Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Thủ tục rút gọn theo Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1023.58 KB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ YẾN

THỦ TỤC RÚT GỌN THEO
BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ YẾN

THỦ TỤC RÚT GỌN
THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
NĂM 2015

Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trịnh Quốc Toản

HÀ NỘI - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết luận nêu trong Luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa luật Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Yến


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 9
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .................................................................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết quy định thủ tục rút gọn trong
tố tụng hình sự .......................................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự ............................. 8
1.1.2. Đặc điểm thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự ............................ 12
1.1.3. Sự cần thiết quy định thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự .......... 14

1.2. Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự với các nguyên tắc của luật
tố tụng hình sự ........................................................................................ 17
1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình
sự........................................................................................................... 17
1.2.2. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân ............................................................................ 19
1.2.3. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án ......................................... 21
1.2.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự ..................................... 22
1.3. Thủ tục rút gọn trong quá trình phát triển của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam .................................................................................... 23
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1974 .......................................... 24
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1974 đến năm 1988 .......................................... 26


1.3.3. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự 2003
có hiệu lực ............................................................................................. 29
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2015 .......................................... 31
1.4. Thủ tục rút gọn trong luật tố tụng hình sự một số nước trên thế
giới ........................................................................................................... 33
1.4.1. Hệ thống pháp luật Civil Law – nước Cộng hòa liên bang Đức.... 33
1.4.2. Hệ thống pháp luật Common Law – nước Hợp chủng quốc Hoa Kì .. 35
1.4.3. Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa – nước Cộng hòa Liên bang
Nga ........................................................................................................ 37
1.4.4. Cộng Hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa ...................................... 39
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................... 41
CHƯƠNG 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG BỘ
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 ................................................... 42
2.1. Phạm vi, điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn ................................... 42
2.1.1. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn................................................... 42

2.1.2. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn ................................................ 45
2.2. Quyết định áp dụng, hủy quyết định áp dụng thủ tục rút gọn ...... 55
2.2.1. Thẩm quyền áp dụng thủ tục rút gọn ............................................ 55
2.2.2. Huỷ bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn .................................. 58
2.2.3. Giao nhận quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và giải quyết kiến
nghị, khiếu nại việc đối quyết định áp dụng thủ tục rút gọn ................... 60
2.3. Thời hạn và thủ tục tố tụng theo thủ tục rút gọn ........................... 61
2.3.1. Thời hạn điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục rút gọn .................. 61
2.3.2. Thủ tục điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn ....... 65
2.4. Áp dụng biện pháp ngăn chặn trong thủ tục rút gọn ..................... 74
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................... 77


CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG THỦ TỤC RÚT GỌN - MỘT SỐ
GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG BỘ
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ BẢO ĐẢM THI HÀNH ...........78
3.1. Thực tiễn áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn...................................... 78
3.1.1. Thực trạng áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn .................................. 78
3.1.1.1. Những kết quả đạt được......................................................... 78
3.1.1.2. Một số hạn chế, tồn tại .......................................................... 81
3.1.2. Nguyên nhân của thực trạng......................................................... 84
3.1.2.1. Nguyên nhân khách quan ....................................................... 84
3.1.2.2. Nguyên nhân chủ quan .......................................................... 87
3.2. Một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện quy định về thủ tục rút gọn
trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và bảo đảm thi hành ............ 89
3.2.1. Hoàn thiện quy định về thủ tục rút gọn trong Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015 .......................................................................................... 89
3.2.2. Một số giải pháp khác nhằm bảo đảm thi hành quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục rút gọn ....................................... 102
KẾT LUẬN ............................................................................................... 107

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 108


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1. BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

2. TTRG

: Thủ tục rút gọn


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Trang
Bảng 2.1: Thống kê thời hạn tố tụng theo thủ tục rút gọn ............................ 64
Bảng 3.1: Tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự trong 05 năm (từ năm 2014
đến năm 2018).............................................................................................. 79

(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của Viện kiểm sát nhân dân dân tối cao,
các năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018)


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ vụ án áp dụng thủ tục rút gọn trên tổng số vụ
án khởi tố trong 05 năm (từ năm 2014 đến năm 2018) …………


83

(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của Viện kiểm sát nhân dân dân tối cao,
các năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018)


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài
Thủ tục rút gọn (sau đây gọi tắt là TTRG) là một thủ tục tố tụng đặc
biệt trong tố tụng hình sự có sự rút ngắn về thời gian, giản lược về thủ tục, áp
dụng đối với những vụ án hình sự đủ điều kiện nhằm giải quyết vụ án nhanh
chóng, kịp thời, nhưng vẫn đảm bảo đúng đắn, tuân thủ các nguyên tắc cơ bản
của tố tụng hình sự, quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố
tụng theo quy định của pháp luật; tiết kiệm thời gian, công sức, chi phí tài
chính của ngân sách nhà nước, mang lại hiệu quả cho việc điều tra, truy tố,
xét xử một số loại tội phạm, đáp ứng các yêu cầu cải cách tư pháp, đáp ứng
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân; đồng thời, tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng có thời gian và
lực lượng tập trung nghiên cứu, đưa ra quan điểm giải quyết vụ án tốt hơn đối
với những vụ án hình sự có tính chất và mức độ nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng và đặc biệt nghiêm trọng liên quan đến các nhóm tội có khách thể quan
trọng được bộ luật hình sự bảo vệ.
Nhận thức rõ được vai trò của TTRG trong giải quyết án hình sự, Nghị
quyết số 08/ NQ – TW của Bộ chính trị ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã nêu rõ: “Nghiên cứu để quy
định và thực hiện thủ tục tố tụng rút gọn đối với những vụ án đơn giản, phạm
tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng…”. Là một chế định
có lịch sử phát triển từ năm 1946, đến năm 1974 cho đến Bộ luật Tố tụng hình
sự (sau đây gọi tắt là BLTTHS) năm 2003, TTRG đã góp phần thiết thực vào
cuộc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải

quvết nhanh chóng một số lượng lớn các vụ án, hạn chế lượng án tồn đọng
hàng năm. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thi hành, BLTTHS năm 2003 đã bộc lộ
vướng mắc, bất cập khi áp dụng TTRG. Ngày 27/11/2015, Quốc hội Khóa

1


XIII đã thông qua BLTTHS năm 2015, xây dựng một chương mới (chương
XXXI) gồm 11 điều, từ Điều 455 đến Điều 465 quy định về TTRG, đánh dấu
bước phát triển mới của tố tụng hình sự Việt Nam.
Bên cạnh những mặt tích cực, TTRG vẫn bộc lộ những vướng mắc,
bất cập dẫn đến việc khó áp dụng trên thực tế, như: TTRG trong BLTTHS
năm 2015 vẫn dừng lại chủ yếu rút gọn về mặt thời gian, chưa thực sự rút gọn
về thủ tục, mặt khác, quy định pháp luật còn một số điểm chưa rõ ràng, nhận
thức pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chưa
thống nhất, còn có tâm lý né tránh, ngại áp dụng vì thủ tục ngắn, dễ dẫn đến
oai, sai, bỏ lọt tội phạm hoặc vi phạm nghiêm trọng tố tụng, ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền, lợi ích của người tham gia tố tụng, việc tổ chức thực hiện chế
định của pháp luật về TTRG còn một số điểm bất cập… Nghiên cứu thực
trạng áp dụng TTRG trong những năm qua cho thấy tỷ lệ áp dụng TTRG để
giải quyết vụ án hình sự chiếm tỷ lệ rất ít trong tổng số các vụ án hình sự.
Luật thực định dường như chưa chú trọng quy định này, còn mang tính chất
chung chung, không rõ ràng, bỏ ngỏ và nhiều mâu thuẫn. Do vậy, thủ tục này
cần phải được tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ, hoàn thiện hơn nữa, từ đó
đưa ra các kiến nghị hoàn thiện để đưa thủ tục này dễ dàng áp dụng vào thực
tế, mang lại hiệu quả cao trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm ở
Việt Nam.
Với những lý do trên, học viên lựa chọn vấn đề: “Thủ tục rút gọn
theo Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015” làm đề tài luận văn thạc
sỹ luật học với mong muốn đưa ra một cái nhìn cơ bản và toàn diện về TTRG

trong tố tụng hình sự Việt Nam, thực trạng áp dụng trong những năm qua trên
phạm vi cả nước, phân tích những hạn chế, tồn tại và đưa ra một số góp ý, đề
xuất hoàn thiện chế định TTRG trong BLTTHS năm 2015.
2. Tình hình nghiên cứu

2


Cho đến thời điểm hiện tại, có thể chia các công trình nghiên cứu về
TTRG trong tố tụng hình sự thành ba nhóm lớn sau:
Nhóm luận án, luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học: trong nhóm các
công trình nghiên cứu này phải kể đến Luận án Tiến sĩ Luật học “Hoàn thiện
thủ tục rút gọn trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận
và thực tiễn”, Hà Nội, 2011, của Nguyễn Văn Quảng; Luận văn thạc sỹ Luật
học “Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng hình sự - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn”, Hà Nội, 2001 của Nguyễn Minh Quang; Luận văn thạc sỹ Luật học
“Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Hà Nội, 2004 của Nguyễn
Văn Hiển; Trường Đại học Luật Hà Nội “Thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình
sự” đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường năm 2008... Các công trình nghiên
cứu này đã đề cập các vấn đề cơ bản của TTRG, từ góc độ lý luận và thực tiễn
đã cho thấy sự cần thiết phải xây dựng, hoàn thiện chế định TTRG trong pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này
mới chỉ dừng lại phân tích đánh giá dựa trên các quy định của BLTTHS năm
2003 về TTRG, những vấn đề thực tiễn tồn tại phát sinh chỉ dừng lại đến năm
2014.
Nhóm giáo trình, sách bình luận chuyên khảo về vấn đề này gồm có
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đại học kiểm sát Hà Nội, NXB
Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2016; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2011; Bình luận
khoa học Bộ luật hình sự năm 2003, PGS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), Nhà

xuất bản Công an nhân dân, 2004, cuốn sách “ Thủ tục rút gọn trong pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam”, NXB Tư pháp, Hà Nội 2004 của tác giả
Nguyễn Văn Hiển. Các công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, bình
luận các quy định của BLTTHS năm 2003 về TTRG và cũng chưa đề cập đến
thực tiễn áp dụng các quy định này.

3


Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật: trong nhóm này có thể kể
đến các bài viết như: “Thủ tục rút gọn trong Bộ luật Tố tụng hình sự” của TS.
Khuất Văn Nga và ThS. Trần Đại Thắng (Tạp chí Kiểm sát số 7/2004); “Thủ
tục rút gọn” của tác giả Đỗ Văn Chỉnh (Tạp chí Toà án nhân dân, số 11 tháng
6/2004); “Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự từ sự quy định của pháp luật
tới thực tiễn áp dụng” của PGS.TS Phạm Hồng Hải (Tạp chí Kiểm sát số
4/2006); “Về thủ tục rút gọn và những bất cập trong thực tiễn điều tra, truy
tố, xét xử” của tác giả Lê Quốc Thể (Tạp chí Tòa án nhân dân số 13 tháng
7/2007); “Bàn về phạm vi, điều kiện và thẩm quyền áp dụng thủ tục rút gọn
theo quy định Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003” của ThS. Nguyễn Văn
Quảng (Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5/2008); “Giải quyết án hình sự
theo thủ tục rút gọn - Thực trạng và những kiến nghị đề xuất” của tác giả
Nguyễn Văn Quảng (Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7/2008); “Hoàn thiện
thủ tục rút gọn đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của TS. Nguyễn Đức Mai
(Tạp chí Tòa án nhân dân số 15 tháng 8/2008), “Hoàn thiện các quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự về thủ tục rút gọn đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”
của ThS. Nguyễn Văn Quảng (Tạp chí Kiểm sát số 18&20 tháng 9&10
/2008); “Một số ý kiến về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự” của tác giả
Trần Quốc Văn (Tạp chí Kiểm sát số 13 tháng 7/2009); “Những vướng mắc
khi áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự và một số kiến nghị” của TS.
Phạm Minh Tuyên (Tạp chí Tòa án nhân dân số 1 tháng 1/2011)…

Các bài viết kể trên đã đề cập đến các vấn đề cơ bản của TTRG trong tố
tụng hình sự, một số ít bài viết đề cập đến thực tiễn áp dụng cũng như những
bất cập, vướng mắc khi giải quyết án hình sự theo thủ tục này, mặc dù cũng
chỉ mới dừng lại ở phạm vi một số địa phương hoặc đối với một ngành tư
pháp. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu về BLTTHS năm 2015.
3. Mục tiêu nghiên cứu

4


3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục đích nghiên cứu của đề tài là thông qua việc nghiên cứu một số vấn
đề về TTRG trong tố tụng hình sự, thực tiễn áp dụng TTRG trên phạm vi cả
nước để tìm ra những bất cập trong quy định về TTRG của BLTTHS năm
2015. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của
BLTTHS năm 2015. Đồng thời, đề ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng thủ tục này.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về TTRG như: khái niệm, ý nghĩa.
- Nghiên cứu và đánh giá các quy định của BLTTHS năm 2015 về
TTRG và của một số nước trên thế giới;
- Đánh giá thực trạng áp dụng TTRG trên phạm vi cả nước; xác định
nguyên nhân của thực trạng đó đồng thời đưa ra một số giải pháp hoàn thiện
quy định BLTTHS năm 2015 về TTRG.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài gồm:
- Một số vấn đề chung về TTRG trong tố tụng hình sự.
- Các quy định về TTRG theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và một
số nước trên thế giới.

- Thực tiễn áp dụng TTRG trong tố tụng hình sự Việt Nam.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Với những đối tượng nghiên cứu nêu trên, phạm vi nghiên cứu đề tài
được xác định như sau:
- Các quy định về TTRG trong BLTTHS năm 2015 của Việt Nam và một
số nước trên thế giới.
- Thực tiễn thi hành quy định của BLTTHS năm 2003 và 2015 về TTRG

5


trên phạm vi cả nước từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận, quan điểm duy vật
lịch sử, duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Đảng
và Nhà nước về cải cách tư pháp.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: phương pháp
phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê để làm sáng tỏ những vấn đề cần
nghiên cứu.
6. Những đóng góp của đề tài
- Đề tài làm sáng tỏ những dấu hiệu đặc trưng của TTRG trong tố tụng
hình sự, xây dựng khái niệm, nêu lên mục đích, ý nghĩa của TTRG góp phần
thống nhất nhận thức về vấn đề này.
- Đề tài phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành
về TTRG, thực tiễn áp dụng TTRG trong thời gian qua, đưa ra những nhận
xét, đánh giá, xác định những bất cập trong các quy định của pháp luật về
TTRG cần được hoàn thiện, những vướng mắc trong việc áp dụng TTRG cần
được giải quyết.
- Đề tài đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện quy định của
BLTTHS năm 2015 về TTRG và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp

dụng thủ tục này trong thực tiễn.
- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác đào tạo,
nghiên cứu khoa học và áp dụng trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
Chương 2: Các quy định về thủ tục rút gọn trong Bộ luật Tố tụng hình

6


sự năm 2015
Chương 3: Thực tiễn áp dụng thủ tục rút gọn và một số giải pháp tiếp
tục hoàn thiện, bảo đảm thi hành các quy định về thủ tục rút gọn trong
BLTTHS năm 2015.

7


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết quy định thủ tục rút gọn
trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
Theo Từ điển Luật học định nghĩa thủ tục tố tụng là “cách thức trình tự
và nghi thức tiến hành xem xét một vụ việc hoặc giải quyết một vụ án đã được
thụ lý hoặc khởi tố theo quy định của pháp luật”.

Quan điểm khác cũng cho rằng: “Thủ tục tố tụng hình sự là trình tự,
điều kiện, các bảo đảm chung, thống nhất và có tính bắt buộc phải tuân thủ
theo luật định đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự cũng như đối với
từng giai đoạn tố tụng, từng hành vi tố tụng cụ thể, đối với các quyết định tố
tụng và đối với việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể tố
tụng, nhằm phát hiện và giải quyết chính xác, nhanh chóng xử lý công minh,
kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người
vô tội.” [24] tr.23,24.
Như vậy, thủ tục tố tụng hình sự được hiểu là cách thức, trình tự, thủ
tục được áp dụng do cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện theo quy định
của pháp luật để phát hiện và xử lý tội phạm nhằm giải quyết vụ án khách
quan, kịp thời, chính xác, công minh, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội.
Quá trình giải quyết các vụ án hình sự trải qua các giai đoạn sau: khởi
tố vụ án hình sự; điều tra vụ án hình sự; truy tố; xét xử vụ án hình sự (sơ
thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm tùy theo các vụ án cụ thể). Các giai
đoạn tố tụng này có tính độc lập tương đối nhưng giữa chúng luôn có quan hệ

8


khăng khít và chặt chẽ với nhau. Giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn sau
và kết quả của giai đoạn sau là sự kiểm chứng tính đúng đắn, khách quan của
giai đoạn trước. Trên thực tế, có nhiều vụ án hình sự tính chất đơn giản, rõ
ràng, việc điều tra, thu thập chứng cứ dễ dàng, nhanh chóng không mất nhiều
công sức, thời gian. Nếu những vụ án đó được tiến hành theo thủ tục thông
thường thì sẽ dẫn đến sự lãng phí thời gian, tiền của, công sức của cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng và các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan khi tham gia
giải quyết vụ án hình sự. Đồng thời không đáp ứng kịp thời yêu cầu của công

cuộc đấu tranh và phòng chống tội phạm. Từ đó, đòi hỏi phải có một thủ tục
tố tụng vừa nhanh gọn, vừa đảm bảo được yêu cầu về xử lý tội phạm, góp
phần thiết thực vào cuộc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm nói chung. Đây là
cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể
giải quyết nhanh chóng các vụ án ít nghiêm trọng, phạm tội quả tang, đơn
giản, chứng cứ và nhân thân người phạm tội rõ ràng, giúp cơ quan tiến hành
tố tụng có thể tập trung lực lượng, thời gian để giải quyết các vụ án có nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự có nhiều tên gọi khác nhau có thể
thủ tục rút ngắn, thủ tục giản lược, thủ tục đơn giản… Tùy mỗi quốc gia có
tên gọi khác nhau nhưng bản chất của thủ tục này là một hình thức tố tụng đặc
biệt được rút ngắn về thời gian tố tụng, giản lược các thủ tục tố tụng so với
các thủ tục tố tụng thông thường để giải quyết vụ án được nhanh chóng và kịp
thời những vẫn đảm bảo được sự tuân thủ các nguyên tắc tố tụng hình sự bên
cạnh đó còn mang lại những hiệu quả cao trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự. Trong khoa học tố tụng hình sự, TTRG được đề cập đến trong nhiều
công trình nghiên cứu khoa học với nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau:

9


Quan điểm thứ nhất: “Thủ tục rút gọn là thủ tục tố tụng được tiến hành
trên cơ sở vẫn tuân theo những nguyên tắc cơ bản và các giai đoạn của tố
tụng hình sự nhưng một số thủ tục được giản lược và thời hạn của các giai
đoạn tố tụng được rút ngắn để việc điều tra, truy tố, xét xử được nhanh
chóng, kịp thời đối với các loại vụ án đơn giản, rõ ràng, đảm bảo cho cuộc
đấu tranh chống tội phạm được kịp thời và sắc bén, góp phần bảo đảm các
quyền tự do dân chủ của công dân khi tham gia các quan hệ pháp luật tố tụng
hình sự” [22] tr.13.
Quan điểm thứ hai: “Thủ tục rút gọn là thủ tục tố tụng hình sự được rút

ngắn về thời gian tố tụng, giản lược một số thủ tục nhất định nhưng vẫn đảm
bảo những nguyên tắc chung của tố tụng hình sự, nhằm giúp việc điều tra,
truy tố, xét xử được nhanh chóng đối với những vụ án nhất định (thường là
những vụ án có tính chất đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ lai lịch của
người phạm tội rõ ràng, góp phần đấu tranh, phòng chống tội phạm kịp thời,
có hiệu quả, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong tố
tụng hình sự” [14]. Tr 38, 42, 65.
Các quan điểm trên đây nêu rõ bản chất của TTRG, là rút ngắn thời hạn
tố tụng, giản lược thủ tục tố tụng. Quan điểm thứ hai còn nhắc đến việc áp
dụng TTRG cần phải đáp ứng các nguyên tắc chung của tố tụng hình sự, như
vậy là cần biết, bởi lẽ pháp luật tố tụng hình sự không quy định riêng nguyên
tắc áp dụng cho TTRG. Hơn nữa, với việc rút ngắn thời hạn, giản lược thủ tục
như đã nêu thì cần phải nhấn mạnh việc tuân thủ các nguyên tắc của tố tụng
hình sự khi giải quyết vụ án rút gọn. Tuy nhiên, quan điểm chưa nêu được các
điều kiện áp dụng TTRG. Hầu hết pháp luật tố tụng hình sự các nước trên thế
giới, TTRG chỉ được áp dụng đối với các vụ án rõ ràng, có chứng cứ đầy đủ,
bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình (Trung Quốc, Anh, Pháp, Đức)
và có sự đồng ý của bị cáo (Trung Quốc, Nhật Bản).

10


Quan điểm thứ ba: “Thủ tục rút gọn là một trình tự tố tụng đặc biệt
được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự do cơ quan có thẩm quyền quyết
định áp dụng đối với những vụ án khi có đủ các điều kiện nhất định; là thủ
tục tố tụng rút ngắn về thời gian, giản lược về trình tự nhằm giải quyết vụ án
hình sự một cách nhanh chóng và có hiệu quả, nhưng vẫn bảo đảm được các
nguyên tắc của tố tụng hình sự và quyền lợi hợp pháp của bị can, bị cáo và
người tham gia tố tụng.”[23] tr. 14,15.
Tương tự như quan điểm thứ nhất, quan điểm này đã đưa ra định nghĩa

thể hiện được bản chất của TTRG, là rút ngắn thời hạn, giản lược thủ tục tố
tụng, nhưng lại chưa nêu rõ các điều kiện nào khi áp dụng TTRG. Mặt khác,
định nghĩa đã quá tập trung đến mục đích, nhiệm vụ khi giải quyết vụ án hình
sự.
Như vậy, mặc dù còn tồn tại một số vấn đề khác nhau trong từng quan
điểm, tuy nhiên chúng ta có thể thấy một số đặc điểm của TTRG như sau:
(i) TTRG là một thủ tục đặc biệt, được quy định trong BLTTHS, do cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định áp dụng; (ii) TTRG chỉ được áp
dụng khi đáp ứng được đầy đủ các điều kiện luật định; (iii) Khi áp dụng
TTRG phải tuân thủ theo những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS; (iv) TTRG
thực chất là rút gọn thủ tục tố tụng và rút ngắn thời hạn tố tụng. Về vấn đề
này, chúng tôi cho rằng để đưa ra khái niệm chính xác cần phải tiếp cận dưới
02 góc độ: (i) những đặc điểm cơ bản của TTRG và (ii) quy định về TTRG
trong quy định của BLTTHS năm 2015.
Từ những quan điểm và phân tích trên, chúng tôi đưa ra một khái niệm
về TTRG như sau:
Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự là một thủ tục tố tụng đặc biệt, được
rút ngắn về thời hạn, thu gọn về thủ tục tố tụng, do cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng áp dụng đối với vụ án hình sự khi có những điều kiện nhất định

11


theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án một cách
nhanh chóng, nhưng vẫn đảm bảo chặt chẽ các nguyên tắc cơ bản của tố tụng
hình sự và quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng.
1.1.2. Đặc điểm thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
Dưới góc độ là một thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự, TTRG có
những đặc điểm cơ bản sau:
+ Rút ngắn về thời hạn tố tụng

Trong thủ tục tố tụng hình sự rút gọn, thời gian để tiến hành tố tụng
được rút gắn đi rất nhiều lần so với thủ tục tố tụng thông thường. Nếu như
trong thủ tục tố tụng hình sự thông thường thì nhà làm luật quy định một
khoảng thời hạn tối đa cho mỗi giai đoạn tố tụng hình sự nhằm đảm bảo việc
giải quyết vụ án được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nhưng đối với
các vụ án hình sự được tiến hành theo TTRG, thời gian tiến hành tố tụng được
quy định ngắn hơn, yêu cầu giải quyết vụ án đối với cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng phải xử lý vụ án nhanh chóng, hạn chế sự lãng
phí về thời gian, tiền bạc, công sức của các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
+ Giản lược về thủ tục tố tụng
Bản chất của TTRG là việc giảm bớt một số thủ tục không cần thiết, rút
ngắn về thời gian và chỉ áp dụng đối với một số vụ án nhất định. Sự giản lược
về mặt thủ tục được thể hiện như: Sau khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra
ra quyết định đề nghị truy tố mà không cần làm bản kết luận điều tra. Quyết
định đề nghị truy tố ghi tóm tắt hành vi phạm tội, thủ đoạn, động cơ, mục đích
phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; việc thu giữ, tạm
giữ tài liệu, đồ vật và xử lý vật chứng; đặc điểm nhân thân của bị can, những
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; lý do và căn cứ đề nghị truy

12


tố; tội danh, điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng; ghi rõ thời
gian, địa điểm, họ tên và chữ ký của người ra quyết định. Viện kiểm sát
không cần phải làm bản cáo trạng, chỉ cần ra quyết định truy tố bị can trước
toà án.
+ Nguyên tắc cơ bản cần tuân thủ khi áp dụng thủ tục rút gọn
Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng như pháp luật tố tụng hình

sự trên thế giới thì thủ tục tố tụng cho dù thủ tục đặc biệt hay thủ tục thông
thường đều không được trái với các nguyên tắc chung của tố tụng hình sự.
Vì vậy, việc áp dụng TTRG vẫn phải đảm bảo tôn trọng các nguyên tắc cơ
bản của luật tố tụng hình sự như: nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa;
nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân; Suy đoán vô
tội; Xác định sự thật của vụ án, Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc
tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự; nguyên tắc xét
xử công khai; nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia.
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên
tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số… Sở dĩ việc quy định TTRG phải
tuân thủ các nguyên tắc cơ bản như thủ tục thông thường hay các các hình
thức tố tụng khác vì nếu chúng ta quá chú trọng đến việc bảo đảm giải quyết
vụ án nhanh chóng, tiết kiệm, thuận lợi thì sẽ dẫn đến sự vi phạm quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, không bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật,
vi phạm các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Ngược lại, nếu quá coi
trọng đến việc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật mà
không giản lược các thủ tục, trình tự không cần thiết thì việc quy định và áp
dụng TTRG trong tố tụng hình sự sẽ không những không mang lại hiệu quả
mà còn làm phức tạp, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng,
những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, việc áp dụng
TTRG sẽ không đem lại hiệu quả cao [11, tr. 34-35].

13


+ Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
Bản chất của TTRG là rút ngắn gọn thủ tục, thời hạn, nên chỉ được áp
dụng TTRG đối với những vụ án hình sự có tính chất đơn giản, nhân thân của
người phạm tội rõ ràng, tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng... là
những điều kiện đảm bảo được nếu khi rút gọn thời hạn, thủ tục tố tụng thì vụ án

vẫn được giải quyết đúng đắn theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, đảm
bảo quyền, lợi ích của người tham gia tố tụng. Ngoài ra, vụ án hình sự được áp
dụng còn phải đảm bảo điều kiện, nếu vụ án đó bị kháng cáo, kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm, thì ở khía cạnh nào đó, chúng ta vẫn có thể áp dụng TTRG,
để đảm bảo vụ án được giải quyết nhanh gọn từ giai đoạn sơ thẩm.
1.1.3. Sự cần thiết quy định thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự nói riêng hay thủ tục giản lược
nói chung được hình thành trên cơ sở đơn giản hóa thủ tục thông thường
nhằm giải quyết đối với những trường hợp vi phạm pháp luật dân sự, hành
chính đối với những vụ việc tranh chấp không lớn, đơn giản tới vi phạm pháp
luật hình sự ít nghiêm trọng, chứng cứ rõ ràng, mức hình phạt thấp, người bị
buộc tội có lý lịch rõ ràng… Việc áp dụng TTRG góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án giải
quyết nhanh chóng vi phạm phát sinh trong xã hội mà vẫn bảo đảm quyền, lợi
ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức; làm giảm nhẹ đáng kể thời gian, vật chất,
công sức cho chính những người tham gia tố tụng.
Xem xét việc xây dựng TTRG trong tố tụng hình sự hiện nay còn cần
phải đặt trong mối quan hệ với tinh thần cải cách tư pháp trong việc tổ chức
và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam. Theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới và Nghị quyết 49- NQ/TW ngày 02/06/2005 về Chiến lược cải cách

14


tư pháp đến năm 2020 định hướng tiếp tục cụ thể hóa và thực hiện những chủ
trương về cải cách, tổ chức và đổi mới hoạt động của các cơ quan tư pháp, cụ
thể như sau:
Trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp,

trọng tâm là hoàn thiện tổ chức Tòa án nhân dân. Theo Hiến pháp 2013 quy
định tại điều 102 “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”, như vậy quyền tư pháp
được xác định giao cho Tòa án nhân dân. Tòa án nhân dân là trung tâm trong
hoạt động tố tụng, ảnh hưởng tới việc hình thành và tổ chức các cơ quan tố
tụng, ảnh hưởng đến việc xây dựng các chế định tố tụng, trong đó chế định
TTRG trong tố tụng hình sự với những điều kiện nhất định là phù hợp với
việc mở rộng thẩm quyền của Tòa án nhân cấp huyện theo tinh thần Nghị
quyết. Bởi lẽ, việc mở rộng thẩm quyền của Tòa án cấp huyện thì số lượng vụ
án sẽ tăng lên đáng kể, công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sẽ chiếm một
khối lượng lớn công việc, yêu cầu đặt ra cần hoàn thiện TTRG để áp dụng
vào thực tiễn là công việc hết sức cần thiết để các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng nhanh chóng, kịp thời giải quyết các vụ án, từ đó làm giảm tải
tình trạng án tồn đọng, kéo dài từ năm này qua năm khác.
Mặt khác, chúng ta thấy TTRG trong tố tụng hình sự không phải là một
thủ tục mới, mà đã từng xuất hiện trong pháp luật Việt Nam và một số nước
trên thế giới. Vì vậy, việc xây dựng, hoàn thiện TTRG trong tố tụng hình sự là
đảm bảo phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu quốc tế, mặt
khác có thể học hỏi kinh nghiệm trong những quy định trước đây của Việt
Nam và một số nước khác để hoàn thiện thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
hiện nay.
Trong những năm qua, tình trạng án tồn dọng, kéo dài vẫn diễn ra rất
phổ biến. Mặc dù những vụ án đó là tình tiết đơn giản, hành vi phạm tội ít

15


nghiêm trọng, lý lịch bị can rõ ràng… Tuy nhiên, với tâm lý của người tiến
hành tố tụng là sẽ giải quyết vụ án đúng thời hạn cho phép, chứ không cần
thiết phải giải quyết nhanh. Dẫn đến tình trạng, các vụ án có thể kéo dài qua

các năm.
Từ đó cho thấy, TTRG có ý nghĩa sâu sắc trong tình hình hiện nay. Thủ
tục này là cơ sở pháp lí để các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giải
quyết nhanh chóng, kịp thời nhiều vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng, có tính
chất quả tang, đơn giản, rõ ràng; tiết kiệm được thời gian, tiền bạc, công sức
trong việc giải quyết những vụ án loại này, tập trung vào việc giải quyết
những vụ án nghiêm trọng, đáp ứng yêu cầu kịp thời, nhanh chóng của cuộc
đấu tranh phòng chống tội phạm; góp phần giải quyết tình trạng tồn đọng án
và vi phạm các quy định của BLTTHS về thời hạn. Việc giải quyết vụ án theo
TTRG tạo điều kiện để nhanh chóng khắc phục những thiệt hại do hành vi
phạm tội gây ra, góp phần đảm bảo lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức và công dân; tiết kiệm được thời gian, chi phí cho những
người tham gia tố tụng, giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống và tham gia
vào các quan hệ pháp luật khác. Đồng thời, nó giúp cho cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng có thời gian xử lý các vụ án khác phức tạp hơn,
cần nhiều thời gian để giải quyết, qua đó, được góp phần giải quyết tình trạng
tồn đọng án và vi phạm các quy định của BLTTHS về thời hạn có xu hướng
gia tăng; khắc phục tình trạng quá tải trong các trại tạm giam và những khó
khăn trong tổ chức tạm giữ, tạm giam và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng
chống tội phạm trong quần chúng nhân dân.
Ngoài ra, giải quyết vụ án theo TTRG còn tạo điều kiện để khắc phục
những thiệt hại do hành v làm việc góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, thực tế hiện nay là trại
tạm giam, nhà tạm giữ của Cơ quan điều tra, trụ sở làm việc của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Toà án ở một số địa phương còn chưa đảm bảo được điều
kiện làm việc tối thiểu, thậm chí còn phải đi thuê, phương tiện, thiết bị kỹ
thuật tiên tiến hiện đại thì thiếu thậm chí không có. Thực trạng này được phản
ánh rõ tại Nghị quyết 48 – NQ/TW: Cơ sở vật chất và điều kiện làm việc của
các cơ quan tư pháp nhất là ở cấp huyện nhiều nơi còn chật chội, phương tiện
làm việc vừa thiếu vừa lạc hậu…đến nay vẫn còn nhiều đơn vị chưa được xây

dựng trụ sở, nơi làm việc… làm ảnh hưởng lớn đến hiệu suất công việc,
phương tiện làm việc còn chậm được cải tiến đổi mới”.
3.1.2.2. Nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan, một số nguyên nhân chủ
quan dưới đây cũng là một phần yếu tố làm ảnh hưởng đến chất lượng việc áp
dụng TTRG trong việc giải quyết các vụ án hình sự, cụ thể như:
Thứ nhất, cơ quan tiến hành tố tụng không muốn áp dụng TTRG vì e
ngại sảy ra oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Dưới áp lực của khối lượng công việc để giải quyết vụ án hình sự ngày
càng lớn kèm theo áp lực bởi thời hạn tố tụng được quy định trong BLTTHS
dẫn đến người tiến hành tố tụng phải chịu rất nhiều áp lực khi thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình. Chính yếu tố thời hạn tố tụng gây rất nhiều áp lực
đối với người tiến hành tố tụng khi giải quyết bất cứ vụ án hình sự nào. Trong
khoảng thời hạn tố tụng được quy định tại Điều 172 BLTTHS năm 2015,
những người tiến hành tiến hành tố tụng phải tiến hành xác định tội phạm và
người phạm tội, làm rõ sự thật khách quan của vụ án, không làm oan, sai hoặc

87


×