Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận Mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.68 KB, 14 trang )

1

MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia cho thấy, tuỳ theo quan niệm khác
nhau mà lựa chọn những mô hình tăng trưởng kinh tế khác nhau. Mô hình tăng
trưởng kinh tế của một quốc gia hay một nền kinh tế là tập hợp những yếu tố quyết
định tăng trưởng kinh tế của quốc gia hay nền kinh tế đó.
Đối với Việt Nam qua hơn 30 năm đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế nền
kinh tế đã đạt được những thành tựu to lớn cho phát triển kinh tế, xã hội. Tuy
nhiên, việc duy trì mô hình phát triển này quá lâu đã bộc lộ không ít yếu kém.
Tăng trưởng GDP tuy vẫn ở mức tương đối cao nhưng đang có xu hướng chậm lại;
chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
Thực trạng này, trước hết là do mô hình tăng trưởng đã không còn phù hợp, không
còn khả năng duy trì tăng trưởng cao và bền vững.
Vì vậy, việc lựa chọn mô hình tăng trưởng sao cho vừa thúc đẩy nền kinh tế
phát triển, tăng nhanh thu nhập, cải thiện đời sống dân cư mà không bị rơi vào bẫy
thu nhập trung bình, vừa giải quyết được vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường sinh
thái là một trong những vấn đề cơ bản của nước ta hiện nay và trong phương
hướng tới. Báo cáo Chính trị tại Đại hội XII của Đảng xác định định hướng đổi
mới mô hình tăng trưởng trong thời gian tới: “… kết hợp có hiệu quả phát triển
chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng
trưởng và sức cạnh tranh...”. “Đổi mới mô hình tăng trưởng chuyển mạnh từ chủ
yếu dựa vào xuất khẩu và vốn đầu tư sang phát triển đồng thời dựa cả vào vốn đầu
tư, xuất khẩu và thị trường trong nước”.
Do đó việc lựa chọn và chuyển đổi mô hình tăng trưởng cần phải hiểu rõ
các mô hình tăng trưởng kinh tế, thực trạng mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta
hiện nay, phương hướng và giải pháp chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế trong


2
giai đoạn tới. Vì vậy em xin chọn nội dung “Thực trạng và giải pháp đổi mới mô


hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay” để viết bài thu hoạch.

NỘI DUNG
1. Bản chất của mô hình tăng trưởng kinh tế
1.1. Khái niệm mô hình tăng trưởng kinh tế
Mô hình tăng trưởng kinh tế là một cách diễn đạt quan điểm cơ bản nhất về
sự tăng trưởng kinh tế thông qua các biến số kinh tế và mối liên hệ giữa chúng. Mô
hình tăng trưởng kinh tế mô tả phương thức vận động của nền kinh tế thông qua
mối liên hệ nhân quả giữa các biến số quan trọng trong quá trình tăng trưởng sau
khi đã tước bỏ đi sự phức tạp không cần thiết. Những diễn đạt này có thể dưới
dạng lời văn, sơ đồ hoặc toán học.
1.2. Các khía cạnh của mô hình tăng trưởng kinh tế
Việc quyết định tăng trưởng kinh tế của quốc gia hay nền kinh tế có nhiều
yếu tố. Trong thực tế các nhà kinh tế thường xác định các yếu tố quyết định tăng
trưởng kinh tế (hay các yếu tố của mô hình tăng trưởng kinh tế) dưới bốn khía
cạnh:
- Khía cạnh đầu vào: Theo quan niệm truyền thống, có bốn yếu tố đầu vào
dẫn đến tăng trưởng kinh tế, gồm: lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên và khoa
học công nghệ. Nhưng theo quan điểm hiện đại, có 3 yếu tố dẫn đến tăng trưởng
kinh tế, gồm: vốn (bao gồm cả yếu tố tài nguyên thiên nhiên đang được sử dụng,
gia nhập dưới dạng yếu tố vốn sản xuất), lao động và năng suất yếu tố tổng hợp
(TFP). Những yếu tố này tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và có thể lượng
hóa được mức độ đón góp của chúng vào tăng trưởng kinh tế.
Khi xem xét mô hình tăng trưởng kinh tế ở khía cạnh đầu vào tức là đề cập
đến số lượng, chất lượng và sự kết hợp các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất.


3
- Khía cạnh đầu ra
Đầu ra hay tổng cầu của nền kinh tế gồm: tiêu dùng của dân cư trong nước

(C), đầu tư (I), chỉ tiêu của chính phủ (G) và xuất khẩu ròng (NX nghĩa là xuất
khẩu trừ nhập khẩu).
Khi xem xét mô hình tăng trưởng kinh tế ở khía cạnh đầu ra tức là nói đến
mô hình tăng trưởng kinh tế đó coi trọng yếu tố nào C, NX, I hay G.
- Khía cạnh cấu trúc nền kinh tế: được hiểu là tổng thể những hoạt động
của nền kinh tế. Cấu trúc nền kinh tế có thể nhìn từ cơ cấu theo ngành, lĩnh vực, cơ
cấu thành phần kinh tế (hay khu vực kinh tế) và sự liên kết giữa các ngành, lĩnh
vực kinh tế, các thành phần kinh tế. Sự liên kết này có vai trò quan trọng đối với
tăng trưởng kinh tế
Cấu trúc nền kinh tế theo ngành, lĩnh vực: Trong kinh tế học, khi xem xét
trình độ phát triển của nền kinh tế người ta chia hoạt động của nền kinh tế được
chia thành ba khu vực: Nông nghiệp và khai khoáng (còn gọi là khu vực cấp I);
công nghiệp chế tạo (còn gọi là khu vực cấp II); dịch vụ (còn gọi là khu vực cấp
III). Nếu tăng trưởng kinh tế nhờ vào khu vực I, đó là nền kinh tế đang ở trình độ
thấp, còn kinh tế tăng trưởng chủ yếu vào khu vực cấp II và cấp III thì nền kinh tế
phát triển ở trình độ cao hơn.
Cấu trúc nền kinh tế theo khu vực kinh tế: Theo cách này có thể phân chia
các khu vực kinh tế gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế ngoài nhà nước và kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Việc phân chia này giúp ta thấy rõ được từng khu vực kinh
tế đã đóng góp bao nhiêubtrong tổng sản lượng của nền kinh tế.
- Khía cạnh thể chế kinh tế
Mô hình tăng trưởng kinh tế xét ở khía cạnh thể chế thể hiện vai trò của
Nhà nước và hệ thống các luật chơi trong nền kinh tế, cũng như các chính sách
kinh tế vĩ mô (gồm loại chính sách vĩ mô và cách làm chính sách vĩ mô). Khía


4
cạnh này thể hiện cách thức vận hành nền kinh tế của nhà nước. Nói một cách hình
tượng, khía cạnh thể chế được xem như là một phần mềm điều hành nền kinh tế
mà phần cứng của nó có thể được xem là cấu trúc của nền kinh tế.

Để có cái nhìn toàn diện, đầy đủ khi phân tích, đánh giá mô hình tăng
trưởng kinh tế của một quốc gia nào đó, cần phải xem xét cả 4 khía cạnh nói trên
của mô hình tăng trưởng kinh tế.
1.3. Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng và theo chiều sâu
Từ việc khái quát các mô hình tăng trưởng kinh tế, xét trên gốc độ các yếu
tố đầu vào và hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào có thể thấy có hai dạng mô hình
tăng trưởng kinh tế chủ yếu, đó là mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng và
mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu.
1.3.1. Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng
- Quan niệm về mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng: là tăng trưởng
kinh tế dựa trên cơ sở gia tăng số lượng các yếu tố đầu vào như vốn, lao động, tài
nguyên mà không kèm theo tiến bộ công nghệ. Nói đến mô hình tăng trưởng kinh
tế theo chiều rộng là nói đến phương thức tăng trưởng sử dụng nhiều vốn, công
nghệ lạc hậu, với đa số lao động tay nghề thấp, chủ yếu làm gia công, lắp ráp, khai
thác và bán rẻ tài nguyên thô hoặc sơ chế.
Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng có đặc trưng là: (1) Sự gia
tăng về lượng các yếu tố đầu vào tạo ra trên 50% thu nhập của nền kinh tế; (2)
Không thường xuyên sử dụng các nguồn lực có hiệu quả cao hơn; (3) Chỉ chú
trọng phát triển các loại công nghệ và nguồn lực sản xuất truyền thống.
- Ưu thế và hạn chế của mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng
Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng có những lợi thế như: giải
phóng mọi nguồn lực của đất nước; thu hút được nguồn lực từ nước ngoài; giải
phóng sức lao động, phát triển thị trường lao động; đáp ứng yêu cầu tăng trưởng


5
nhanh trong giai đoạn đầu phát triển của các nước đang phát triển. Song, mô hình
tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng có nhiều hạn chế như: các nguồn lực vốn, lao
động, tài nguyên là có hạn, vì thế nếu áp dụng mô hình tăng trưởng kinh tế này kéo
dài sẽ dẫn đến giới hạn, làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường,

gia tăng chi phí cho một đơn vị sản xuất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh
tế thấp, tiềm ẩn nguy cơ lạm phát, bội chi ngân sách, gây bất ổn kinh tế vĩ mô.
1.3.2. Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu
- Quan niệm về mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu: là tăng trưởng
kinh tế dựa trên cơ sở nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào. Tăng trưởng
kinh tế theo chiều sâu dựa trên cơ sở của khoa học công nghệ hiện đại, với đa số
lao động có trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng đi vào lĩnh
vực thiết kế, chế tạo thuộc các ngành kinh tế mũi nhọn, làm ra sản phẩm có giá trị
gia tăng cao. Tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu không chỉ gia tăng khối lượng sản
phẩm, mà còn gia tăng cả chất lượng sản phẩm nền kinh tế.
Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu có 3 đặc trưng như sau: (1)
Hoàn thiện về chất các yếu tố sản xuất và nâng cao hiệu quả sử dụng chúng đạt
mức chiếm trên 50% thu nhập tăng thêm của nền kinh tế; (2) Thường xuyên, liên
tục sử dụng nguồn lực có hiệu quả cao hơn; (3) Sử dụng công nghệ và các nguồn
lực tiên tiến.
- Ưu thế của mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu: có các lợi thế
như: nhân tố TFP dường như là vô hạn, nên có khả năng khắc phục được tình trạng
khan hiếm nguồn lực; tiết kiệm nguồn lực, giảm chi phí, tăng hiệu quả và tăng sức
cạnh tranh của nền kinh tế; giảm ô nhiễm, bảo vệ môi trường; ít gây bất ổn kinh tế
vĩ mô và tăng trưởng kinh tế bền vững, dài hạn.
- Điều kiện tiên quyết để chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều
rộng sang chiều sâu


6
Điều kiện tiên quyết để chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều
rộng sang chiều sâu đó là: phải dựa vào tiến bộ khoa học - công nghệ và dựa vào
nguồn nhân lực chất lượng cao.
Việc phân định mô hình tăng trưởng kinh tế thành hai loại mô hình tăng
trưởng kinh tế theo chiều rộng và mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu chỉ

mang tính chất tương đối. Trong thực tế các yếu tố tăng trưởng theo chiều rộng và
theo chiều sâu không bao giờ tồn tại hoàn toàn tách biệt, mà luôn kết hợp với nhau
trong một chừng mực nhất định.
2. Thực trạng và giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam hiện nay
2.1. Thực trạng mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam
2.1.1. Giai đoạn 1991-2010
Từ năm 1991 đến năm 2010, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được tăng trưởng
kinh tế liên tục với tốc độ khá cao. Giai đoạn 1991-1995 đạt 8,2%/năm; giai đoạn
1996-2000 đạt 7%/năm; Giai đoạn 2001-2005 đạt 7,5; giai đoạn 2006-2010 đạt 7%
%/năm. Nếu như năm 1991, GDP bình quân đầu người của Việt Nam theo PPP
chưa bằng 1/2 của Philippines, Indonesia; 1/5 của Thái Lan và 1/10 của Malaysia,
thì đến năm 2010, các con số tương ứng lần lượt là: 1/3 , 1/3 và 1/5. Chính sự tăng
trưởng liên tục và cao trong nhiều năm nên:
+ Quy mô của nền kinh tế Việt Nam đã lớn lên đáng kể. Tổng sản phẩm
trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp 2 lần so với năm 2000, theo giá
thực tế gấp 3,4 lần. Kim ngạch xuất khẩu tăng hơn 4 lần/năm 2000. Năm 2010,
GDP/người đạt 1.200 USD (năm 1990 là gần 100 USD).
+ Đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài nhiều năm, Việt
Nam thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển và bước vào nhóm nước đang phát
triển có nhu nhập trung bình thấp theo xếp hạng của WB.


7
+ Góp phần giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc: Lao động, việc làm,
thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống, xóa đói giảm nghèo, thực hiện an sinh xã
hội, tiến bộ và công bằng xã hội từng bước được thực hiện ...
+ Công tác bảo vệ môi trường được quan tâm và có mặt được cải thiện.
Dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng, quốc phòng, an ninh được giữ vững,
chính trị - xã hội ổn định

+ Kinh tế Việt Nam từng bước hội nhập sâu, đầy đủ vào nền kinh tế khu
vực và thế giới. Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, thế và lực của nước ta vững
mạnh thêm nhiều, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao ...
- Tuy nhiên, tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam chưa thật tương xứng
với tiềm năng và cơ hội đã có được. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng,
chưa chú trọng phát triển theo chiều sâu, chất lượng tăng trưởng thấp, hiệu quả của
tăng trưởng hạn chế, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản
phẩm hàng hóa còn thấp kém... Cụ thể:
+ Kinh tế của Việt Nam tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên,
tăng vốn đầu tư và lao động rẻ; tăng trưởng thuần túy dựa vào khai thác, sử dụng tài
nguyên như các ngành nông, lâm, thủy sản, khai thác... luôn luôn chiếm tỷ trọng lớn
khoảng 30% GDP trong giai đoạn 1991-2009. Động lực của tăng trưởng và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế là các ngành công nghiệp gia công, lắp ráp có tỷ lệ chi phí trung
gian cao, phụ thuộc vào nhập khẩu tiêu tốn ngoại tệ, thường gây ô nhiễm môi trường
và khu vực dịch vụ chưa có tăng trưởng rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu gia tăng nhanh,
nhưng cơ cấu xuất khẩu thay đổi chậm, chủ yếu là xuất hàng thô, sơ chế, khoáng
sản, năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu thấp.
+ Hiệu quả và chất lượng đầu tư thấp (chất lượng tăng trưởng thấp) Tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, vùng kinh tế ngày càng dựa nhiều và
vốn FDI, nhưng nguồn vốn này phân bổ không đều, chất lượng chưa cao và cũng
chưa đóng góp nhiều vào chất lượng tăng trưởng.


8
Đầu tư dàn trải, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn
đầu tư thấp, nhất là nguồn vốn đầu tư của nhà nước. Hiệu quả đầu tư thể hiện ở chỉ
số ICOR (tỷ lệ vốn đầu tư/GDP) có xu hướng tăng cao trong thời kỳ 1991-2009.
Giai đoạn (1991-1995), bình quân là 3,5; giai đoạn (1996-2000) là 4,8; giai đoạn
(2001- 2005): 5,1; trong hai năm 2008, 2009 là 8,0. Chỉ số ICOR cao đồng nghĩa
với hiệu quả đầu tư thấp và sụt giảm, năng lực cạnh tranh giảm. Khu vực đầu tư

công, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước hệ số ICOR rất cao, năm 2009 lên đến
12,0, trong khi đó ICOR chung của nền kinh tế là 8,0.
+ Những nền tảng cơ bản của tăng trưởng (ổn định kinh tế vĩ mô, thể chế
kinh tế - xã hội, giáo dục và y tế cơ bản, cơ sở hạ tầng) còn nhiều bất cập, năng lực
cạnh tranh chậm được cải thiện. Các yếu tố đóng góp vào việc gia tăng chất lượng
tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (chất lượng nguồn nhân
lực, hiệu quả các thị trường nhân tố sản xuất: lao động, đất đai, công nghệ; năng
lực đổi mới, sáng tạo công nghệ) còn thiếu và yếu. Năng lực cạnh tranh của Việt
Nam từ 2001 đến 2010 hầu như không được cải thiện, thậm chí Việt Nam còn bị
tụt hạng về năng lực cạnh tranh trong năm 2008, 2009. Năm 2009 xếp thứ 75/133
nước tham gia xếp hạng; năm 2008: 70/134 nước. Như vậy năm 2009 năng lực
cạnh tranh bị tụt 5 hạng so với năm 2008.
+ Việc gắn kết giữa tăng trưởng với tiến bộ, công bằng xã hội còn chưa
chặt chẽ. Tăng trưởng kinh tế cao, nhưng chưa bền vững, tăng trưởng chưa gắn
chặt với giảm nghèo, tăng trưởng cũng làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc:
việc làm cho người lao động, phân hóa giàu nghèo gia tăng, sự chênh lệch về trình
độ phát triển, về thu nhập... giữa các vùng, miền ngày càng lớn, môi trường bị ô
nhiễm và suy thoái nghiêm trọng, tệ nạn xã hội vẫn diễn biến phức tạp và có xu
hướng gia tăng...
2.1.2. Giai đoạn 2011-2015


9
Đánh giá kết quả thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam
giai đoạn 2011-2015, Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã
chỉ rõ: “Mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng đã bước đầu có sự chuyển
biến sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu”; Hiệu quả đầu tư xã hội, đầu tư
công từng bước được cải thiện, tình trạng đầu tư dàn trải bước đầu được hạn chế”.
Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đã giảm từ 42,7% giai đoạn 2006-2010,
xuống 31,7% giai đoạn 2011-2015. Hiệu quả đầu tư (ICOR) được nâng lên, biểu

hiện hệ số ICOR của nền kinh tế giảm từ 6,96 lần giai đoạn 2006-2010, xuống 6,91
lần giai đoạn 2011-2015. Tỷ trọng đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP giai
đoạn 2011-2015 đạt khoảng 30%, cao hơn giai đoạn 2001-2010. Tỷ trọng đóng góp
của ngành dịch vụ tăng lên, ngành nông nghiệp giảm đi…
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, tăng trưởng kinh tế vẫn theo chiều
rộng. Tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố vốn, tài nguyên, lao
động trình độ thấp, chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học và công nghệ, lao động
có kỹ năng. Năng suất lao động chậm được cải tiến, thấp hơn nhiều so với một số
nước trong khu vực. Đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế còn thấp. Chưa
phát huy được lợi thế so sánh và chưa tận dụng các cam kết hội nhập quốc tế để
nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát triển bền vững.
2.2. Quan điểm, định hướng, mục tiêu và giải pháp đổi mới mô hình
tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016-2020 và tầm nhìn 2030
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra giải pháp để thực
hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030
của Việt Nam như sau:
2.2.1. Quan điểm, định hướng và mục tiêu
Đổi mới mô hình tăng trưởng là để nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng
suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế, phát triển nhanh và bền vững, toàn
diện cả về kinh tế, xã hội và môi trường.


10
Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng chú trọng và ngày càng dựa
nhiều hơn vào các nhân tố thúc đẩy tăng năng suất lao động, sử dụng hiệu quả các
nguồn lực, đặc biệt là phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, trí
sáng tạo của con người Việt Nam và thành tựu khoa học - công nghệ của nhân loại,
mọi tiềm năng, lợi thế của các ngành, lĩnh vực, các địa phương và cả nước.
Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn kết chặt chẽ với thực hiện 3 đột phá
chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế với 5 trọng tâm ưu tiên là: (1) Hoàn thiện thể chế

kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân
đối lớn của nền kinh tế; (2) Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn, thuận
lợi cho khởi nghiệp và đổi mới, sáng tạo, nghiên cứu và triển khai ứng dụng khoa
học - công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài; (3) Cơ
cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; (4) Cơ cấu lại ngân sách nhà
nước và nợ công; (5) Cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công.
Đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất
lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế là nhiệm vụ cơ bản, trọng yếu, có ý
nghĩa quyết định đối với việc thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững đất
nước trong giai đoạn hiện nay.
Tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Đảng ta xác
định 5 mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế đến năm 2020 và tầm nhìn
đến năm 2030 là: (1) Tiếp tục củng cố vững chắc nền kinh tế vĩ mô; kiểm soát lạm
phát bình quân dưới 5%/năm; giảm dần tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước, đến năm
2020 xuống dưới 4% GDP, đến năm 2030 xuống khoảng 3% GDP; (2) Quy mô nợ
công hằng năm giai đoạn 2016-2020 không quá 65% GDP, nợ chính phủ không
quá 55% GDP và nợ nước ngoài khống quá 50% GDP. Đến năm 2030, nợ công
không quá 60% GDP, nợ chính phủ không quá 50% GDP, nợ nước ngoài không
quá 45% GDP; (3) Giai đoạn 2016-2020, hằng năm có khoảng 30-35% doanh
nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân


11
hàng năm cao hơn 5,5%; tốc độ tăng năng suất nội ngành đóng góp hơn 60% vào
tăng năng suất lao động năm 2020; (4) Đến năm 2020, tỷ trọng lao động có chứng
chỉ đào tạo tăng lên khoảng 25%; tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm xuống dưới
40%; (5) năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng bình
quân giai đoạn 2016-2020 khoảng 30-35%; thu hẹp khoảng cách năng lực cạnh
tranh quốc gia với các nước ASEAN4.
2.2.2. Giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn

2016-2020 và tầm nhìn 2030
Để thực hiện mô hình tăng trưởng kinh tế dến năm 2020 và tầm nhìn đếm
năm 2030, nước ta cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là: Nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hình kinh tế vĩ mô. Đây chính là
điều kiện để thực hiện tốt đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế. Nếu nền tảng kinh
tế vĩ mô không vững chắc; lạm phát không được kiểm soát; các cân đối lớn của
nền kinh tế không đảm bảo; cơ cấu thu, chi ngân sách nhà nước và nợ công không
an toàn… thì không thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng
kinh tế.
Hai là: Tiếp tục thực hiện ba đột phá chiến lược. Thực hiện giải pháp này
sẽ huy động và phân bổ hiệu quả nguồn lực; thực hiện phân bổ nguồn lực theo
nguyên tắc thị trường. Khắc phục tư tưởng bao cấp, xin - cho, ỷ lại của các cấp,
ngành, địa phương và trong xã hội. Từ đó nâng cao hiệu quả đầu tư, nâng cao năng
suất lao động. Tiếp tục phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại
chính là nâng cao năng lực nội sinh của nền kinh tế. Đặc biệt là xây dựng thể chế
vượt trội cho những địa phương, vùng kinh tế động lực, khu hành chính - kinh tế
đặc biệt để thực hiện tốt vai trò đầu tàu, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Chú
trọng phát triển nguồn nhân lực là điều kiện tiên quyết để đổi mới mô hình tăng
trưởng kinh tế. Chuyển mạnh sang định hướng mô hình tăng trưởng kinh tế theo
chiều sâu không thể thành công nếu không có nguồn nhân lực chất lượng cao.


12
Ba là: Ưu tiên phát triển và chuyển giao khoa học - công nghệ, nhất là
khoa học - công nghệ hiện đại, coi đây là yếu tố trọng yếu nâng cao năng suất,
chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế
có thành công hay không phụ thuộc rất lớn vào việc thực hiện giải pháp này. Thực
tế lịch sử cho thấy, không thể gia tăng sự đóng góp của năng suất các nhân tố tổng
hợp (TFP) nếu không chú trọng vào phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ.
Bốn là: Đẩy mạnh cơ cấu lại tổng thể các ngành, lĩnh vực kinh tế trên

phạm vi cả nước và từng địa phương, doanh nghiệp với tầm nhìn dài hạn, có lộ
trình cụ thể; gắn kết chặt chẽ giữa cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế với cơ cấu lại
các ngành, lĩnh vực trọng tâm. Phạm vi cơ cấu lại nền kinh tế được xác định tại
Hội nghị lần này là trên phạm vi cả nước và từng địa phương, doanh nghiệp với
tầm nhìn dài hạn, có lộ trình cụ thể. Các nội dung về cơ cấu lại khu vực sự nghiệp
công, cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, cơ cấu lại một cách
thực chất các ngành công nghiệp, cơ cấu lại và phát triển nhanh các ngành dịch vụ,
duy trì tốc độ tăng trưởng các ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP là
những nội dung lần đầu tiên được định hướng cụ thể trong Nghị quyết này. Có thể
thấy, đây là giải pháp quan trọng tác động trực tiếp đến nâng cao hiệu quả sử dụng
các nguồn lực xã hội, nâng cao năng suất lao động, năng suất các yếu tố tổng hợp,
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; trên cơ sở đó thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh
tế hợp lý và thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế.
Năm là: Phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam cả về số lượng,
chất lượng, thực sự là một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Việc xác
định giải pháp này cho thấy, Đảng ta đã có tư duy mới về vai trò của khu vực kinh
tế tư nhân Việt Nam trong mô hình tăng trưởng mới. Đây là khu vực luôn chiếm tỷ
trọng cao trong nền kinh tế cả về quy mô nhân lực, vốn đầu tư, tỷ trọng trong
GDP; là khu vực có hiệu quả đầu tư cao nhất nền kinh tế. Tuy nhiên, thời gian qua
khu vực kinh tế tư nhân chưa được chú trọng phát triển đúng mức, ảnh hưởng


13
không nhỏ đến việc phát huy vai trò của khu vực kinh tế này. Thực tế cho thấy, khu
vực kinh tế tư nhân có nhiều tiềm năng và phát triển mạnh khu vực kinh tế này sẽ
là một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế của đất nước.
Sáu là: Đổi mới cách thức thực hiện liên kết, phối hợp giữa các địa
phương trong phát triển kinh tế vùng; thực hiện có hiệu quả quá trình đô thị hóa.
Liên kết, phối hợp giữa các địa phương trong phát triển kinh tế vùng không chỉ
nhằm thúc đẩy và bảo đảm sự phát triển cân đối, bền vững của đất nước, có tính

đến các yếu tố đặc thù của từng vùng, mà còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của
từng địa phương và của nền kinh tế.
Bảy là: Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với bảo đảm quốc phòng, an
ninh. Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế còn phải tính đến xây dựng và thực
hiện chiến lược phát triển công nghiệp quốc phòng, đặc biệt ở các khu vực phòng
thủ, tuyến biên giới và vị trí chiến lược. Đồng thời, phát triển mạnh các ngành kinh
tế biển, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển kinh tế biển và tạo
điều kiện thuận lợi để người dân định cư lâu dài trên các đảo.
Tám là: Đổi mới phương thức, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả
quản lý nhà nước. Để thực hiện tốt các giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng kinh
tế nêu trên, đòi hỏi phải đổi mới phương thức, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu
quả quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực kinh tế. Nhà nước phải
thực sự trở thành nhà nước kiến tạo, phát triển.

KẾT LUẬN


14

Qua hơn 30 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả
quan trọng: Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao; cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch
theo hướng tiến bộ, hiện đại; năng lực nội sinh của nền kinh tế ngày một gia tăng;
đời sống nhân dân từng bước được đảm bảo…Tuy nhiên, những kết quả đạt được
chỉ là bước đầu. Thực tiễn đã và đang đặt ra thời cơ, thách thức phải đổi mới thành
công mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, tạo ra “động lực”
để đất nước phát triển nhanh, bền vững trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế sâu, rộng, dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và biến đổi
khí hậu toàn cầu.
Vì vậy, việc thay đổi mô hình phát triển là nhiệm vụ cần thiết và cấp bách
đặt ra đối với nước ta hiện nay. Đây là một yêu cầu thay đổi nội tại nền kinh tế, nội

tại xã hội, đồng thời cũng là yêu cầu thay đổi khi tham gia hội nhập, toàn cầu hóa
để có thể phát triển bền vững mang tính dài hạn. Phù hợp với xu thế chung của thế
giới và thích nghi với bối cảnh kinh tế thế giới mới sau khủng hoảng.
Quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế ở Việt Nam
không ít khó khăn, thách thức. Việt Nam cần lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế
phù hợp; đồng thời cần học hỏi những kinh nghiệm, bài học thành công và thất bại
trong tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở các nước khác, để có những
giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế nhằm hướng tới mục tiêu phát triển
bền vững trong dài hạn.



×