Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Hoàn thiện công tác quản lý quỹ bảo hiểm y tế ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.57 KB, 63 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................5
Chương 1: Tổng quan về quỹ và quản lí quỹ bảo hiểm y tế...................7
1.1/Bảo hiểm y tế và quỹ bảo hiểm y tế............................................................7
1.1.1/ Bảo hiểm y tế............................................................................................7
1.1.2/ Quỹ bảo hiểm y tế.................................................................................11
1.2/ Quản lí quỹ BHYT........................................................................................14
1.2.1/ Mục tiêu quản lí quỹ BHYT................................................................14
1.2.2/ Nội dung quản lí quỹ BHYT:..............................................................14

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÍ QUỸ BẢO HIỂM Y TẾ Ở
VIỆT NAM.................................................................................................18
2.1/ Một số nét về quá trình hình thành và phát triển của BHYT trong thời
gian qua:............................................................................................................18
2.1.1/ Giới thiệu khái quát..............................................................................18
2.1.2/Giai đoạn hình thành chính sách, xây dựng bộ máy thực hiện
chính sách( năm 1992-T8/1998).....................................................................19
2.1.3/ Giai đoạn từ tháng 8/1998 đến tháng 6/2005 (từ khi ban hành nghị
định số 58/1998/ NĐ-CP của Chính phủ ngày 13/8/1998)- giai
đoạn mở rộng đối tượng, củng cố bộ máy tổ chức.....................................21
2.1.4/ Giai đoạn từ tháng 7/2005 đến nay( kể từ khi ban hành nghị định số
63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 của Chính phủ): giai đoạn mở rộng
BHYT cho các đối tượng xã hội vói sự hỗ trợ của Nhà nước...................23
2.2/ Thực trạng quản lí quỹ BHYT:..................................................................25


2.2.1/ Quản lí nguồn hình thành quỹ BHYT:..............................................25
2.2.2/ Quản lí sử dụng quỹ BHYT:...............................................................35
2.3/ Những đánh giá về thành tựu và hạn chế trong công tác quản lí quỹ


BHYT thời gian vừa qua:...............................................................................41
2.3.1/ Những thành tựu đạt được:................................................................41
2.3.2/ Những hạn chế còn tồn tại:.................................................................43

Chương 3: giải pháp hoàn thiện công tác quản lí quỹ BHYT ở nước ta49
3.1/ Quan điểm và định hướng chung:.............................................................49
3.2/ Một số giải pháp và kiến nghị:....................................................................52
3.2.1/ về mức đóng:..........................................................................................52
3.2.2/ Đối tượng tham gia BHYT:.................................................................53
3.2.3/ về quyền lợi của ngưòi tham gia BHYT:...........................................56
3.2.4/ Bộ máy quản lí quỹ:.............................................................................57
3.2.5/ về chính sách bảo tồn và phát triển quỹ:..........................................58
3.2.6/ Công tác quản lí chi:............................................................................59


KẾT LUẬN 62DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bảo hiểm y tế ( BHYT )
Bảo hiểm xã hội ( BHXH )
Khám chữa bệnh ( KCB )


Nghị định - Chính phủ ( NĐ - CP )DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: số người tham gia và diện bao phủ BHYT.....................................32
Bảng 2.2: số thu của quỹ BHYT theo các nhóm đối tượng............................35
Bảng 2.3: Bảng thu, chi hàng năm của quỹ BHYT.........................................41


Bảng 2.4: Mức đóng bình quân theo các nhóm đối tượng 48LỜI MỞ
ĐẦU
Trong những năm vừa qua cùng với thay đổi nhanh chóng của đất nước ta về

tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Đời sống của người dân không ngừng được
cải thiện, mức sống của đại bộ phận người dân nước ta đang ngày càng được nâng
cao, điều đó có sự đóng góp không nhỏ của hệ thống y tế nước ta nói chung và bảo
hiểm y tế (BHYT) nói riêng. Bảo hiểm y tế là một chính sách xã hội lớn của Đảng
và Nhà nước, là một trong những loại hình bảo hiểm xã hội (BHXH) mang ý nghĩa
nhân đạo, có tính chia sẻ cộng đồng sâu sắc, góp phần quan trọng thực hiện mục
tiêu công bằng xã hội trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Hơn
nữa, đối với người lao động, BHYT còn liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp
pháp của họ khi không may phải điều trị tại bệnh viện. Trong những năm qua thì
Nhà nước ta đã ban hành và sửa đổi nhiều chính sách quan trọng về hệ thống
BHYT, từ đó đã tạo cơ sở pháp lí cần thiết cho sự phát triển của ngành BHYT.
Tổng kết 15 năm (1992 - 2007) thực hiện chính sách BHYT ở nước ta, kết quả
cho thấy số người tham gia BHYT tăng nhanh, năm 2006 là 36,7 triệu người đạt tỷ
lệ bao phủ 42% dân số cả nước; Quỹ BHYT chiếm khoảng 1/3 ngân sách nhà nước
dành cho y tế, chiếm tỷ trọng gần 60% ngân sách nhà nước dành cho công tác khám
chữa bệnh (KCB). Như vậy, BHYT đã bước đầu có sự phát triển và nâng cao chất
lượng chăm sóc sức khỏe cho người lao động tại tuyến y tế cơ sở. Điều đó cũng tạo
sự công bằng trong chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân, hình thành và phát triển hệ
thống an sinh xã hội ở nước ta.
Tuy nhiên, nhìn nhận lại, bên cạnh tính ưu việt của việc thực hiện chính sách
BHYT, cũng đã bộc lộ một số hạn chế. Đó là các doanh nghiệp tư nhân và hộ cá thể
trốn đóng BHYT cho người lao động khá nhiều. Thống kê cho thấy, mới có khoảng


50% đối tượng thuộc diện bắt buộc tham gia BHYT thuộc khối doanh nghiệp có
tham gia; chính sách BHYT tự nguyện chưa sát với thực tế, thiếu tính ổn định nên
chỉ những người thường xuyên ốm, mắc bệnh mạn tính mới tham gia. Chính vì vậy
năm 2006 quỹ BHYT tự nguyện đã bội chi hơn 1.000 tỷ đồng, năm 2007 bội chi
khoảng 2100 tỷ đồng, cao gấp đôi so với năm 2006. Trong khi đó thì quỹ BHYT là
điều kiện rất quan trọng để BHYT có thể thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ

của mình. Vậy làm như nào để có thể quản lí tốt hơn công tác thu - chi của quỹ ?
việc quản lí sử dụng quỹ BHYT như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất?.
Từ thực tế trên cùng với những kiến thức đã được trang bị trong nhà trường,
với sự giúp đỡ tận tình của PGS.TS Nguyễn Thị Bất và các cán bộ tại phòng Bảo
hiểm y tế. vụ tài chính- hành chính sự nghiệp, Bộ tài chính. Em đã quyết định chọn
đề tài “ Hoàn thiện công tác quản lí quỹ BHYT ở Việt Nam” làm đề tài của
chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Kết cấu của chuyên đề thực tập tốt nghiệp, ngoài phần mở đầu, kết luận thì
chuyên đề được chia thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về quỹ BHYT và quản lí quỹ BHYT
Chương 2: Thực trạng quản lí quỹ BHYT ở Việt Nam


Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí quỹ BHYT ở
nước ta.Chương 1: Tổng quan về quỹ và quản lí quỹ bảo hiểm y
tế
1.1/Bảo hiểm y tế và quỹ bảo hiểm y tế
1.1.1/Bảo hiểm y tế
*Khải niệm bảo hiếm y tế:
Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểmđược áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức
khoẻ nhằm bảo đảm chi trả một phần hoặc toàn bộ chi phí khám bệnh, chữa bệnh
cho người tham gia bào hiểm y tế khi họ ốm đau, bệnh tật.
Bảo hiểm y tế là một phạm trù kinh tế tất yếu của xã hội phát triển, đóng vai
trò quan trọng không những đối với người tham gia bảo hiểm, các cơ sở y tế, mà
còn là yếu tố quan trọng trong việc thực hiện chủ trương xã hội hoá công tác y tế
nhằm huy động nguồn tài chính ổn định, phát triển đa dạng các thành phần tham gia
khám, chữa bệnh cho nhân dân.
* Mục tiêu và chức năng của BHYT:
BHYT là một chính sách xã hội do Nhà nước tổ chức thực hiện, nhằmhuy
động sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động, các tổ chức và cá

nhân để thanh toán chi phí khám chữa bệnh theo quy định của Điều lệ này cho
người có thẻ BHYT khi ốm đau.
BHYT theo Điều lệ này mang tính xã hội, không vì mục tiêu lợi nhuận, hướng
tới mục tiêu công bằng, hiệu quả trong khám chữa bệnh và toàn dân tham gia.
Việc hình thành BHYT ở Việt Nam nhằm những đáp ứng các chức năng quan
trọng sau:
- Tạo nên nguồn tài chính bổ sung cho nguồn tài chính của hệ thống y tế Nhà
nước, với mức đóng phí được huy động giữa người lao động và chủ sử dụng lao


động. Những đóng góp này sẽ được chi trả một phần cho các cơ sở y tế Nhà nước.
Nguồn thu từ người bệnh sử dụng BHYT được sử dụng cùng với nguồn ngân sách
hiện đang phân bổ từ trung ương đến địa phương cho các cơ sở y tế để nâng cao
chất lượng dịch vụ y tế cho người tham gia BHYT.
-

Chức năng thứ hai là giảm bớt những gánh nặng cho người tham gia BHYT

khi ốm đau, trong các trường hợp bệnh nặng khi sử dụng các dịch vụ y tế có chất
lượng cao. BHYT thực hiện được việc giảm bớt gánh nặng về tài chính bằng cách
cho phép cá nhân và gia đình đóng góp một khoản tiền để giảm bớt những thiệt hại
về tài chính khi ốm đau, bệnh nặng.
-

Chức năng cuối cùng của BHYT là góp phần thực hiện công bằng trong

chăm sóc sức khoẻ và tái phân phối thu nhập. Với một số lượng lớn số người tham
gia đóng góp, mỗi người tham gia BHYT sẽ được hưởng phúc lợi tối đa. Đồng thời
điều này cũng đảm bảo công bằng trong việc thu phí giữa những tầng lớp khác nhau
trong xã hội. Ví dụ như việc xây dựng mức phí theo tỉ lệ phần trăm thu nhập tạo nên

sự hỗ trợ bù trừ giữa người nghèo và người giàu. Ỏ đây cũng có sự hỗ trợ giữa
những người có rủi ro cao, thu nhập thấp và người rủi ro thấp, thu nhập cao.
* Nguyên tắc bảo hiếm y tế:
-

Chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm y tế trên cơ sở lấy số

đông bù số ít, người khoẻ hỗ trợ người đau ốm, người có khả năng đóng góp hỗ trợ
người khó khăn.
-

Chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế do người tham gia bảo hiểm y

tế và quỹ bảo hiểm y tế cùng chi trả.
-

Mức đóng bảo hiểm y tế được xác định theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương,

tiền lương hưu, tiền công, tiền trợ cấp, tiền học bổng hoặc tiền lướng tối thiểu.
-

Mức hưởng bảo hiểm y tế theo mức độ bệnh tật và theo phạm vi quyền lợi

của người tham gia bảo hiểm y tế.


-

Quỹ bảo hiểm y tế được quản lí tập trung, thống nhất công khai, minh bạch,


đảm bảo cân đối thu chi và được Nhà nước bảo hộ.
* về đối tượng tham gia BHYT:
-

Bảo hiểm y tế bắt buộc:
Theo những quy định hiện hành thì đối tượng tham gia BHYT bắt buộc bao

gồm những đối tượng sau đây:
+ Cán bộ công chức và người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính
sự nghiệp, cơ quan đảng, các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể quần chúng, cán bộ
hưởng sinh hoạt phí làm việc tại xã, phường, thị trấn; đại biểu hội đồng nhân dân
các cấp ( gọi chung là đối tượng hành chính sự nghiệp).
+ Người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước, tổ chức kinh tế của cơ
quan hành chính, cơ quan đảng, đoàn thể ( gọi chung là đối tượng doanh nghiệp
Nhà nước).
+ Người lao động trong các tổ chức, đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh có từ 10
lao động trở lên ( gọi chung là đối tượng doanh nghiệp tư nhân).
+ Người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế
xuất, khu công nghiệp tập trung, các cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế
tại Việt Nam ( gọi chung là đối tượng đầu tư nước ngoài).
+ Hưu trí, mất sức lao động, tai nạn lao động, công nhân cao su nghỉ việc
hưởng trợ cấp BHXH hàng tháng ( gọi chung là đối tượng hưu trí mất sức).
+ Người thuộc diện ưu đãi xã hội ( gọi chung la đối tượng ưu đãi xã hội).
-

Bảo hiểm y tế tự nguyện:
Theo điều lệ BHYT hiện hành thì mọi đối tượng đều có thể tham gia BHYT tự

nguyện. Trong thời gian qua đã có những nhóm đối tượng sau đây tham gia BHYT
tự nguyện:



+ Học sinh, sinh viên.
+ Nhân dân nông thôn (nông dân).
+ Người nghèo.
+ Nhân dân thành thị.
+Diện chính sách xã hội ( nhân đạo xã hội).
* Quyền lợi được hưởng của đổi tượng tham gia BHYT
Trong những năm qua thì quyền lợi của người tham gia BHYT đã cơ bản được
đảm bảo đúng theo quy định, từng bước được mở rộng thuận lợi và dễ dàng hơn.
Nghị định số 63 ra đời đã tạo ra nhiều bước đổi mới trong thực hiện chính sách như
mở rộng đối tượng tham gia BHYT, người tham gia BHYT được hưởng quyền lợi
khá đầy đủ và toàn diện, vừa đảm bảo khám chữa bệnh với kĩ thuật cao, vừa từng
bước đảm bảo quyền lợi về y tế dự phòng và phục hồi chức năng. Cụ thể:
-

Điều chỉnh, bổ sung danh mục thuốc, danh mục vật tư y tế được quỹ BHYT

thanh toán bổ sung giá của các dịch vụ y tế mới trong KCB.
-

Quỹ BHYT thanh toán chi phí các dịch vụ y tế kĩ thuật cao có chi phí lớn và

thanh toán chi phí chuyển viện với một số nhóm đối tượng ưu đãi; trường hợp KCB
theo yêu cầu không theo tuyến điều trị tiếp tục được thanh toán với mức phí được
điều chỉnh cao hơn.
-

Chuyển đổi cơ chế cùng chi trả 20% một cách đồng loạt và khống chế trần


trong điều trị nội trú sang hình thức xác định mức thanh toán tối đa và cùng chi trả
với một số kĩ thuật cao có chi phí lớn.
- Riêng đối với BHYT tự nguyện, tuy mức đóng bình quân chỉ bằng 1/3 mức
đóng của BHYT bắt buộc nhung đuợc huởng quyền lợi nhu BHYT bắt buộc. Đối
tuợng BHYT học sinh, sinh viên đuợc chăm sóc sức khỏe ban đầu tại nhà truờng và
đuợc huởng trợ cấp mai táng khi tu vong.


1.1.2/ Quỹ bảo hiểm y tế
Quỹ BHYT là quỹ tài chính đuợc hình thành từ nguồn đóng BHYT và các
nguồn thu hợp pháp khác, đuợc sử dụng để chi trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh
cho nguời tham gia BHYT, chi phí quản lí và những khoản chi phí hợp pháp khác
theo quy định.
* Sự cần thiết hình thành quỹ bảo hiếm y tế
Thứ nhất, quỹ BHYT là nguồn hỗ trợ tài chính cho những nguời tham gia
BHYT đi khám, chữa bệnh khi bị ốm đau, bệnh tật. Nền kinh tế phát triển, cuộc
sống của nhân dân đuợc cải thiện thì nhu cầu KCB, chăm sóc sức khoẻ ngày một
tăng; những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực y tế đã nâng cao chất luợng
dịch vụ y tế lên rất nhiều trong những năm qua, nhung cũng đòi hỏi nguời thụ
huởng phải trả mức phí cao hơn. Và vì thế, chi phí KCB luôn là nỗi lo không nhỏ
của nhiều nguời, ngay cả những nguời có thu nhập thuộc loại khá của xã hội.Quỹ
BHYT giúp họ giải toả đuợc gánh nặng này bằng việc chia sẻ rủi ro.
Thứ hai, quỹ BHYT là một trong những nguồn tài chính ổn định cho các cơ
sở y tế. Trong những năm qua, nguồn thu viện phí do Quỹ BHYT thanh toán chiếm
một tỷ trọng đáng kể trong tổng nguồn chi thuờng xuyên của các cơ sở y tế (khoảng
trên 30%). Nguồn thu này đã góp phần cho các cơ sở y tế chủ động trong việc phục
vụ nguời bệnh; nâng cao chất luợng dịch vụ y tế.
Thứ ba, quỹ BHYT góp phần quan trọng trong việc thực hiện chủ truơng xã
hội hoá lĩnh vực y tế. Chính sách này tạo khả năng huy động các nguồn lực tài
chính cho y tế; đồng thời phát triển đa dạng các thành phần tham gia khám chữa

bệnh. Đối tượng tham gia BHYT được lựa chọn cơ sở khám, chữa bệnh không phân
biệt trong hay ngoài công lập và được Quỹ BHYT thanh toán.
Thứ tư, quỹ BHYT góp phần thực hiện mục tiêu công bằng xã hội trong chăm
sóc sức khoẻ nhân dân, thể hiện rõ nét tính nhân đạo, cộng đồng xã hội sâu sắc.


Những người tham gia BHYT, dù ở địa vị, hoàn cảnh nào, mức đóng là bao nhiêu,
khi ốm đau cũng nhận được sự chăm sóc y tế bình đẳng như nhau, xoá bỏ khoảng
cách giàu nghèo khi thụ hưởng chế độ KCB.
* Nguồn hình thành quỹ bảo hiếm y tế
Quỹ BHYT được hình thành không phải vì mục tiêu lợi nhuận đặt lên hàng
đầu, quỹ được hình thành chủ yếu từ nguồn đóng góp từ người tham gia bảo hiểm,
gọi là phí bảo hiểm. Nếu người tham gia bảo hiểm là người lao động và người sử
dụng lao động thì quỹ BHYT được hình thành từ sự đóng góp của cả hai bên. Thông
thường người sử dụng lao động đóng góp 50-60% mức phí bảo hiểm, phần còn lại
do người lao động đóng góp.
BHYT được hình thành từ các nguồn sau:
-

Tiền thu phí BHYT do người sử dụng lao động và người tham gia BHYT

đóng.
-Các khoản nhà nước đóng BHYT cho đối tượng theo quy định và các khoản
hỗ trợ khác thông qua các cơ quan BHXH, lao động thương binh và xã hội.
-

Đóng góp của chính quyền các cấp (tỉnh, thành phố, ngành) cho một số đối

tượng không đủ khả năng mua thẻ BHYT như người nghèo...
-


Đóng góp của các tổ chức, cá nhân từ thiện, của các tổ chức phi Chính phủ

cho các đối tượng nhân đạo xã hội theo các chương trình: EC, SEARAC, IRAC...
-Tiền sinh lời do thực hiện các biện pháp hợp pháp nhằm bảo toàn và tăng
trưởng quỹ BHYT thông qua các hình thức đầu tư như: gửi ngân hàng,mua tín
phiếu, trái phiếu quốc gia...
-

Các khoản thu từ nguồn tài trợ, viện trợ và Các khoản thu hợp pháp

khác.
Đồng thời có 2 nhóm đối tượng chính trong nguồn thu của quỹ BHYT đó


chính là đối tượng tham gia bắt buộc và nhóm đối tượng tham gia tự nguyện.Tuy
mức đóng cũng như quyền lợi của 2 nhóm này tương đối khác nhau nhưng cũng đã
đem lại nguồn thu đáng kể cho quỹ BHYT.
Nguồn hình thành BHYT chủ yếu ở đây là từ người lao động và chủ sở hữu
lao động, mặc dù vậy, việc không đóng BHYT cho người lao động ở một số đơn vị,
chủ yếu là ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn diễn ra khá phổ biến. Hiện
tượng cho nợ và nộp chậm cũng có tác động không nhỏ tới quỹ BHYT, không tăng
ảnh hưởng đến việc bảo toàn và tăng trưởng vốn quỹ BHYT. Khoản tiền thu do việc
nộp chậm phí BHYT cho đến nay cũng chưa được thực hiện, hiện tượng chủ sử
dụng lao động nợ tiền đóng phí BHYT vẫn đang tồn tại và là yêu cầu đòi hỏi hệ
thống BHYT phải tăng cường năng lực tính bắt buộc của việc tham gia BHYT đối
với các đối tượng bắt buộc.
*Sử dụng quỹ BHYT
Quỹ BHYT được sử dụng để:
-Thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT

-

Chi phí quản lí

-

Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHYT

-

Chi dự trữ, dự phòng lao động lớn

-

Chi dự phòng hạn chế tổn thất
Như vậy các khoản chi là rất lớn, cho nên để cho quỹ BHYT được cân đối thì

ngoài việc thực hiện thu BHYT một cách có hiệu quả thì việc thực hiện chi tiêu của
quỹ cũng phải được tiến hành một cách nghiêm ngặt để đạt hiệu quả cao trong sử
dụng quỹ.


1.2/ Quản líquỹBHYT
1.2.1/ Mục tiêu quản lí quỹ BHYT
Từ những tác dụng tích cực của quỹ BHYT trên đây đã chứng minh được tính
đúng đắn trong việc hình thành, phát triển quỹ BHYT, điều đó đã đã có tác dụng
tích cực vào mục tiêu chăm sóc sức khỏe nhân dân và nâng cao chất lượng sống cho
toàn xã hội. Tuy nhiên trong quá trình phát triển và nâng cao hiệu quả của quỹ
BHYT cũng gặp phải không ít khó khăn, thách thức, hơn nữa để làm sao có thể
hoàn thành tốt những mục tiêu tốt đẹp của hệ thống BHYT ở nước ta thì cần phải

đòi hỏi làm sao có một tiềm lực tài chính đủ mạnh để thực hiện tốt những nhiệm vụ
đã đặt ra. Chính vì vậy mà đòi hỏi các nhà quản lí, các cơ sở KCB phải có những
biện pháp thích hợp để nâng cao được số thu từ các nguồn thu và giảm thiểu các chi
phí không cần thiết mà vẫn đảm bảo được việc cung ứng các dịch vụ y tế tốt nhất,
hiệu quả nhất đến với người dân. Đồng thời quỹ BHYT phải luôn luôn đảm bảo
được đủ nguồn lực để chi trả một cách kịp thời, đầy đủ các chế độ BHYT cho
những người thụ hưởng.
1.2.2/ Nội dung quản lí quỹ BHYT:
* Quản lỉnguồn hình thành quỹ:
Quỹ BHYT được hình thành từ sự đóng góp của người lao động, chủ sử dụng
lao động, ngân sách Nhà nước và các nguồn thu hợp pháp khác nhằm đảm bảo
nguồn tài chính ổn định, đầy đủ cho công tác chăm sóc sức cho người tham gia
BHYT. Cùng với sự gia tăng diện bao phủ của BHYT, số thu quỹ BHYT cũng liên
tục tăng đều qua các năm và ngày càng có vị trí quan trọng trong hoạt động y tế,
góp phần giảm thiểu về tài chính y tế cho ngân sách Nhà nước.
Đe đảm bảo sự ổn định của quỹ BHYT, bảo đảm tăng trưởng đều đặn quỹ
BHYT phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội, thì việc tăng cường trách nhiệm đóng
góp của người lao động cũng như của chủ sở hữu lao động là thật sự cần thiết và đó


chính là đòi hỏi cấp thiết nhưng cũng rất chính đáng của BHYT Việt Nam. Cùng với
việc chi phí cho hoạt động KCB đang ngày càng tăng cao, việc sử dụng các dịch vụ
y tế chất lượng cao đang ngày càng phổ biến thì việc chi tiêu quá nhiều đến quỹ
BHYT là điều không thể tránh khỏi, chính vì lẽ đó mà việc tăng phí BHYT là một
điều cần thiết và nên làm. Mức phí đóng góp được xác định tùy thuộc vào đối tượng
tham gia BHYT. Theo đó cán bộ, công chức, viên chức đang làm việc ở các đơn vị
thuộc khu vực hành chính sự nghiệp, người lao động thuộc khu vực sản xuất kinh
doanh có mức đóng BHYT bằng 3% tiền lương, tiền công hàng tháng và các khoản
phụ cấp, hệ số chênh lệch ( nếu có ). Đối với đối tượng tham gia BHYT tự nguyện
thì mức đóng được xác định phụ thuộc vào từng loại hình theo nguyên tắc phù hợp

với tình hình kinh tế xã hội của địa phương và đảm bảo cân đối thu chi quỹ BHYT.
Nguồn đóng góp của BHYT tự nguyện phải được hạch toán riêng với nguồn thu của
BHYT bắt buộc. Đồng thời cũng cần phải xem xét việc thi hành chính sách về mức
phí BHYT cho khu vực miền núi hoặc những vùng khó khăn sao cho phù hợp với
mức sống của người dân trong vùng, đảm bảo được sự công bằng trong chăm sóc
sức khỏe giữa các đối tượng trong cả nước và tăng tỉ lệ bao phủ của BHYT ra toàn
xã hội.
*

Quản ỉ í sử dụng quỹ:
Bên cạnh việc tiến hành các biện pháp để làm sao nâng cao được số thu cho

quỹ BHYT thì một điều rất quan trọng cũng cần phải được quan tâm, đó chính là sử
dụng, quản lí việc chi quỹ làm sao cho thực sự hiệu quả, để không gây ra những
lãng phí không cần thiết nhưng vẫn đảm bảo được mục tiêu chăm sóc và nâng cao
sức khỏe cho người dân. Chính vì vậy mà quỹ BHYT phải được tính toán, xem xét
một cách cẩn thận tỷ lệ cân đối hàng năm, trung hạn và dài hạn.
Đe đạt được điều đó thì một trong những biện pháp cần phải được thực hiện
chính là phải điều chỉnh chính sách về BHYT sao cho phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của nền kinh tế đất nước. Các cơ quan quản lí Nhà nước phải thực hiện


việc xây dựng và ban hành một chế độ quản lí việc chi tiêu quỹ BHYT một cách
thống nhất để từ đó thì cơ quan BHXH mới có căn cứ tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ chuyên môn của mình một cách chính xác và đầy đủ được. Ngoài ra cũng cần
phải dự báo tốt các khoản chi ra từ qũy để từ đó có kế hoạch tăng nguồn thu hoặc có
những biện pháp nghiệp vụ cân đối thu chi một cách có hiệu quả.
*

Quản lỉ việc đầu tư, tăng trưởng quỹ:

Ngoài những biện pháp nhằm nâng cao số thu, hạn chế việc chi tiêu lãng phí

quỹ BHYT để nhằm ổn định, cân đối quỹ thì một biện pháp cũng rất quan trọng nữa
trong việc giúp gia tăng khoản thu cho quỹ BHYT, góp phần đáng kể việc nâng cao
chất lượng phục vụ của BHYT đó chính là việc đầu tư quỹ. Việc đầu tư này chính là
việc cơ quan sử dụng qũy BHYT đem một số tiền nhất định của quỹ để đầu tư vào
các giấy tờ có gia, các chứng khoán công ty, trái phiếu Chính phủ...tất cả nhằm mụ c
đích là tăng thêm khoản thu cho quỹ BHYT. Việc làm này là rất thiết thực và cần
thiết, điều đó sẽ tạo điều kiện để cơ quan BHXH dễ dàng hơn trong việc tính toán
các khoản chi cho nguời tham gia BHYT và giúp nâng cao chất luợng phục vụ cho
nguời bệnh.


Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực mà đầu tu quỹ đem lại, thì
điều đó cũng chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn, có thể gây ra nguy cơ
mất vốn cho quỹ, từ đó không những không tạo ra đuợc lợi nhuận
cho quỹ mà còn gây ra những bất ổn cho tình hình cân đối quỹ.
Chính vì vậy mà đòi hỏi các cơ quan quản lí quỹ phải có những
biện pháp kiểm soát tốt nguồn vốn mà mình đã bỏ ra, xem xét nên
đầu tu vào những lĩnh vực nào thực sự có hiệu quả nhung nguy cơ
rủi ro ít và nếu có thì phải có những biện pháp thích hợp để nhằm
đối phó tốt với những biến động đó nếu nó có xảy ra.CHƯƠNG 2:
THựC TRẠNG QUẢN LÍ QUỸ BẢO HIỂM Y
TẾ Ở VIỆT NAM
2.1/ Một số nét về quá trình hình thành và phát triển của BHYT trong thời
gian qua:
2.1.1/ Giới thiệu khái quát
Trong thập kỉ 80, trước sự khủng hoảng về tài chính trong khám chữa bệnh,
hàng loạt nước phát triển đã lựa chọn thực hiện chính sách BHYT - một cơ chế đảm
bảo tài chính cho công tác khám chữa bệnh đã được thực hiển ở nhiều nước phát

triển.So với các cơ chế tài chính khác như thu viện phí trực tiếp, BHYT có nhiều ưu
điểm, vừa thể hiện tính cộng đồng xã hội vừa đảm bảo công bằng, hiệu quả trong
khám chữa bệnh.


Ỏ nước ta kể từ sau giải phóng thống nhất đất nước 1975, các cơ sở khám
chữa bệnh phải đối mặt vơí rất nhiều khó khăn, trong đó có khó khăn về tài chính.
Người dân được khám chữa bệnh không phái trả tiền nhưng ngân sách Nhà nước
đẩu tư cho y tế còn rất hạn chế, không đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của
nhân dân. Các cơ sở KCB từ trung ương đến địa phương đều thiếu kinh phí một
cách trầm trọng, cơ sở hạ tầng xuống cấp, đới sống của cán bộ nhân viên y tế gặp
nhiều khó khăn đã có ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh thần và chẩt lượng KCB
của các cơ sở khám chữa bệnh trong cả nước.
Trước tình hình đó thực hiện chủ trương đổi mới trong lĩnh vực y tế với
phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm” theo tinh thần nghị quyết của đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ( tháng 12/1986), Nhà nước đã cho phép các cơ sở
khám chữa bệnh thu một phần viện phí(Quyết định số 45/HĐBT ngày 24/4/1989)
nhằm huy động sự đóng góp của một bộ phận người dân có khả năng chi trả, hạn
chế sự bao cấp tràn lan của Nhà nước để tập trung cho những đối tượng ưu đãi xã
hội, người nghèo. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, chính sách thu viện
phí đã bộc lộ nhiều vấn đề mang tính xã hội, nhân đạo,tác động đến khả năng tiếp
cận dịch vụ y tế và gánh nặng về chi phí trong khám chữa bện của người dân, nhất
là với những người có thu nhập thấp, những người nghỉ hưu, mất sức lao động, trẻ
em.
Để giải quyết những bất cập của việc thu viện phí trực tiếp, chính sách BHYT
đã được Bộ Y Tế nghiên cứu và tổ chức thực hiện thí điểm từ cuối năm 1989 ở một
số tỉnh thành phố với các hình thức và tên gọi khác nhau như Quỹ bảo hiểm sức
khoẻ, Quỹ khám chữa bệnh nhân đạo, Quỹ BHYT tự nguyện...sau một thời gian và
từ những kết quả thu được trong thực hiện thí điểm đã cho thấy hướng đi đúng đắn
trong việc lựa chọn chính sách BHYT để huy động nguồn tài chính ổn định. Trên cơ

sở những kết quả đạt được và kinh nghiệm rút ra trong quá trình thí điểm, ngày
15/8/1992 Hội Đồng Bộ Trưởng( nay là Chính phủ) đã ban hành nghị định


299/HĐBT kèm theo điều lệ bảo hiểm y tế, đánh dấu sự ra đời chính thức của chính
sách BHYT ở nước ta.
2.1.2/Giai đoạn hình thành chính sách, xây dựng bộ máy thực hiện chính
sách( năm 1992-T8/1998)
Chính sách BHYT trong giai đoạn này thực hiện theo điều lệ BHYT ban hành
kèm theo nghị định số 299/HĐBT ngày 15/8/1992 và được bổ sung bằng nghị định
số 47/CP ban hành ngày 6/6/1994.
Đối tượng tham gia BHYT bao gồm: cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ
hưu trí, mất sức lao động ở các khu vực hành chính sự nghiệp, người lao động khu
vực sản xuất kinh doanh của Nhà nước và tư nhân nếu có từ 10 lao động trở lên.Các
đối tượng khác tham gia BHYT theo khả năng và nhu cầu trên cơ sở tự nguyện.
Phạm vi quyền lợi: đảm bảo quyền lợi cơ bản trong khám chữa bệnh, cả nội
trú và ngoại trú và không thực hiện cùng chi trả.
Mức đóng đối với đối tuợng tham gia bắt buộc đuợc quy định là 3% mức
luơng và phụ cấp theo luơng, trong đó nguời lao động đóng 1% và nguời sử dụng
lao động đóng 2%.

về

tổ chứa thực hiện BHYT: trong giai đoạn này hệ thống BHYT trục thuộc

Bộ Y tế và đuợc tổ chức theo quy định của thông tu 11/BYT-TT ngày 17/9/1992 của
Bộ Y tế, bao gồm cơ quan BHYT thuộc Bộ Y tế và BHYT tỉnh, thành phố là một bộ
phận trục thuộc sở Y tế. Quỹ BHYT đuợc quản lí theo từng tỉnh, hạch toán độc lập,
không có sự bù đắp, điều tiết, hỗ trợ lẫn nhau( theo mô hình đa quỹ).Cơ quản
BHYT ở trung uơng có trách nhiệm quản lí ,huớng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ với

BHYT các tỉnh và ngành duới sự giám sát của hội đồng BHYT Việt Nam. BHYT
tỉnh, thành phố và ngành chịu sự giám sát của hội đồng quản trị BHYT địa phuơng
hoặc của ngành.
Trong giai đoạn này, mặc dù còn non trẻ, chua có kinh nghiệm, nhiều khó


khăn, vuớng mắc trong tổ chức thực hiện nhung đã đạt đuợc những kết quả nhất
định, số nguời tham gia BHYT ngày càng tăng. Năm 1995, số nguời tham gia
BHYT đạt trên 7,1 triệu nguời, tăng gần gấp đôi năm 1993; năm 1998 đạt trên 9.89
triệu thẻ, tăng gần gấp 3 lần năm 1993.
Một số hạn chế: do hệ thống văn bản pháp luật quy định chua đồng bộ, vừa
làm vừa hoàn thiện nên cả ba bên: nguời tham gia bảo hiểm, cơ quan bảo hiểm và
cơ sở khám chữa bệnh đều có những khó khăn, vuớng mắc. Các vấn đề phổ biến là:
chủ sử dụng lao động tìm cách không mua bảo hiểm cho nguời lao động, nên số
nguời tham gia BHYT còn rất ít; quỹ không tập trung thống nhất mà do các địa
phuơng tự quản lí dẫn đến tình trạng quyền lợi BHYT không thống nhất trên phạm
vi toàn quốc; khi một địa phuơng có nguy cơ mất cân đối thì chưa có cơ chế điều
tiết; các địa phương coi quỹ BHYT là một nguồn ngân sách, nên nguồn ngân sách
kết dư của quỹ BHYT đã được một số địa phương điều tiết để chi cho các khoản
mục chi tiêu khác.
Trong giai đoạn 1993-1998, mặc dù số người tham gia BHYT ngày càng tăng
nhưng vấn đề nóng bỏng của giai đoạn này là tình trạng bội chi quỹ khám chữa
bệnh. Trên thực tế việc quản lí BHYT trên cả nước gặp khó khăn, đặc biệt là vấn đề
không thống nhất giữa các địa phương, các quỹ BHYT trong giải quyết quyền lợi
BHYT. Bên cạnh đó với sự đổi mới điều kiện kinh tế trong những năm 90, đời sống
người dân được cải thiện rõ rệt, hệ thống y tế được cải tạo, nâng cấp, người dân có
điều kiện tiếp cận với dịch vụ y tế tốt hơn, với công nghệ cao hơn, sử dụng thuốc
thế hệ mới, do đó chi phí khám chữa bệnh cũng gia tăng nhanh chóng. Hệ thống
BHYT đứng trước nguy cơ mất cân đối thu chi. Bảo hiểm y tế tự nguyện tuy đã
bước đầu hình thành và phát triển nhưng việc tổ chức thực hiện còn nhiều khó khăn

do thiếu quy định cụ thể.
2.1.3/ Giai đoạn từ tháng 8/1998 đến tháng 6/2005 (từ khi ban hành nghị định


số 58/1998/ NĐ-CP của Chính phủ ngày 13/8/1998)- giai đoạn mở rộng đối
tượng, củng cố bộ máy tổ chức.


Để giải quyết những bất cập trong quá trình thực hiện nghị định số 299, ngày
13/8/1998, Chính phủ đã ban hành nghị định số 58/1998/ NĐ-CP nhằm mở rộng
chính sách BHYT, đa dạng hóa các loại hình bảo hiểm để mở rộng đối tượng tham
gia. Xác định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên liên quan đến tổ chức thực
hiện BHYT; đảm bảo cân đối quỹ, thống nhất quyền lợi giữa các địa phương, các đối
tượng; thống nhất quản lí để việc triển khai được đồng bộ.Các điểm mới quan trọng
được sửa đổi bổ sung trong nghị định 58 so với nghị định 299 là:
-Bộ máy thực hiện BHYT được tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa
phương và trực thuộc bộ Y tế.
-

Qũy BHYT được quản lí tập trung, thống nhất trên phạm vi cả nước và được

hạch toán độc lập với ngân sa chs Nhà nước.
-

Mở rộng đối tượng tham gia BHYT bắt buộc đối với cán bộ xã, phường, thị

trấn hưởng sinh hoạt phí hàng tháng, người làm việc trong các cơ quan dân cử từ
trung ương đến xã phường, các đối tượng là người có công theo pháp lệnh ưu đãi
người hoạt động cách mạng.
-


Quyền lợi được mở rộng hơn, được thanh toán một phần chi phí đối với các

trường hợp khám chữa bệnh theo yêu cầu hoặc tự chọn thầy thuốc.
-

Bảo hiểm y tế tự nguyện đã có khung pháp lí cụ thể hơn đến triển khai thực

hiện( quy định lệ phí thu, chi, phân bổ nguồn quỹ cho các hoạt động khám chữa
bệnh và y tế học đường).
-

Qũy KCB được phân bổ để chi cho chăm sóc sức khỏe ban đầu; đảm bảo

thanh toán cho KCB ngoại trú và chi trả theo dịch vụ đối với nội trú.
-

Qũy quản lí được trích trên tỉ lệ thu ( 8,5%) để chi cho con người, cơ sở vật

chất và các hoạt động quản lí hành chính khác của hệ thống BHYT.
-

Áp dụng quy định” cùng chi trả” 20% chi phí KCB đối với một số đối

tượng( trừ học sinh, người về hưu, người nghèo, người có công với cách mạng) như


một biện pháp kiểm soát, chống lạm dụng quỹ BHYT.
Trong giai đoạn này có sự thay đổi về tổ chức hệ thống: từ 1/3/2003 hệ thống
BHYT được chuyển giao từ Bộ Y tế sang BHXH Việt Nam theo Quyết định số

20/QĐ-TTg ngày 20/1/2002 của Thủ tướng Chính phủ.Với sự sát nhập này quỹ
BHYT trở thành quỹ thành phần của quỹ BHXH đuợc quản lí tập trung, thống nhất
toàn diện theo quy chế quản lí tài chính đối với BHXH Việt Nam.Cơ chế quản lí
BHYT theo mô hình đơn quỹ tập trung, với sự quản lí điều hành của bộ máy vừa
làm BHYT, vừa thu và chi trả luơng huu và các chính sách khác của BHXH nên đã
tạo ra nhiều thay đổi trong chính sách thực hiện BHYT.
2.1.4/ Giai đoạn từ tháng 7/2005 đến nay( kể từ khi ban hành nghị định số
63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 của Chính phủ): giai đoạn mở rộng BHYT cho
các đối tượng xã hội với sự hỗ trợ của Nhà nước.
Sau 7 năm thực hiện, nghị định 58/1998/NĐ-CP đã mang lại những kết quả
đáng khích lệ trên nhiều mặt: đối tượng tham gia nagỳ càng tăng, đến cuối năm 2004
đã bao phủ khoảng 23% dân số theo cả 2 hình thức là BYHT bắt buộc và BHYT tự
nguyện; số thu từ BHYT chiếm khoảng 28-32% tổng chi ngân sách Nhà nước cấp
cho cơ sở KCB, vừa đảm bảo nguồn thu cho cơ sở KCB vừa đảm bảo tính công
bằng trong KCB thông qua cơ chế bảo hiểm trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, bên
cạnh một số kết quả đạt được cùng với sự phát triển kinh tế- xã hội và một số chính
sách mới ban hành liên quan đến hệ thống y tế, cơ sở KCB, nghị định 58 cũng đã
bộc lộ một số bất cập cần phải điều chỉnh, bao gồm:
-

Một số đối tượng thực hiện BHYT bắt buộc nhưng chưa bổ sung vào nhóm

thực hiện BHYT bắt buộc, Đối tượng tham gia BHYT tự nguyện mới chỉ dựng lại ở
học sinh, sinh viên, chưa mở rộng sang các đối tượng khác.
-

Chưa quy định rõ phạm vi, mức độ quyền lợi mà người tham gia BHYT

được hưởng trong khi sự tiến bộ về khoa học và công nghệ trong y học lại phát triển



rất nhanh (chụp cổng hưởng từ, nội soi, các loại vật tư tiêu hao đặc biệt...)
-

Phương thức chi trả 20% chi được thực hiện ở một số đối tượng là những

người có mức đóng góp cao( viên chức,cán bộ, đương chức, người lao động trong
các doanh nghiệp...) nhưng lại ít sử dụng dịch vụ y tế, điều này được cho là không
bình đẳng giữa các nhóm đối tượng.
-

Phương thức thanh toán duy nhất là theo phí dịch vụ, vừa tăng chi phí hành

chính vừa chứa đựng rủi ro cao đối với sự an toàn quỹ của hệ thống BHYT và không
có tác dụng khuyến khích cơ sở KCB và người tham gia bảo hiểm tiết kiệm và nâng
cao hiệu quả chi phí.
-

Qũy BHYT kết dư tương đối lớn ( hơn 2000 tỷ đồng) trong khi quyền lợi của

người bệnh còn có nhiều bất cập( nhiều dịch vụ kĩ thuật cao chưa được thanh toán,
khống chế trần thanh toán trong nội trú...)
-

Trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước về BHYT chưa rõ, chưa đầy đủ sau

khi BHYT sát nhập với BHXH.
Để giải quyến những bất cập trên ngày 16/5/2005 Chính phủ ban hành nghị
định số 63/2005/NĐ-CP kèm theo điều lệ BHYT sửa đổi:
-


Đối tượng tham gia BHYT bắt buộc được mở rộng đến tất cả các đối tượng

có quan hệ lao động có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên, giáo viên trong các cơ
sở bán công, tư thục, đặc biệt là với các đối tượng chính sách xã hội và người nghèo
với sự hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước.
-

Mở rộng đối tượng tham gia BHYT tự nguyện: bên cạnh BHYT học sinh,

BHYT còn triển khai dưới hình thức BHYT hộ gia đình, hội viên hội đoàn thể.
-

Mở rộng quyền lợi thanh toán cho một số dịch vụ như xét nghiệm chẩn đoán

HIV; chi phí vận chuyển cho một số nhóm đối tượng; thanh toán trong trường hợp
khám chữa bệnh tự chọn theo tuyến chuyên môn kĩ thuật phù hợp.
-

Mở rộng cơ sở KCB BHYT, cả công lập và tư nhân; thay đổi cơ chế cùng


chi trả; ngoài cơ chế thanh toán theo phí dịch vụ, bổ sung các phương thức thanh
toán với cơ sở KCB theo phương thức khám định suất hoặc thanh toán theo chẩn
đoán.
-

Toàn bộ phí BHYT được sử dụng để thanh toán chi phí KCB, không trích

chi cho bộ máy; quỹ KCB được điều hòa chung.

-

Bộ Y tế cùng Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ cùng UBND các tỉnh thành phố thực

hiện chức năng quản lí Nhà nước về BHYT; cơ quan thực hiện BHYT là Bảo hiểm
xã hội Việt Nam.
Với các điều chỉnh như trên sau hơn 2 năm thực hiện số đối tượng tham gia
BHYT gia tăng nhanh chóng, cả bắt buộc và tự nguyện.
2.2/ Thực trạng quản lí quỹ BHYT:
2.2.1/ Quản lí nguồn hình thành quỹ BHYT:
* Quản lí phí BHYT
-

Xây dựng mức phí BHYT
Việc quản lí thu của BHYT bao gồm việc quản lí để đối tượng tham gia mức

đóng, trách nhiệm và phương thức đóng BHYT. Đe công tác thu thực sự đạt hiệu
quả thì cần phải có một kế hoạch thu rõ ràng. Để có được một quá trình thu đạt hiệu
quả thi việc quy định mức phí là một điều kiện rất quan trọng.
Mức đóng BHYT bắt buộc về cơ bản không thay đổi trong những năm qua với
mức quy định là 3% tiền lương và phụ cấp, như vậy mức đóng BHYT tăng tuyệt đối
là nhờ điều chỉnh tiền lương. Hiện nay mức đóng BHYT ở cả 2 khu vực BHYT bắt
buộc và tự nguyện có sự chênh lệch lớn và chưa đáp ứng được so với nhu cầu chi
phí thực tế.Mặc dù số đối tượng tham gia BHYT tăng nhưng mức đóng bình quân
không tăng vì số đối tượng mới tham gia chủ yếu là người nghèo đóng phí thấp
( 60000/người/năm 2006 và 80000/người/2007), chỉ bằng 1/5 mức đóng bình quân


×