức thương tâm đó là những người không may bị khuyết
tật bẩm sinh về giới tính hoặc giới tinh chưa được định hình chính xác họ luôn
phải cam chịu cuộc sống như một cái bóng, lầm lũi như một cái xác không

hồn, bị xã hội lên án, ruồng rẫy, xa lánh, cười chê…
Trên thế giới và Việt Nam, ước tính cứ 2000 trẻ em sinh ra, thì ít nhất
có 1 trẻ có bộ phận sinh dục không phù hợp với bộ nhiễm sắc thể, dẫn đến
khuyết tật bẩm sinh về giới tính. Và đa phần những người không may bị
khuyết tật bẩm sinh về giới tính đều có nhu cầu xác định lại giới tính, để có
thể được sống thực giới tính của mình. Ở Việt Nam, trước kia, khi khoa học
kỹ thuật chưa phát triển, các kênh thông tin còn hạn chế, thì những người này
đành chịu số phận bất hạnh, “trời đày” của mình. Nhưng, trong những năm
gần đây, nhu cầu xã hội về xác định lại giới tính đã ngày một tăng. Các bệnh
viện lớn tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện rất nhiều ca điều trị
cho bệnh nhân có rối loạn, bất thường về giới tính.
Xuất phát từ thực tế xã hội này, cũng như ghi nhận một quyền con
người cơ bản như những quyền khác, Bộ luật Dân sự sửa đổi, bổ sung năm
2005 đã cụ thể hoá quyền xác định lại giới tính thành một điều luật (Điều 36).
Có thể nói, việc quyền xác định lại giới tính được luật hoá trong Bộ luật Dân
sự đã có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó thể hiện sự điều chỉnh kịp thời
của cơ quan lập pháp đối với những quan hệ pháp luật mới phát sinh trong đời
sống xã hội. Qua đó giúp cho những người chưa định hình được giới tính một
cách chính xác có được sự bảo vệ của pháp luật.
Vậy muốn xác định lại giới tính cho người bị khuyết tật bẩm sinh về
giới tính hoặc giới tính chưa định hình chính xác chúng ta phải làm gì?
Và vì sao chúng ta lại phải xác định lại giới tính cho những người bi
2


khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa xác định rõ giới tính ?
Xã hội đã và đang làm gì để giúp đỡ những con người kém may mắn này?
Đây là một vấn đề mới đang được sự quan tâm rất lớn từ xã hội đặc biệt
là giới trẻ, và cũng là nguyên nhân để tôi đưa ra quyết định của mình lựa chon
đề tài: “quyền xác định lại giới tính theo quy định của pháp luật Việt Nam”

làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học về quyền xác định lại giới tính
Chương 2: Thực trạng thực hiện quyền xác định lại giới tính ở Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
quyền xác định lại giới tính ở Việt Nam.
Đề tài được xây dựng trên nhiều phương pháp như: chứng minh, biên
luân, so sáng, liệt kê và đối chiếu…
Đề tài giới hạn trong phạm vi môn học và trong phạm vi chuyên ngành
nghiên cứu nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm, kính mong
được sư đóng góp ý kiến từ quý thầy cô cùng toàn thể bạn đọc để đề tài ngày
một hoàn thiên hơn.
Trân trọng cảm ơn !
2. Tình hình nghiên cứu đề tài trong nước và ở ngoài nước
Vấn đề xác định lại giới tính cho người bị khuyết tật bẩm sinh về giới
tính hay giới tính chưa được định hình chính xác được nghiên cứu và tìm hiểu
ở việt nam từ những năm 1980 nhưng đây là một đề tài mới và khó tiếp cận
nên ít được mọi người trong xã hội chú ý quan tâm. Trong bối cảnh hiện nay
vấn đề xác định lại giới tính đã được pháp luật và mọi người trong xã hội
công nhận đặc biệt Bộ luật dân sự quy định rõ vấn đề này tại Điều 36 và mới
đây là nghị định 88/2008 NĐ/CP và thông tư 29 Bộ y tế hướng dẫn thực hiện
nghị định 88/2008 NĐ/CP Ban hành ngày 5/8/2008.
3


Ở nước ngoài vấn đề xác định lại giới tính đã được tìm hiểu và nghiên
cứu từ rất sớm vì thế họ có cái nhìn đồng cảm hơn đối với những người kém
may mắn về giới tính đặc biệt một số nước còn cho phép người dân tự quyết
định về giới tính của mình và chịu trách nhiệm về giới tính mà mình đã lựa
chọn thậm chí nhà nước còn ban hành một đạo luật riêng với tên gọi “Đạo

luật thừa nhận giới tính”.
Điều này ảnh hưởng rất lớn đến quan điểm và suy nghỉ của người dân
Việt Nam đặc biệt là trong xu thế hội nhập quốc tế và khu vực với xu thế quốc
tế hóa toàn cầu.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu về quyền xác định lại giới tính theo quy định của
pháp luật Viên Nam là nhằm giải quyết vấn đề về việc chưa xác định rõ về
giới tính đối với những trường hợp bị khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc
giới tính chưa được định hình chính xác nhằm mục tiêu giúp đỡ những con
người kém may mắn về giới tính trở về đúng với giới tính thực của mình để
được sống một cuộc sống đích thực đầy ý nghĩa.
Đây là một thực tiễn xã hội khá phổ biến trong xã hội ta hiện nay và
cũng là vấn đề cần sự quan tam rất lớn, can thiệp rất lớn từ y học.
4. Tính mới và đóng góp của đề tài
Việc xác định lại giới tính đối với người bị khuyết tật bẩm sinh, người
chưa định hình rõ giới tính theo quy định của pháp luật Việt Nam là một trong
những đề tài rất mới ít người nghiên cứu về nó và trong thời đại hôm nay vấn
đề này đang là sự quan tâm, chú ý của mọi người sống trong cộng đồng người
Việt cũng như mọi người dân trên toàn thế giới.
Nghiên cứu, tìm hiểu sâu về quyền xác định lại giới tính mỗi người
trong chúng ta sẽ nghiệm thấy được những vấn đề hết sức lý thú và bổ ích mà
nó đem lại bởi một sự đóng góp rất lớn cho nhân loại nói chung và con người

4


Việt Nam nói riêng, nó giúp cho mọi người nhìn thấy được tầm quan trọng
của giới tính đối với sự hoàn thành nhân cách sống của một con người đồng
thời nó là chìa khóa giúp những người kém may mắn về giới tính chủ động đi
tìm lại giới tính thật của mình nhờ đến sự can thiệp từ y học mà không chút

ngần ngại về sự dị nghị của mọi người trong xã hội.
Việc được sống đúng với giới tính thật của mình là niềm khao khát của
tất cả mọi đối tượng không trừ một ai, nó được xem là quyền nhân thân của
mỗi cá nhân trong xã hội mà không ai có quyền can thiệp tới, nó được xem
như một thứ sở hữu cá nhân bất khả xâm phạm.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài quyền xác định lại giới tính theo quy
định của pháp luật Việt Nam là những cá nhân bị khuyết tật bẩm sinh về giới
tính hoặc giới tính chưa được định hình chính xác có nhu cầu xác định lại giới
tính thật của mình nhờ đến sự can thiệp của y học và nhờ đến sự giúp đỡ,
quan tâm từ mọi người sống trong xã hội.
5.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên một phạm vi rất rộng lớn (trên diện rộng)
phổ biến trong toàn xã hội, được pháp luật Việt Nam điều chỉnh và quy định
một cách cụ thể tại điều 36 bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 và mới đây là
Nghị định 88/2008/NĐ-CP vừa được Chính phủ ban hành ngày 5/8/2008 đã
cụ thể hoá sự ghi nhận này.
6. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận triết học duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và Pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đường lối của

5


Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay. Quan điểm đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp trong thời kỳ mới.

- Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn có một số phương pháp nghiên cứu
khoa học chủ yếu đã được sử dụng như: phương pháp phân tích, diễn giải làm
sáng tỏ các khái niệm, các quy định của pháp luật hiện hành về quyền xác
định lại giới tính ở Việt Nam, phương pháp lịch sử để nhìn nhận, đánh giá các
quy định pháp luật qua các thời kỳ phát triển; phương pháp so sánh để có sự
đối chiếu tham khảo kinh nghiệm pháp luật nước ngoài và làm rõ sự tiến bộ
của pháp luật Việt Nam về quyền xác định lại giới tính. Ngoài ra, việc thực
hiện luận văn liên quan đến thực tiễn thực hiện quyền xác định lại giới tính
nên phương pháp thống kê, phương pháp chứng minh thông qua khảo sát tại
các tỉnh thành phố trên khắp cả nước để có các số liệu cụ thể và các vụ án
điển hình liên quan đến việc chuyển đổi giới tính không đúng quy định của
luật để minh chứng cho những nhận xét đánh giá của pháp luật hiện hành về
quyền xác định lại giới tính.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm mở đầu, nội dung (gồm 3 chương), kết luận
của từng chương và kết luận chung, danh mục và tài liệu tham khảo.
Nội dung Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học về quyền xác định lại giới tính
6


Chương 2: Thực trạng thực hiện quyền xác định lại giới tính ở Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
quyền xác định lại giới tính ở Việt Nam.

Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHÁP LÝ
VỀ QUYỀN XÁC ĐỊNH LẠI GIỚI TÍNH
1.1. Những vấn đề lý luận chung về quyền xác định lại giới tính

1.1.1. Khái niệm về việc xác định lại giới tính
Theo quy định của pháp luật dân sự, thì giới tính, là một quyền nhân
thân của mỗi người và không thể chuyển giao cho người khác. Điều 36 Bộ luật
dân sự năm 2005 quy định cá nhân có quyền xác định lại giới tính [19, tr. 22]
Như vậy có thể rút ra khái niệm rằng: “xác định lại giới tính là những
thủ tục dùng để điều chỉnh lại giới tính của một người có khuyết tật bẩm sinh
về giới tính hoặc giới tính chưa được định hình chính xác”.
Thuật ngữ xác định lại giới tính được dùng với mục đích khác với thuật
ngữ chuyển đổi giới tính thường được áp dụng cho người có cơ thể hoàn toàn
bình thường.
Có một số thuật ngữ dễ nhầm lẫn với xác định giới tính, đó là việc
chuyển đổi giới tính. Chuyển đổi giới tính là chuyển từ giới tính nam sang
giới tính nữ hoặc ngược lại. Người chuyển đổi giới tính là người đã hoàn
chỉnh giới tính nam, nữ.
Xác định lại giới tính và chuyển đổi giới tính là 2 thuật ngữ khác nhau.
7


Bản chất con người lúc nào cũng mang trong người 2 loại giới tính nam và
nữ, trong điều kiện và hoàn cảnh nhất định thì giới tính nào biểu hiện tính
trạng trội thì người đó được xem là mang giới tính ấy (khi sinh ra).
Nói về khoa học thì giải thích khá dài dòng yêu cầu người nghe phải có một
trình độ kiến thức về y học hoặc sinh học nhất định mới dễ hiểu. Co thể nhìn
nhân một cách ngắn gọn sau:
1./ Đổi giới tính là người mang giới tính nam sẽ chuyển đổi sang nữ và
ngược lại (can thiệp bằng phẫu thuật).
2./ Xác định lại giới tính là người này tuy mang thân hình là nam nhưng
bản chất giới tính là nữ (phải trải qua một số xét nghiệm, giám định). Và kết
luận rằng người này đang mang tính trạng trội của giới tính nữ (mặc dù thân
hình là nam).

Trường hợp gần đây nhất, trên thế giới lại xuất hiện hiện tượng một
người mang 2 tính trạng trội của giới tính là ngang nhau (tương đối) y học vẫn
đang nghiên cứu.
1.1.2. Căn cứ để xác định lại giới tính
Theo quy định tại điều 36 Bộ Luật dân sự Việt Nam năm 2005 thì:
“Khuyết tật bẩm sinh về giới tính là những bất thường ở bộ phận sinh dục
của một người ngay từ khi mới sinh ra, biểu hiện ở một trong các dạng như
nữ lưỡng giới giả nam, nam lưỡng giới giả nữ hoặc lưỡng giới thật còn
Giới tính chưa được định hình chính xác là những trường hợp chưa thể
phân biệt được một người là nam hay nữ xét cả về bộ phận sinh dục và
nhiễm sắc thể giới tính ”[19].
Từ đó, có thể nói, Điều 36 Bộ luật Dân sự đã một mặt bảo vệ quyền
nhân thân con người khi đáp ứng đủ điều kiện theo quy định pháp luật, mặt
khác nó điều chỉnh tình trạng chuyển đổi giới tính một cách tuỳ tiện thực tế
đang diễn ra và có chiều hướng gia tăng ở nước ta.

8


Như vậy nhìn từ góc độ pháp lý, có thể thấy đây là một quyền nhân
thân có điều kiện. Thể hiện ở chỗ, một người chỉ được quyền yêu cầu xác
định lại giới tính của mình khi họ có khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc
giới tính chưa được định hình chính xác. Khi và chỉ khi đáp ứng được một
trong hai điều kiện trên họ mới có quyền yêu cầu y học xác định lại giới
tính chính xác.
Tuy nhiên, cũng từ góc độ pháp lý, có thể thấy đây là một quyền nhân
thân có điều kiện mà không thể chuyển giao cho người khác. Thể hiện ở chỗ,
một người chỉ được quyền yêu cầu xác định lại giới tính của mình khi họ có
khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc giới tính chưa được định hình chính xác.
Khi và chỉ khi đáp ứng được một trong hai điều kiện trên họ mới có quyền

yêu cầu y học xác định lại giới tính chính xác.
Như vậy, nhìn nhận theo góc độ quy định của luật, có thể thấy “chuyển
đổi giới tính” và “xác định lại giới tính” là hai khái niệm hoàn toàn khác
nhau. Bản thân cụm từ “xác định lại giới tính” nhằm trả lại giới tính thực cho
những người bị khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc giới tính chưa được định
hình chính xác đã nói lên rất rõ ràng và là yếu tố để phân biệt với khái niệm
“chuyển đổi giới tính” được thực hiện theo ý thích của con người, trái với quy
luật của tạo hoá. Và các hoạt động y khoa để xác định lại giới tính cũng sẽ
được gọi chung là “can thiệp y tế”, chứ không phải bất cứ khái niệm gì khác.
Song song với việc ghi nhận quyền được xác định lại giới tính, Bộ luật
Dân sự năm 2005 cũng bảo đảm cho người đã được xác định lại giới tính
quyền được thay đổi họ tên để phù hợp với hoàn cảnh thực tại [Mục e Khoản
1 Điều 27 tr. 18]
Như vậy theo quy định của pháp luật Việt Nam thì chỉ có hai căn cứ để
xác định lại giới tinh đó là: Những trường hợp bị khuyết tật bẩm sinh về giới
tính hoặc giới tính chưa được định hình chính xác còn các đối tượng khác thí
9


không được luật cho phép và bảo vệ.
Đối với trường hợp xác định lại giới tính cho người Mất NLHV dân sự thì:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 38 NĐ 158/2005 quy định: cho phép
người mất NLHV dân sự được xác định lại giới tính theo yêu cầu của cha, mẹ
hoặc người giám hộ.
Vậy, trường hợp sau khi được cha, mẹ, hoặc người giám hộ đồng ý và
tiến hành phẫu thuật xác định lại giới tính cho người mất năng lực hành vi dân
sự, nhưng sau đó Người mất mất năng lực hành vi dân sự không đồng tình
việc mình được phẫu thuật trước đó thì sẽ được giải quyết như thế nào đây thì
pháp luật chưa có quy định rõ ràng hay vẫn còn bỏ ngõ.
1.1.3. Tiêu chuẩn y tế xác định lại giới tính

1.1.3.1. Theo quy định tại Điều 5 nghị định 88/2008 ngày 5/8/2008
NĐ-CP thì Tiêu chuẩn y tế xác định khuyết tật bẩm sinh về giới tính bao gồm:
1. Nam lưỡng giới giả nữ:
a) Bộ phận sinh dục có dương vật nhỏ, có thể sờ thấy tinh hoàn hoặc
không, siêu âm hoặc nội soi thấy tinh hoàn, không có tử cung và buồng trứng;
b) Nhiễm sắc thể giới tính là XY hoặc gen biệt hóa tinh hoàn dương
tính hoặc kết hợp cả hai trường hợp trên.
2. Nữ lưỡng giới giả nam:
a) Bộ phận sinh dục có âm vật phát triển như dương vật nhưng không
sờ thấy tinh hoàn, siêu âm hoặc nội soi thấy có tử cung, buồng trứng, không
thấy tinh hoàn;
b) Nhiễm sắc thể giới tính là XX.
3. Lưỡng giới thật:
a) Bộ phận sinh dục không xác định được là nam hay nữ. Tuyến sinh
dục có cả tổ chức tinh hoàn, buồng trứng;
b) Nhiễm sắc thể giới tính có thể là một trong các dạng XX/XY;
10


XXX/XY; XX/XXXY hoặc các dạng nhiễm sắc thể khác được xác định là
lưỡng giới thật.
Thực chất Có 3 tiêu chuẩn y tế để xác định lại giới tính, gồm: Nam
lưỡng giới giả nữ, nữ lưỡng giới giả nam và lưỡng giới thật.
Trên cơ sở đề nghị của người đứng đơn, cơ sở y tế sẽ lựa chọn giới
tính để có phương pháp điều trị thích hợp, bảo đảm nguyên tắc khi ở giới
tính đó, người này có thể hòa nhập cuộc sống về tâm, sinh lý và xã hội một
cách tốt nhất.
Sau khi đã xác định lại giới tính, người được can thiệp y tế sẽ được
cơ sở khám chữa bệnh cấp giấy chứng nhận y tế và giấy này là căn cứ để
đăng ký hộ tịch.

Các trường hợp đã xác định lại giới tính ở nước ngoài hoặc đã thực
hiện ở Việt Nam trước ngày Nghị định này có hiệu lực, nếu muốn đăng ký lại
hộ tịch thì phải có giấy xác nhận đã xác định lại giới tính của cơ sở khám,
chữa bệnh trước đó và đến các cơ sở khám, chữa bệnh để được kiểm tra và
cấp giấy chứng nhận y tế.
Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm giải quyết việc đăng ký hộ
tịch cho người đã được xác định lại giới tính Theo quy định tại Điều 9 nghị
định 88/2008 ngày 5/8/2008 NĐ-CP thì:
Việc khám lâm sàng để xác định đúng giới tính là rất quan trọng. Quá
trình khám bao gồm việc quan sát hình dáng, phong thái trò chuyện để tìm
hiểu tính cách, sở thích và kiểm tra bộ phận sinh dục của bệnh nhân. Khuyết
tật giới tính bao gồm khuyết tật về gien và khuyết tật ở bộ phận sinh dục.
Những khuyết tật về gien gây nên tình trạng lưỡng giới cho bệnh nhân,
bao gồm lưỡng giới thật và lưỡng giới giả nam hay nữ. Bệnh nhân lưỡng giới
thật là những người có cả tổ chức buồng trứng và tinh hoàn ở trong cơ thể, bộ
phận sinh dục của họ cũng “nửa nọ nửa kia”, hoặc thiên về nữ/nam nhiều hơn.
11


Nam lưỡng giới giả là tuyến sinh dục của người bệnh chỉ có tổ chức
tinh hoàn, còn nữ lưỡng giới giả là tuyến sinh dục của người bệnh chỉ có tổ
chức buồng trứng cho dù bộ phận sinh dục ngoài của họ ở trạng thái bán
nam bán nữ.
Để phát hiện bệnh nhân lưỡng giới thật hay giả không hề đơn giản, bởi
những người này tuy là nam/nữ nhưng lại có biểu hiện đối lập với giới thật
của mình. Ví dụ: Một bệnh nhân nữ có bộ phận sinh dục ngoài biểu hiện như
của một chàng trai bị dị tật lỗ tiểu lệch thấp. Ở mức nặng hơn, âm vật nhìn
không khác gì dương vật. Tuy nhiên, trong cơ thể “chàng trai” ấy lại có hai
buồng trứng, tử cung, tuyệt nhiên không có tổ chức tinh hoàn. Trong trường
hợp này, các bác sĩ sẽ tiến hành chụp cắt lớp, nội soi ở bụng, soi hay chụp ống

niệu dục ngược dòng để kiểm tra xem có âm đạo đổ vào niệu đạo không. Qua
thăm khám hệ thống sẽ xác định rõ đúng giới của bệnh nhân.
Trong các dạng khuyết tật bộ phận sinh dục ở nam thì dị tật lỗ tiểu lệch
thấp khá phổ biến. Lỗ tiểu, thay vì nằm ở đỉnh quy đầu dương vật lại nằm ở
mặt dưới dương vật, bìu, tầng sinh môn khiến bệnh nhân... phải đái ngồi.
Những dị tật dạng này rất dễ nhận biết nhưng vì tâm lý e ngại nên có người để
đến khi lấy vợ mới dám... thú nhận và nhiều người ở tuổi vị thành niên hay
trưởng thành mới đi chữa bệnh.
Việc phẫu thuật chữa những khuyết tật giới tính được tiến hành dựa
trên các tiêu chí: Trước hết, chức năng sinh sản của bệnh nhân được đặt lên
hàng đầu, nghĩa là bệnh nhân phải sinh sản được ở giới sau phẫu thuật. Tiêu
chí thứ hai là bảo vệ chức năng sinh hoạt tình dục. Trường hợp người nữ lấy
chồng nhưng không có con nêu trên là một ví dụ cho việc áp dụng tiêu chí
này. Tuy cơ thể của cô có hai tinh hoàn nhưng lại bị nữ hóa hoàn toàn, tinh
hoàn không sản xuất được tinh trùng nên không thể có con. Vì thế, bác sĩ
phẫu thuật cắt bỏ hai tinh hoàn, điều trị nội tiết tố nữ cho bệnh nhân để cô
12


sống với giới tính nữ.
Tiêu chí cuối cùng mới là theo nguyện vọng của bệnh nhân. Họ tuy là
nữ/nam nhưng hình dáng bên ngoài có thể đối lập với giới đó, giấy khai sinh,
tên, quan hệ xã hội... tất cả đều đã quá quen thuộc với họ. Chính vì thế, họ có
nguyện vọng được phẫu thuật cắt bỏ buồng trứng/tinh hoàn để cuộc sống vẫn
diễn ra yên bình như vốn có.
Bệnh nhân nên được phẫu thuật ngay từ khi 1 tuổi – 3 tuổi. Đó là lúc
trẻ còn nhỏ, chưa ý thức rõ về giới tính, thuận lợi cho việc điều trị, phục hồi
và cho tương lai về sau. Quan trọng nhất là giải tỏa tâm lý cho bản thân trẻ,
bố mẹ và hai bên gia đình.
Công tác chẩn đoán trước sinh và sàng lọc sau sinh ở Việt Nam mới

được bắt đầu trong vài năm trở lại đây. Chính vì thế, những khuyết tật bẩm
sinh về giới tính vẫn còn là bài toán khó đối với yêu cầu cần được phát hiện
sớm và xử lý kịp thời. Tuy nhiên, có những khuyết tật ở trẻ bằng mắt thường,
bằng cảm nhận của đôi tay bác sĩ cũng có thể phát hiện được. Hơn nữa, với
những người đã trưởng thành, hoàn toàn không nên vì e ngại, giấu giếm mà
làm mất đi cơ hội được phẫu thuật càng sớm càng tốt, không để lại hậu quả
nghiêm trọng về sau.
-Trong tổng số bệnh nhân đến điều trị tại Khoa Phẫu thuật Nhi – Bệnh
Viện Việt Đức, nam giới mắc các khuyết tật bẩm sinh ở dạng thực thể (bộ
phận sinh dục) nhiều hơn nữ giới.
- Dị tật lỗ đái thấp là dạng phổ biến nhất trong các khuyết tật giới tính,
ước tính, cứ 200-500 người đàn ông thì có 1 người bị mắc khuyết tật này.
1.1.3.2. Điều kiện đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép can
thiệp y tế để xác định lại giới tính
Điều 8 nghị định 88/2008 ngày 5/8/2008 NĐ-CP quy định; Cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh được phép can thiệp y tế để xác định lại giới tính phải đáp
13


ứng được các điều kiện sau đây:
1. Có đủ điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế và nhân lực theo
quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế;
2. Được Bộ Y tế thẩm định và cho phép bằng văn bản đối với các cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh trực thuộc Bộ Y tế; được Sở Y tế tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương thẩm định và cho phép bằng văn bản đối với các cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế và các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
của y tế ngành, y tế tư nhân thuộc địa bàn quản lý.
Ngoài ra các Điều kiện đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép
can thiệp y tế để xác định lại giới tính.Còn được quy định cụ thể tại Điều 1
thông tư 29/2010/TT/BYT. Ngày 24/5/2010 hướng dẫn thi hành một số điều

của nghị định 88/2008/NĐ-CP ngày 5/8/2008.
1.1.4. Các nguyên tắc xác định lai giới tính theo quy định của pháp
luật Việt Nam
Nguyên tắc xác định lai giới tính được quy định tai Điều 3 nghị định
88/2008 ngày 5/8/2008 NĐ- CP.
1. Bảo đảm mỗi người được sống theo đúng giới tính của mình.
2. Việc xác định lại giới tính phải được tiến hành trên nguyên tắc tự
nguyện, khách quan, trung thực, khoa học và phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về việc đã xác định lại giới tính.
3. Giữ bí mật về các thông tin liên quan đến người được xác định lại
giới tính, trừ trường hợp có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu
cầu cung cấp hồ sơ phục vụ cho việc kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố và
xét xử liên quan đến việc xác định lại giới tính.
Tôn trọng nguyên tắc tự nguyện khi xác định lại giới tính Điều 36
Bộ luật Dân sự quy định, việc xác định lại giới tính sẽ được thực hiện theo
quy định của pháp luật. Như vậy, để điều luật này đi vào cuộc sống nhất
14


thiết phải có một sự cụ thể hoá. Và 3 năm sau ngày Bộ luật Dân sự năm
2005 ghi nhận quyền xác định lại giới tính như một quyền nhân thân cơ
bản, ngày 5/8/2008 Nghị định 88/2008/NĐ-CP về xác định lại giới tính đã
được Chính phủ ban hành [8].
Với 5 Chương 17 Điều, Nghị định 88 là văn bản quy phạm pháp luật
đầu tiên ở Việt Nam quy định chi tiết về vấn đề xác định lại giới tính và cũng
là cơ sở pháp lý quan trọng để đưa những hoạt động xác định lại giới tính vào
đúng khuôn khổ pháp luật.
Đánh giá về sự ra đời của Nghị định 88, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế,
Bộ Y tế - cơ quan chấp bút xây dựng Nghị định - ông Nguyễn Huy Quang
cho biết, chưa có Nghị định nào khiến Ban soạn thảo “lao tâm khổ tứ” đến

vậy. Chỉ 1 năm sau khi Bộ luật Dân sự năm 2005 ban hành, Nghị định 88
đã được trình Chính phủ. Tuy nhiên, đây là một vấn đề hết sức nhạy cảm và
tế nhị, có ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi cá nhân cũng như sự nhận thức
của toàn xã hội, nên dự thảo Nghị định đã được xem xét, cân nhắc, chỉnh
sửa, lấy ý kiến đóng góp nhiều lần. Và phải đến nay, 3 năm sau thời điểm
của Bộ luật Dân sự năm 2005 , Nghị định mới được ban hành với một nội
dung tương đối hoàn chỉnh.
Điều 3 Khoản 1, 2 Nguyên tắc xác định lại giới tính - NĐ 88/2008/NĐ-CP
“…Trường hợp xác định lại giới tính cho người chưa đủ 06 tuổi thì cha,
mẹ hoặc người giám hộ của người đó phải có đơn đề nghị; trường hợp xác
định lại giới tính cho người đủ 06 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thì trong đơn đề
nghị phải có chữ ký của cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó”.
1.1.5. Hệ quả pháp lý của việc xác định lại giới tính
1.1.5.1. Quyền của người đã được xác định lại giới tính được pháp luật
bảo vệ, tôn trọng và giữ bí mật đời tư
Để có thể trở lại với giới tính thực của mình, sống một cuộc đời bình
15


thường, những người có nguyện vọng xác định lại giới tính, không chỉ trải
qua một quy trình can thiệp y tế đơn thuần, mà nhất thiết phải có được sự cho
phép cũng như bảo vệ của pháp luật. Vì thế, sự xuất hiện của các hệ quả pháp
lý liên quan là tất yếu.
Được tôn trọng và giữ bí mật đời tư
Theo quan điểm của pháp luật, những người có khuyết tật bẩm sinh về
giới tính hoặc giới tính chưa được định hình chính xác, trước và sau được xác
định giới tính đều hoàn toàn bình đẳng về quyền nhân thân với các công dân
khác. Có nghĩa là họ có quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín,
quyền được tôn trọng bí mật đời tư như quy định tại Điều 37 và 38 Bộ luật
Dân sự [tr 23] Thêm vào đó, xác định lại giới tính lại là một vấn đề mang tính

cá nhân, tương đối nhạy cảm, nên bí mật về các thông tin liên quan đến người
được xác định lại giới tính sẽ được pháp luật tuyệt đối bảo vệ, trừ những
trường hợp đặc biệt, bất khả kháng do pháp luật quy định.
Bất kỳ hành vi tiết lộ thông tin về việc xác định lại giới tính của người
khác hoặc phân biệt đối xử đối với người đã xác định lại giới tính sẽ chịu các
chế tài theo quy định của pháp luật. Cụ thể, Bộ Y tế đang xúc tiến việc sửa đổi
Nghị định 45/2005/NĐ-CP về xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực
y tế theo hướng bổ sung các quy định xử phạt liên quan đến hoạt động xác
định lại giới tính.
“Giữ bí mật các thông tin liên quan đến người được xác định lại giới
tính, trừ trường hợp có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu
cầu cung cấp hồ sơ phục vụ cho việc kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố và
xét xử liên quan đến việc xác định lại giới tính”
Việc xác định lại giới tính phải được tiến hành tự nguyện, trung thực,
và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Các thông tin liên quan đến người
đó phải được giữ bí mật. Cấm phân biệt đối xử đối với họ và cấm thực hiện
việc xác định lại giới tính khi chưa được phép của Bộ Y tế hoặc Sở Y tế tỉnh,
16


thành phố trực thuộc Trung ương.
1.1.5.2. Quyền của người đã được xác định lại giới tính được thay đổi
họ tên, cải chính hộ tịch, thay đổi dân tộc một cách công khai trên tất cả
phương tiện thông tin đại chúng
Song song với việc ghi nhận quyền được xác định lại giới tính, Bộ luật
Dân sự năm 2005 cũng bảo đảm cho người đã được xác định lại giới tính
quyền được thay đổi họ tên để phù hợp với hoàn cảnh thực tại [Mục e Khoản
1 Điều 27].
Mặt khác Đối với những trường hợp xác định lại giới tính khi cá nhân
đó có khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc giới tính chưa định hình chính xác

thì được thay đổi tên, họ. Cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch có trách
nhiệm căn cứ giấy chứng nhận y tế do cơ sở khám, chữa bệnh đã thực hiện
việc can thiệp y tế xác định lại giới tính cấp để giải quyết việc đăng ký hộ tịch
cho người đó.
Để cụ thể hoá quy định này, Nghị định 88/2008/NĐ-CP cũng đã dành
hẳn một chương để đề cập tới các vấn đề liên quan đến hộ tịch của người sau
khi đã xác định lại giới tính. Cụ thể, cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch
có trách nhiệm căn cứ vào Giấy chứng nhận y tế (do cơ sở khám, chữa bệnh
đã thực hiện việc can thiệp y tế xác định lại giới tính cấp) để giải quyết việc
đăng ký hộ tịch cho người đã xác định lại giới tính.
Theo sự dẫn chiếu của Nghị định 88, thẩm quyền, thủ tục cho người đã
được xác định lại giới tính sẽ được thực hiện theo quy định tại các Điều
36,37,38 của Nghị định 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch [9].
Người đã xác định lại giới tính sẽ được thay đổi và công nhận giới tính, được
thay đổi họ tên phù hợp giới tính trên các giấy tờ hộ tịch. Uỷ ban nhân dân
cấp quận, huyện có thẩm quyền tiến hành các thủ tục cải chính này.
Các trường hợp đã xác định lại giới tính ở nước ngoài hoặc đã thực

17


hiện ở Việt Nam trước ngày Nghị định này có hiệu lực, nếu muốn đăng ký lại
hộ tịch thì phải có giấy xác nhận đã xác định lại giới tính của cơ sở khám,
chữa bệnh trước đó và đến các cơ sở khám, chữa bệnh để được kiểm tra và
cấp giấy chứng nhận y tế.
Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm giải quyết việc đăng ký hộ
tịch cho người đã được xác định lại giới tính.
Về mặt Thủ tục đăng ký hộ tịch cho người sau khi đã xác định lại giới
tính được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 88/2008/NĐ-CP ngày
5/8/2008 về xác định lại giới tính, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày

27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch và Nghị định số 06/2012/NĐ-CP
ngày 2/2/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định về hộ tịch, hôn
nhân và gia đình và chứng thực (có hiệu lực từ ngày 01/4/2012) [10].
Điều 11 Nghị định số 88/2008/NĐ-CP quy định: “Giấy chứng nhận y tế
quy định tại khoản 1 Điều 10 Nghị định này là căn cứ để đăng ký hộ tịch cho
người đã được xác định lại giới tính”.
Như vậy, để thực hiện thủ tục đăng ký hộ tịch sau khi đã xác định lại
giới tính, trước hết cần phải có giấy chứng nhận y tế của cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh đã thực hiện việc can thiệp y tế xác định lại giới tính.
Sau khi có giấy chứng nhận y tế của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã
thực hiện việc can thiệp y tế xác định lại giới tính, có thể tiến hành thủ tục
đăng ký hộ tịch. Cụ thể như sau:
* Về thẩm quyền giải quyết, theo quy định tại Điều 13, Điều 14 Nghị
định số 88/2008/NĐ-CP và khoản 2 Điều 37 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP:
Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm và thẩm quyền giải quyết việc
đăng ký hộ tịch cho người đã được xác định lại giới tính theo quy định của
pháp luật về đăng ký hộ tịch.
* Về thủ tục, theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 88/2008/NĐ-CP, Điều
18


38 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP và khoản 10 Điều 1 Nghị định số 6/2012/NĐCP, thủ tục đăng ký việc xác định lại giới tính được thực hiện như sau:
- Người yêu cầu thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác
định lại giới tính, bổ sung hộ tịch phải nộp tờ khai (theo mẫu quy định), xuất
trình bản chính giấy khai sinh của người cần thay đổi, cải chính hộ tịch, xác
định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch và các giấy tờ liên quan
để làm căn cứ cho việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác
định lại giới tính, bổ sung hộ tịch.
Đối với trường hợp xác định lại giới tính phải nộp giấy chứng nhận y tế
do Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép can thiệp y tế để xác định lại giới

tính theo quy định của Nghị định số 88/2008/NĐ-CP ngày 5/8/2008 của
Chính phủ về xác định lại giới tính.
Việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới
tính, bổ sung hộ tịch cho người chưa thành niên hoặc người mất năng lực
hành vi dân sự được thực hiện theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc người giám hộ.
Người yêu cầu thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định
lại giới tính, bổ sung hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch có thể trực tiếp hoặc nộp hồ sơ
qua hệ thống bưu chính. Trong trường hợp gửi qua hệ thống bưu chính, các giấy
tờ có trong thành phần hồ sơ phải là bản sao có chứng thực; trường hợp trực tiếp
thì nộp bản sao kèm bản chính để đối chiếu hoặc bản sao có chứng thực.
- Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu việc
thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính có đủ
điều kiện theo quy định của pháp luật, cán bộ Tư pháp hộ tịch hoặc cán bộ Tư
pháp của Phòng Tư pháp ghi vào Sổ đăng ký khai sinh trước đây và Quyết
định về việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới
tính. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ký và cấp cho đương sự một bản
chính Quyết định về việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác
19


×