Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM BÀI CHIỀU TỐI (HỒ CHÍ MINH)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.66 KB, 21 trang )

Chuyên đề
GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
TRONG GIỜ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN "CHIỀU TỒI" CỦA HỒ CHÍ MINH
1. Hoàn cảnh nảy sinh
1.1. Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta, khi yếu tố con người được
coi trọng về tiềm năng và trí tuệ, cùng với sức mạnh tri thức thì nhân cách của
con người càng được đề cao và phát huy mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực xã hội.
Hiện nay, nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới giáo dục là nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện trong nhà trường, nhằm đảm bảo tính cân đối giữa dạy chữ và dạy
người. Một nhà hiền triết đã nói: "Khoa học mà không có hành vi đạo đức thì
chỉ là sự tàn lụi của linh hồn", mà "hành vi đạo đức" chính là kĩ năng sống của
học sinh. Vì vậy, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một nội dung quan trọng
và thiết thực trong chiến lược giáo dục toàn diện.
1.2. Hiện nay, tình trạng bạo lực học đường ngày càng gia tăng, không ít
bộ phận học sinh sống buông thả, thích hưởng thụ, chưa ý thức rèn luyện bản
thân, có biểu hiện lệch lạc về lối sống, suy thoái về nhân cách, đạo đức. Đây
cũng là tình trạng đáng báo động ở Trung tâm giáo dục thường xuyên.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, song nguyên nhân sâu xa
là do các em thiếu hụt về kĩ năng sống. Do vậy, cần phải giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh để hình thành và phát triển cho các em khả năng làm chủ bản thân,
khả năng ứng xử phù hợp với những người chung quanh, khả năng ứng phó tích
cực trước những tình huống phức tạp, muôn hình muôn vẻ của cuộc sống.
1.3. Môn Ngữ văn là một môn học có khả năng đặc biệt trong việc giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập. Bản
chất của môn Văn là sự kết hợp giữa tính khoa học và nghệ thuật. Để học sinh
có thể vừa cảm thụ, rung động với cái hay cái đẹp của một tác phẩm văn
chương, vừa hình thành các kĩ năng để ứng phó với thực tiễn cuộc sống không
phải điều đơn giản.
Mặt khác, hiện nay trong xu thế chung của xã hội, môn Văn đang mất dần
vị thế của nó, thậm chí trở thành "gánh nặng" đối với học sinh. Thay vào đó, học
sinh chỉ chú trọng đến các môn học khoa học tự nhiên mà "bỏ quên" môn Văn.


Tình trạng trên đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc dạy Văn. Để trả lại bản
chất nghệ thuật kì diệu cho các giờ học văn, vừa giúp học sinh nhận thức được
các giá trị trong cuộc sống, hình thành lối sống, cách ứng xử có văn hoá trong
các tình huống đa dạng của cuộc sống trong một khoảng thời gian có hạn không
phải là việc đơn giản. Do vậy, làm thế nào để tích hợp nội dung giáo dục sống
1


trong nội dung bài học và thông qua các phương pháp triển khai nội dung bài
học đến nay vẫn là sự thử nhiệm tìm đường của giáo viên dạy Văn.
1.4. Người thợ xây giỏi là người không chỉ biết cách dùng từng đồ nghề
của mình mà còn biết đánh giá dụng cụ nào thích hợp nhất cho từng hoàn cảnh
cụ thể. Phương pháp dạy học cũng giống như đồ nghề của người thợ xây vậy,
chúng đều bình đẳng với nhau. Việc sử dụng chúng tuỳ thuộc vào mục đích và
khả năng dạy học cụ thể, nội dung bài dạy cụ thể mà người dạy xác định, lựa
chọn và kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp khác nhau nhằm đem lại hiệu
quả cao trong bài dạy của mình. Trong đó, phương pháp dạy học tích cực không
chỉ phát triển khả năng tư duy sáng tạo của người học mà còn tạo cơ hội tối đa
cho các thành viên trong tập thể được bộc lộ sự hiểu biết và quan điểm của mình
về nội dung và phương pháp học tập cũng như các lĩnh vực khác, giúp học sinh
có nhiều cơ hội rèn luyện khả năng diễn đạt cách thức tư duy và ý tưởng. Khi sử
dụng các phương pháp dạy học tích cực, giáo viên có điều kiện để uốn nắn, hình
thành ở học sinh những kĩ năng cần thiết.
Như vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh không phải đến nay
mới có song bằng những phương pháp giảng dạy tích cực, giáo viên sẽ giúp học
sinh nâng cao kĩ năng sống của mình một cách nhẹ nhàng nhưng hết sức sâu sắc.
1.5. Xuất phát từ những lí do trên, bản thân là một giáo viên dạy Văn
giảng dạy trong Trung tâm Giáo dục thường xuyên, tôi luôn có tâm nguyện
muốn học sinh của mình có khả năng thích ứng với cuộc sống mới, biết tự chủ,
sống có bản lĩnh, có nhân cách. Đây chính là lí do tôi đi sâu tìm hiểu và thực

hiện đề tài "Giáo dục kĩ năng sống trong giờ đọc hiểu văn bản Chiều tối của Hồ
Chí Minh".
2. Cơ sở lí luận của vấn đề
2.1. Quan niệm về kĩ năng sống
2.1.1. Khái niêm
Theo WHO: "Năng lực tâm lí xã hội là khả năng ứng phó một cách có
hiệu quả với những thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá
nhân để duy trì một trạng thái khoẻ mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua hành
vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hoá và môi
trường xung quanh. Năng lực tâm lí xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát
huy sức khoẻ theo nghĩa rộng nhất về mặt thể chất, tinh thần và xã hội. Kĩ năng
sống là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lí xã hội này".
Theo UNICEF, giáo dục dựa trên kĩ năng sống cơ bản là sự thay đổi trong
hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái
độ và hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức (phải làm

2


gì?) và thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào hay tin tưởng vào giá trị
nào?), thành hành động (làm gì và làm như thế nào?).
Như vậy, kĩ năng sống chính là năng lực, khả năng tâm lí - xã hội của con
người có thể ứng phó với những thách thức trong cuộc sống, giải quyết các tình
huống và giao tiếp có hiệu quả.
2.1.2. Phân loại
Trong giáo dục chính quy của nước ta những năm vừa qua, kĩ năng sống
được phân loại theo các mối quan hệ, bao gồm các nhóm sau:
Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các kĩ năng
sống cụ thể như: tự nhận thức, xác định giá trị, ứng phó với căng thẳng, tìm
kiếm sự hỗ trợ, tự trọng, tự tin...

Nhóm các kĩ năng tự nhận biết và sống với người khác, bao gồm các kĩ
năng cụ thể như: giao tiếp có hiệu quả, giải quyết mâu thuẫn, thương lượng, từ
chối, bày tỏ sự cảm thông, hợp tác,...
Nhóm kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả, bao gồm kĩ năng cụ thể
như: tìm kiếm và xử lí thông tin, tư duy phê phán và tư duy sáng tạo, ra quyết
định, giải quyết vấn đề...
2.1.3. Ý nghĩa của giáo dục kĩ năng sống.
Có thể nói, kĩ năng sống chính là những nhịp cầu giúp con người biến
kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có kĩ
năng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách, biết ứng
xử giải quyết vấn đề một cách tích cực, phù hợp.
Giáo dục kĩ năng sống càng trở nên cấp thiết đối với học sinh Trung học
phổ thông. Các em là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người
quyết định sự phát triển của đất nước. Mặt khác, lứa tuổi học sinh là lứa tuổi
đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm
tòi khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm
sống, sức đề kháng chưa cao nên dễ bị lôi cuốn kích động. Nếu không có kĩ
năng sống các em sẽ không thể thực hiện tốt được trách nhiệm đối với bản thân,
gia đình, xã hội.
Đặc biệt, việc giáo dục tích hợp kĩ năng sống vào tiết dạy Văn càng trở
thành một nhu cầu bức thiết:
Thứ nhất, trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ, kĩ năng
phù hợp. Từ đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh,
tích cực, loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực. Kĩ năng sống giúp học sinh
có khả năng ứng phó phù hợp, linh hoạt trong các tình huống của cuộc sống
hàng ngày. Kĩ năng sống giúp học sinh vận dụng tốt kiến thức đã học, làm tăng
tính thực hành.
3



Thứ hai, tiết học có lồng ghép giáo dục kĩ năng sống bao giờ cũng thân
thiện, tích cực, tạo điều kiện cho học sinh thực hành và phát huy tối đa năng lực
của bản thân.
Thứ ba, tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của
mình và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
Có thể nói, giáo dục kĩ năng sống có vai trò vô cùng quan trọng trong việc
giúp học sinh biết làm chủ bản thân, thích ứng và biết cách ứng phó trước những
thách thức của cuộc sống. Từ đó, rèn cho học sinh sống có trách nhiệm với bản
thân, gia đình, cộng đồng, mở ra cơ hội, hướng suy nghĩ tích cực và tự tin, tự
quyết định là lựa chọn những hành vi đúng đắn.
2.2. Các phương pháp dạy học tích cực
2.2.1. Phương pháp dạy học nhóm
Dạy học nhóm là một hoạt động học tập có sự phân chia học sinh theo
từng nhóm nhỏ với đủ thành phần khác nhau về trình độ, cùng trao đổi ý tưởng,
một nguồn kiến thức dựa trên cơ sở hoạt động tích cực của từng cá nhân. Từng
thành viên của nhóm không chỉ có trách nhiệm với việc học tập của mình mà
còn có trách nhiệm quan tâm đến việc học tập của các thành viên trong nhóm.
Hoạt động nhóm hợp lí, tích cực sẽ giúp học sinh rèn luyện các kĩ năng:
đảm nhận trách nhiệm, hợp tác, chia sẻ, thương lượng, giải quyết mâu thuẫn,
giải quyết vấn đề.
2.2.2. Phương pháp trò chơi
A.I.Xôrôkina đã đưa ra một luận điểm vô cùng quan trọng về đặc thù của
dạy học kết hợp với trò chơi: "Trò chơi học tập là một quá trình phức tạp, nó là
hình thức dạy học và đồng thời nó vẫn là trò chơi... Khi các mối quan hệ chơi bị
xoá bỏ, ngay lập tức trò chơi biến mất và khi ấy, trò chơi biến thành tiết học,
đôi khi biến thành sự luyện tập". Vì vậy có thể kết luận: học và chơi là hai việc
không loại trừ lẫn nhau. Trò chơi có thể được điều chỉnh cho phù hợp với hầu
hết các chủ đề hoặc đề tài trong nội dung học tập.
Bản chất của phương pháp trò chơi là dạy học thông qua việc tổ chức hoạt
động cho học sinh. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được hoạt động

bằng cách tự chơi trò chơi trong đó mục đích của trò chơi chuyển tả mục tiêu
của bài học. Luật chơi (cách chơi) thể hiện nội dung và phương pháp học, đặc
biệt là phương pháp học tập có sự hợp tác và sự tự đánh giá.
Trò chơi học tập khác với trò chơi khác ở chỗ: nhiệm vụ nhận thức và luật
chơi trong trò chơi, đòi hỏi người chơi phải huy động trí óc làm việc thực sự
nhưng chúng lại được thực hiện dưới hình thức vui vẻ, thú vị. Học trong quá
trình chơi là quá trình lĩnh hội tri thức nhẹ nhàng, tự nhiên không gò bó, khơi

4


dậy hứng thú tự nguyện và giảm thiểu sự căng thẳng cho học sinh. Học tập
thông qua trò chơi sẽ giúp học sinh ghi nhớ tri thức dễ dàng và bền vững hơn.
Trò chơi học tập giúp học sinh lĩnh hội những tri thức và kĩ năng khác
nhau mà không có chủ định từ trước. Đồng thời, giúp người học cảm nhận được
một cách trực tiếp kết quả hành động của mình, từ đó thúc đẩy tính tích cực, mở
rộng, củng cố và phát triển vốn hiểu biết của người học.
Phương pháp trò chơi được sử dụng trong học tập để hình thành kiến
thức, kĩ năng mới hoặc củng cố kiến thức, kĩ năng đã học. Việc tạo ra trò chơi
mà học không chỉ giúp học sinh khắc sâu tri thức, nâng cao nhận thức mà còn
tăng cường các kĩ năng sống cho học sinh như: biết ứng xử linh hoạt, quan hệ
tích cực và hợp tác,...
2.2.3. Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành để trình bày
những suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo một "vai giả định". Đây là phương
pháp giảng dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách
đừng từ chỗ đứng, góc nhìn của người trong cuộc, tập trung vào một sự kiện cụ
thể mà các em quan sát từ vai của mình.
Thực hiện phương pháp đóng vai, học sinh được rèn luyện, thực hành
những kĩ năng ứng xử, bày tỏ thái độ trong mỗi trường an toàn trước khi thực

hành trong thực tiễn. Mặt khác, phương pháp gây hứng thú và chú ý cho học
sinh, giúp học sinh hình thành kĩ năng giao tiếp, có cơ hội bộc lộ cảm xúc, đồng
thời tạo điều kiện làm phát triển óc sáng tạo của học sinh, khích lệ sự thay đổi
thái độ, hành vi của học sinh theo hướng tích cực.
3. Thực trạng của vấn đề
3.1. Thuận lợi
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một nội dung quan trọng và thiết
thực trong chiến lược giáo dục toàn diện. Chưa bao giờ xã hội, đặc biệt là ngành
giáo dục lại ý thức rõ cần phải truyền đạt các kĩ năng sống cho học sinh trong
thời kì hội nhập như bây giờ. Bộ Giáo dục và đào tạo đã tổ chức nhiều lớp tập
huấn, bồi dưỡng cho cán bộ quản lí, giáo viên về giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh phổ thông, hướng dẫn tích hợp kĩ năng sống trong các môn học ở phổ
thông.
Mặt khác, mục tiêu và nội dung của môn Ngữ văn đã chứa đựng những
yếu tố của giáo dục kĩ năng sống, phù hợp với các nội dung cơ bản của giáo dục
kĩ năng sống, phù hợp với cách tiếp cận làm thay đổi hành vi của người học trên
cơ sở nhận thức về các nội dung của môn Ngữ văn.
Hiện nay, hầu hết giáo viên đã nắm rõ đặc trưng cực các phương pháp dạy
học tích cực và vận dụng linh hoạt trong các giờ dạy học Ngữ văn. Nếu được sử
5


dụng phù hợp, mềm dẻo thì việc giáo dục kĩ năng sống sẽ phát huy hiệu quả tối
đa.

3.2. Khó khăn
Qua số liệu điều tra sơ bộ nhận thức của học sinh về tác dụng của kĩ năng
sống của môn Ngữ văn ở 2 lớp dạy (80 học sinh) và đã thu được kết quả như
sau:
ST Nội dung câu hỏi

Kết quả
T
1
Theo em, học Văn có giúp em nâng cao giá trị Có
52/80
Có nhưng không 28/80
nhận thức không?
thực tế
2
Theo em, học Văn có giúp em điều chỉnh hành Có
40/80
Không
3/80
vi không?
Không trả lời
37/80
3
Theo em, học Văn có ý nghĩa không?

80/80
4
Theo em, học văn có cần thiết không
Cần
62/80
Không cần
18/80
Dựa trên những số liệu thống kê, có thể thấy đa số các em nhận định văn
học là môn học bổ ích, có ý nghĩa nhưng chủ yếu các em cho rằng học văn
không thực tế. Các em còn mơ hồ về khả năng áp dụng thực tiễn của môn học và
cho rằng văn học thuần tuý là món ăn tinh thần, không có ý nghĩa thiết thực đối

với cuộc sống. Chính vì vậy, cần có những giải pháp giúp các em nhận ra giá trị
của môn Văn, đồng thời hình thành những kĩ năng sống cơ bản, cần thiết để phát
triển con người toàn diện.
4. Các giải pháp thực hiện
Giáo dục kĩ năng sống qua việc sử dụng các phương pháp dạy học tích
cực là một trong những con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất. Song, tiết học có
thành công hay không phụ thuộc vào sự linh động, sáng tạo của người giáo viên
trong việc lựa chọn, vận dụng các phương pháp sao cho phù hợp với đặc trưng
thể loại và nội dung của từng bài học. Vì thế, có thể nói mỗi phương pháp đều
có những điểm rêng mà người giáo viên bằng kinh nghiệm và năng lực của mình
phải lựa chọn, ứng dụng sao cho hiệu quả nhất. Trong khuôn khổ một sáng kiến
kinh nghiệm, người viết chỉ trình bày một số vận dụng mà bản thân nhận thấy có
hiệu quả tích cực trong giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ở ba phương pháp:
phương pháp trò chơi, phương pháp dạy học nhóm, phương pháp đóng vai.
4.1. Phương pháp dạy học nhóm
6


Tổ chức học sinh làm việc theo nhóm là một biện pháp hữu hiệu để học
sinh chiếm lĩnh các đơn vị kiến thức một cách chủ động, dân chủ. Hình thức làm
việc hợp tác, theo hình thức nhóm sẽ tạo ra sự tương tác mạnh mẽ giữa các học
sinh trong nhóm, trong lớp, tạo bầu không khí đối thoại dân chủ, cởi mở. Tuy
nhiên hình thức này cũng cần phối hợp với các biện pháp khác và không phải
giờ học nào cũng có thể tổ chức cho học sinh thảo luạn nhóm. Mặt khác, người
giáo viên phải biết cách tổ chức, định hướng hoạt động nhóm của học sinh sao
cho hiệu quả, không khiên cưỡng, áp đặt mang tính hình thức.
Trong phương pháp dạy học nhóm, có rất nhiều cách phân chia nhóm
khác nhau. Nếu hoạt động nhóm diễn ra trên lớp học thì nên tạo các nhóm nhỏ,
tối đa 10 học sinh một nhóm để học sinh có điều kiện để thảo luận với nhau. Các
nhóm này cũng không nên trùng lặp trong suốt quá trình dạy của giáo viên. Việc

phân chia nhóm linh hoạt sẽ giúp học sinh hứng thú hơn, đồng thời tạo cơ hội
cho các học sinh được học hỏi, giao lưu với các bạn trong lớp. Ví dụ, giáo viên
có thể chia nhóm theo cách gộp hai bàn kế nhau làm một nhóm, với mô hình lớp
học phổ biến trong trường phổ thông ở Việt Nam hiện nay thì cách chia này hiệu
quả vì học sinh dễ dàng xoay chuyển để thảo luận cùng nhau, hoặc trong trường
hợp vấn đề cần thảo luận không quá khó, ta có thể chia theo nhóm đơn vị một
bàn là một nhóm, ngoài ra cũng có thể chia nhóm theo ngày sinh, theo sở thích,
theo đặc điểm,... Tuỳ từng mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được
phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong
từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác.
Khi thực hiện nhiệm vụ trong thảo luận nhóm, nhóm tự bầu nhóm trưởng
nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi người một phần việc. Trong
nhóm, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không thể ý lại vào một vài
người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ lẫn nhau
tìm hiểu vấn đề nêu ra trong bầu không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả
làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Để
trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại
diện hoặc phân công mỗi thành viên trình vày một phần nếu nhiệm vụ giao cho
nhóm phức tạp.
Giáo viên có thể áp dụng phương pháp thảo luận nhóm khi dạy văn bản
Chiều tối của Hồ Chí Minh. Với bài thơ này, cách thảo luận hiệu quả nhất là tổ
chức các em thảo luận theo từng cặp hoặc theo bàn. Chẳng hạn, giáo viên có thể
đặt ra vấn đề: "Bài thơ thuộc nhóm những sáng tác được viết nên từ những cuộc
chuyển lao. Mà chuyển lao đối với những người tù là một cực hình. Bác bị giải đi từ
lúc "Gà gáy một lần đêm chửa tan", phải trải qua "Năm mươi ba cây số một ngày"
trong tình cảnh xiềng xích thay dây trói. Đặt bài thơ này trong hoàn cảnh ra đời của

7



nó, em cảm nhận được điều gì về vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách Hồ Chí Minh?". Giáo
viên yêu cầu học sinh thảo luận theo bàn, sau đó gọi học sinh trình bày và chốt ý.

Trong quá trình học sinh trình bày, giáo viên nên khuyến khích các nhóm
tham gia thảo luận để bảo vệ quan điểm của mình. Đồng thời khi nhận xét, cho
điểm giáo viên cũng nên hướng các em đến các kĩ năng xử lí tình huống như:
không trừ điểm nếu học sinh không trả lời được câu hỏi của học sinh khác
nhưng có cách xử lí hay. Chẳng hạn, nếu học sinh biết cách chất vấn ngược lại
hoặc tìm cách hứa hẹn trả lời sau. Với những giải pháp này, học sinh sẽ dạn dĩ
hơn, xử lí tình huống nhanh, đồng thời hạn chế được việc học sinh tìm cách né
tránh hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho bạn trong nhóm.
Với phương pháp dạy học nhóm, giáo viên sẽ rèn luyện cho học sinh kĩ
năng đảm nhận trách nhiệm, thể hiện sự tự tin, chủ động và có ý thức chia sẻ
công việc với các thành viên khác trong nhóm. Mặt khác, kĩ năng hợp tác cũng
được hình thành trong quá trình thảo luận, vì học sinh cùng chung sức làm việc,
giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau trong một công việc, vì mục đích chung. Đồng thời, với
phương pháp này, kĩ năng lắng nghe tích cực được phát huy. Khi các nhóm trình
bày kết quả thảo luận, học sinh sẽ thể hiện được sự tập trung chú ý, thể hiện
được sự quan tâm lắng nghe ý kiến hoặc phần trình bày của người khác, biết cho
ý kiến phản hồi mà không vội đánh giá, đồng thời hồi đáp trong quá trình giao
tiếp.
4.2. Phương pháp trò chơi.
Trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay
thực hiện những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò
chơi nào đó.
Lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: nếu biết tổ chức cho thanh thiếu
niên vui chơi một cách hợp lí, lành mạnh thì đều mang lại hiệu quả giáo dục.
Qua trò chơi, lớp trẻ không những được phát triển về các mặt trí tuệ, thể chất,
thẩm mĩ mà còn được hình thành nhiều phẩm chất và hành vi tích cực. Chính vì
vậy, trò chơi được sử dụng như một phương pháp dạy học quan trọng.

Qua trò chơi, học sinh có cơ hội để thể hiện những thái độ, hành vi. Chính
nhờ sự thể nghiệm này, sẽ hình thành được ở các em niềm tin và những thái độ
và hành vi tích cực, tạo ra động lực bên trong cho những hành vi ứng xử trong
cuộc sống. Mặt khác, qua trò chơi học sinh sẽ được rèn luyện khả năng quyết
định lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong mọi tình huống,
hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi.
Phương pháp trò chơi có thể tổ chức đầu tiết dạy để tạo tâm thế hứng thú
cho học sinh đi vào tìm hiểu bài học hoặc để kiểm tra những kiến thức đã học
qua, hoặc sử dụng ở cuối giờ để củng cố nội dung bài học. Nhưng giáo viên
cũng có thể thực hiện phương pháp trò chơi này ở giữa tiết học để nối kết các
8


hoạt động của bài học, tạo sự chuyển ngoặt sôi nổi, hợp lí. Đặc biệt, giáo viên có
thể tổ chức các trò chơi trong các bài ôn tập nhằm củng cố, khắc sâu và hệ thống
các kiến thức đã học theo những đơn vị nhất định.
Việc tổ chức trò chơi rất đa dạng, học sinh có thể tham gia chơi dưới
nhiều hình thức. Luật chơi phụ thuộc vào nội dung và mục đích, bởi cùng một
nội dung nhưng có thể chơi với nhiều cách khác nhau như: Ghép đáp án đúng,
ghép tranh đoán nội dung, giải ô chữ...
Người tổ chức chơi thông thường là giáo viên, nhưng trong một số trường
hợp giáo viên có thể gợi ý, khuyến khích các em xây dựng trò chơi.
Tuy nhiên, để học sinh làm tốt vai trò của mình, giáo viên phải có những
chỉ dẫn cụ thể như đưa ra hình thức chơi mà học sinh có thể áp dụng và hình
dung ra phải làm như thế nào, cách thiết kế câu hỏi,... Bên cạnh đó, giáo viên
cũng phải kiểm tra trước hệ thống câu hỏi học sinh các nhóm đã xây dựng để
giúp học sinh có những điều chỉnh đúng hướng, đáp ứng yêu cầu của bài học. Dĩ
nhiên là giáo viên cũng chỉ dẫn dắt, góp ý chứ không nên áp đặt hay cầm tay chỉ
việc để học sinh được phát huy khả năng sáng tạo của mình. Giáo viên có thể
cho học sinh các nhóm lần lượt triển khai trò chơi của mình rồi chốt lại cuối

cùng nhưng vẫn có thế xen kẽ phần thực hiện của học sinh với phần củng cố của
giáo viên.
Với phương pháp trò chơi này, không những việc học trở nên hứng thú
hơn mà học sinh còn được rèn luyện, nâng cao các kĩ năng như hợp tác, tổ chức,
dẫn dắt vấn đề, xử lí tình huống,... Nhưng khi tổ chức hình thức dạy học bằng
phương pháp trò chơi, giáo viên phải nghĩ ra các hình thức chế tài nhất định để
học sinh chơi trong luật, có ổn định trật tự bởi với mô hình lớp học trong trường
phổ thông của chúng ta hiện nay rất khó cho giáo viên tổ chức phương pháp này
mà không ảnh hưởng đến các lớp học xung quanh. Đây cũng là điều mà người
viết gặp khó khăn nhất khi tổ chức phương pháp dạy học bằng phương pháp trò
chơi, bởi khi đã chơi là có thắng - thua vì vậy học sinh dễ phấn khích và ồn ào
hơn các giờ học thông thường, ngoài ra cũng không ngoại trừ trường hợp học
sinh cố tình gây rối. Dù có những khó khăn nhất định nhưng phương pháp dạy
học này đã khắc phục phần nào nhược điểm học tập thụ động ở học sinh, là một
trong những phương pháp hiệu quả trong việc tạo hứng thú cho học sinh trong
giờ học môn Văn và rèn luyện KNS hữu hiệu cho các em.
Với văn bản "Chiều tối", giáo viên cũng có thể tổ chức trò chơi cho học
sinh trong phần củng cố bài. Chẳng hạn, giáo viên tổ chức trò chơi: Ai thông minh
hơn?
Luật chơi: Hai bạn học sinh quay lưng vào nhau, mỗi bạn có một chiếc bảng.
Khi GV đọc câu hỏi trắc nghiệm, hai học sinh sẽ ghi đáp án đúng vào bảng của mình.

9


Mỗi câu trả lời đúng được 2 điểm. Kết thúc, bạn nào đạt số điểm cao nhất sẽ giành
chiến thắng.
* Hệ thống câu hỏi trong trò chơi:
Câu 1: Xuất xứ của bài thơ Chiều tối?
A. Bài thứ 30/134 của tập Nhật kí trong tù.

B. Bài thứ 31/134 của tập Nhật kí trong tù.
C. Bài thứ 34/134 của tập Nhật kí trong tù.
Câu 2: Từ nào dưới đây được coi là nhãn tự" của bài thơ?
A. Thiếu nữ
B. Ma bao túc
C. Hồng.
Câu 3: Vẻ đẹp của người chiến sĩ cộng sản được thể hiện như thế nào trong bài
thơ?
A. Chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống, tinh thần lạc
quan cách mạng và bản lĩnh phi thường của người tù cộng sản.
B. Phong thái ung dung, tự chủ, bình thản trong hoàn cảnh khắc nghiệt.
C. Tấm lòng nhân đạo bao la đến quên mình, mọi vui buồn đều gắn với vui buồn
của nhân loại.
D. Cả 3 ý kiến trên.

Sau khi trò chơi kết thúc, giáo viên nhận xét, cho điểm và trao thưởng cho
người dành thắng lợi. Cuối cùng, thông qua trò chơi, giáo viên chốt lại kiến thức
bài học.
Như vậy, khi tham gia vào trò chơi, các em sẽ được hình thành kĩ năng
một số kĩ năng cần thiết như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng
giải quyết căng thẳng, biết ứng xử linh hoạt, quan hệ tích cực và hợp tác,...
4.3. Phương pháp đóng vai
Phương pháp đóng vai là một trong những phương pháp tối ưu, giúp học
sinh phát triển trí tuệ, phát huy các kĩ năng và thao tác tư duy thông qua hoạt
động "đóng vai", ứng xử tình huống.
Trong môn Ngữ văn, phương pháp đóng vai được thực hiện trong một số
nội dung học tập sau: vào vai một nhân vật kể lại câu chuyện đã học, chuyển thể
thành một văn bản văn học thành kịch bản sân khấu, xử lí một tình huống giao
tiếp giả định,...
Giáo viên khi sử dụng phương pháp đóng vai phải đảm bảo các yêu cầu:

- Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề giáo dục (chủ đề bài học),
phù hợp với lứa tuổi, trình độ học sinh và điều kiện, hoàn cảnh lớp học.
- Tình huống nên để mở.
- Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong tình huống của bài tập
để đóng vai không lạc đề.
- Nên khích lệ học sinh nhút nhát cùng tham gia.
10


Sử dụng phương pháp đóng vai sẽ giúp người học phát huy được tính tích
cực, tự giác, độc lập chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng kĩ xảo một cách
vững chắc, phát triển trí tuệ người học và đặc biệt hình thành những kĩ năng
sống tích cực cho học sinh.
Áp dụng phương pháp đóng vai cho văn bản "Chiều tối", giáo viên có thể
tổ chức một cuộc phỏng vấn ở cuối bài học, giúp học sinh củng cố lại kiến thức
đã học. Trong hoạt động này, giáo viên có thể cho học sinh đóng vai người
phỏng vấn:
+ HS 1: Theo bạn, bài thơ Chiều tối ra đời trong hoàn cảnh như thế nào?
+ HS 2: trả lời.
+ HS1: Trong 134 bài thơ trong tập Nhật kí trong tù, bài Chiều tối là bài thứ bao
nhiêu?
+ HS 2 trả lời.
+ HS 1: Cảm nhận của bạn khi đọc bài thơ ?
+ HS 2: Cảm nhận.
+ HS 1: Bạn thích nhất câu thơ nào trong bài thơ?
+ HS 2: Trả lời.
Kết thúc cuộc phỏng giáo viên nhận xét, chốt kiến thức.

Với cách thức trên, giáo viên không chỉ củng cố cho học sinh những kiến thức
cơ bản mà còn giúp cho giờ học không trở nên khô khan, nhàm chán, thụ động.

Đặc biệt, bằng phương pháp đóng vai, giáo viên sẽ giáo dục học sinh số kĩ năng
cơ bản như:
- Kĩ năng giao tiếp: Đóng vai đòi hỏi học sinh phải chủ động trong quá
trình học tập. Mặt khác, trong quá trình tham gia đóng vai, học sinh sẽ được
hình thành kĩ năng trong giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể,
từ đó giúp học sinh biết cách giao tiếp, ứng xử với bạn bè cùng trang lứa, với
những người xung quanh.
- Kĩ năng giải quyết tình huống: Thông qua đóng vai, học sinh thể hiện
nhận thức, thái độ của mình trong tình huống cụ thể và học sinh phải có cách
ứng xử sao cho phù hợp với tình huống đó. Đồng thời thông qua vai diễn, HS
được bộc lộ khả năng giao tiếp, khả năng tự giải quyết các vấn đề về sức khoẻ,
các tình huống trong cuộc sống.
- Kĩ năng thuyết trình: Thông qua việc hoá thân vào vai diễn, học sinh sẽ
trở lên tự tin hơn khi đứng trước đám đông. Nếu được thực hành nhiều, bản thân
học sinh sẽ tự rút ra kinh nhiệm cho bản thân để làm sao thuyết phục được người
nghe, để "truyền lửa" cho "khán giả" của mình.
- Kĩ năng nhận thức và cảm thông: Khi học sinh có thể hình dung và đặt
mình trong hoàn cảnh của người khác sẽ giúp các em hiểu và chấp nhận người
khác, có thể hiểu rõ cảm xúc và tình cảm của người khác và cảm thông với họ,
11


từ đó các em sẽ hình thành kĩ năng thể hiện sự cảm thông. Đây cũng là những kĩ
năng quan trọng, cần thiết trong cuộc sống mà các em có thể được hình thành
thông qua bài học.
Như vậy, việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực sẽ tạo điều kiện,
cơ hội cho học sinh được thực hành, trải nghiệm kĩ năng sống trong quá trình
học tập. Với cách tiếp cận này, sẽ không làm nặng nề, quá tải thêm nội dung bài
học mà ngược lại còn làm giờ học trở nên hứng thú, thiết thực và bổ ích với học
sinh.


4.4. Giáo án thể nghiệm
Tuần: 24
Tiết: 79
Ngày soạn:
Ngày dạy:
Đọc văn:
CHIỀU TỐI
( Hồ Chí Minh)
I. Mục tiêu bài dạy:
Giúp học sinh:
1. Kiến thức:
- Thấy được một vẻ đẹp của tâm hồn HCM: dù hoàn cảnh khắc nghiệt đến đâu
vn luôn hướng về sự sống và ánh sáng
- Cảm nhận được bút pháp tả ảnh ngụ tình vừa cổ điển, vừa hiện đại của bài thơ.
2. Kĩ năng:
Đọc hiểu bài thơ theo đặc trưng thể loại
3. Thái độ:
Lòng kính yêu lãnh tụ và tình yêu thiên nhiên, con người lao động.
4. Định hướng năng lực
- Năng lực hợp tác
- Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận.
- Năng lực giải quyết vấn đề.
II. Chuẩn bị
* Giáo viên:
- Soạn giáo án
- Phương pháp: phát vấn, đàm thoại, nêu vấn đề, gợi mở, thảo luận…
* Học sinh: chuẩn bị bài ở nhà
III. Tiến trình lên lớp:
1. Ổn định lớp

2. Kiểm tra bài cũ:
Đọc thuộc bài "Đây thôn vĩ dạ" và phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình ?

12


3. Bài mới
- GV giới thiệu bài mới.
Hoạt động của thầy và trò
Hoạt động 1: Tiểu dẫn.
- GV yêu cầu HS đóng vai với kĩ
thuật phỏng vấn:
+ HS 1: Theo bạn, bài thơ Chiều
tối ra đời trong hoàn cảnh như thế
nào?
+ HS 2: trả lời.
+ HS1: Trong 134 bài thơ trong
tập Nhật kí trong tù, bài Chiều tối
là bài thứ bao nhiêu?
+ HS 2 trả lời.
+ HS 1: Cảm nhận của bạn khi
đọc bài thơ ?
+ HS 2: Cảm nhận.
+ HS 1: Bạn thích nhất câu thơ
nào trong bài thơ?
+ HS 2: Trả lời.
- GV nhận xét, chốt kiến thức.
HS đọc 3 phần: phiên âm, dịch
nghĩa, dịch thơ
- GV yêu cầu Hs so sánh bản

phiên âm và dịch thơ?
- HS đối chiếu, so sánh.

Nội dung kiến thức

I. Tiểu dẫn:
- Hoàn cảnh sáng tác:
+ Tháng 8/1942 với danh nghĩa là đại biểu của
Việt Nam độc lập đồng minh hội và phân bộ qt
phản xâm lược của Việt Nam, HCM sang TQ để
tranh thủ sự viện trợ của thế giới
+ Sau nửa tháng đi bộ, vừa đến Túc Vĩnh - QT,
Người bị chính quyền TGT bắt giam vô cớ
-> Bác sáng tác bài thơ này khi Bác bị giải tù nhà
lao Tỉnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo
- Xuất xứ: là bài thơ 31 trong "Nhật kí trong tù"
được viết bằng chữ Hán.
- Đề tài: giải tù, chuyển lao
- So sánh bản phiên âm và dịch thơ:
+ Câu 2: "cô vân": chòm mây cô đơn-> chòm
mây=> mất chữ "cô"
"Mạn mạn": lững lờ -> Trôi nhẹ => mất
từ láy, mất vẻ phóng khoáng
+ Câu 3: "Thiếu nữ": cô gái trẻ trung, khỏe khắn,
hàm chứa thái độ trân trọng của người nói đối với
đối tượng được nói tới.
Dịch thơ:"cô em" -> giảm bớt thái độ trân trọng,
t/c suồng sã
-> Bản dịch thêm từ, tối
- GV: Xác định bố cục bài thơ?

- Bố cục: Bức tranh thiên nhiên (2 câu)
- HS xác định.
Bức tranh đời sống (2 câu)
Hoạt động 2: Đọc - hiểu văn bản II. Đọc - hiểu chi tiết:
- GV hỏi: Cảm nhận của anh (chị) 1. Bức tranh thiên nhiên khi chiều tối:
về bức tranh thiên nhiên trong hai a. Bức tranh thiên nhiên
câu thơ đầu?
- Thiên nhiên: chim về tổ
- HS cảm nhận.
chòm mây lững lờ trôi trên không
-> Không gian rộng lớn, thinh vắng trong thời
khắc cuối cùng của một ngày.
- GV: Cảnh vật được miêu tả bằng - Nghệ thuật:
bút pháp nghệ thuật gì?
+ Bút pháp ước lệ quen thuộc của thơ cổ:
- HS thảo luận, trả lời.
- "Chim bay về núi, tối rồi (Ca dao)
- "Chim hôm thoi thóp về rừng" (Truyện Kiều)
- "Ngàn mây gió quấn chim bay mỏi
Rặng liễu sương sa khách bước dồn"

13


- GV: Em có nhận xét gì về bức
tranh thiên nhiên buổi chiều tà?
- HS trình bày cảm nhận.
- GV chốt kiến thức.
- GV gợi mở: Bài thơ thuộc nhóm
những sáng tác được viết nên từ

những cuộc chuyển lao. Mà
chuyển lao với những người tù là
một cực hình. Bác đã bị giải đi từ
lúc "Gà gáy một lần đêm chửa
tan", phải trải qia "Năm mươi ba
cây số một ngày" trong tình cảnh
"xiềng xích thay dây trói". Đặt
những câu thơ trên trong cảnh ngộ
của một người tù, anh (chị) cảm
nhận được điều gì về vẻ đẹp tâm
hồn và nhân cách Hồ Chí Minh?
- GV hỏi: Bức tranh cuộc sống
con người được mở ra với hình
ảnh nào?
- HS phát hiện.
- GV chốt kiến thức, liên hệ mở
rộng.

+ Bút pháp chấm phá có sức gợi lớn
~ Không gian: cao rộng
~ Thời gian: buổi chiều
~ Cái hồn của cảnh vật:
▪ Chim mỏi về rừng: cảm giác mệt mỏi, giã
rời, buồn bã nhưng gợi nỗi khát khao đoàn tụ.
▪ Chòm mây: cô lẻ lững lờ trôi: gợi không gi
an cao rộng của trời chiều -> tạo tư thế ung
dung, thanh thản.
=> Dù không có một chữ "chiều" nhưng 2 câu thơ
gợi đúng cảnh 1 buổi chiều êm ả, giản dị nơi
miền sơn cước. Cảnh vật chiều buồn nhưng

không ảm đạm mà nên thơ, êm đềm, thanh cao,
khoáng đạt.
b. Tâm trạng, vẻ đẹp tâm hồn
+ Tình yêu thiên nhiên, luôn tìm đến sự hòa
hợp giữa con người và thiên nhiên nên giữa cảnh
và người có sự hòa hợp, cảm thông.
+ Tâm hồn Bác luôn hướng về sự sống
+ Bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ, bởi
nếu không có ý chí và nghị lực, nếu không có
phong thái ung dung và sự tự do hoàn toàn về
tinh thần thì không thể có những câu thơ cảm
nhận thiên nhiên sâu sắc và tinh tế như vậy trong
hoàn cảnh khắc nghiệt của tù đày.

2. Bức tranh đời sống khi chiều tối
a. Bức tranh đời sống:
+ Hình ảnh con người lao động: Cô gái xay ngô
(người lao động đang miệt mài người làm việc ->
toát lên vẻ trẻ trung, khỏe mạnh, đầy sức sống.
+ Không gian xóm núi ấm áp.
+ Thời gian: đêm tối nhưng bừng ánh lửa hồng.
-> Bức tranh chiều tối ấm áp, đáng quý, đáng yêu.
- GV: Những biện pháp nghệ thuật - Nghệ thuật:
nào được sử dụng trong hai câu
+ Lặp vòng - đảo ngữ: "ma bao túc - bao túc ma"
thơ cuối?
-> gợi lên nhịp điệu đều đều của vòng quay cối
- HS phát hiện.
say; động tác xay ngô nhịp nhàng, uyển chuyển,
- GV bình hình ảnh "lò than rực

khắc khoẳn của con người lao động -> tinh thần
hồng".
lao động kiên trì, bền bỉ của con gái xóm núi.
+ Lấy ánh sáng để tả buổi tối: ánh hồng của lò

14


than gợi cảm giác về bóng tối mênh mang bao
phủ xung quanh. Trời tối, người đi mới nhìn thấy
ánh sáng rực hồng đến thế.
- Chữ "hồng" được coi là nhãn tự, đem đến:
+ Ánh sáng -> xua tan bóng đêm
+ Hơi ấm -> xua tan giá lạnh
+ Niềm vui -> xua tan nỗi buồn hiu quạnh.
- GV nêu câu hỏi thảo luận: Từ hai
câu đầu đến hai câu cuối, mạch
thơ vận động, chuyển đổi thế nào?
- Hs thảo luận nhóm, hoàn thành
phiếu học tập.
Hai câu đầu
Hai câu sau
Khung cảnh
.................
thiên nhiên
Cảnh vật: trời, .................
mây, chim
muông
Không gian:
..................

núi rừng
Thời gian:
.................
chiều tà
- HS thảo luận theo bàn-> trình
bày.
- GV chia lớp thành 4 nhóm và
yêu cầu các em thảo luận trong
thời gian 5 phút.
Nhiệm vụ: Vẻ đẹp tâm hồn của Hồ
Chí Minh được thể hiện như thế
nào trong 2 câu thơ cuối?
- HS thảo luận nhóm, đại diên
nhóm trình bày.
- GV chốt lại một số ý và bình.

Hoạt động 3: Tổng kết
- HS khái quát giá trị nội dung và
nghệ thuật của bài thơ.

b. Vẻ đẹp tâm hồn của Bác
+ Tâm hồn yêu cuộc sống: phải có tâm hôn yêu
cuộc sống mới đưa những hình ảnh đời thường
mang đậm chất thơ.
+ Tâm hồn lạc quan: tâm trạng chuyển từ buồn
sang vui.
+ Tâm hồn nhân hậu: Người đã quên đi cảnh ngộ
của minh để cảm nhận cuộc sống, để đồng cảm,
chia sẻ với niềm vui, niềm hạnh phúc của những
người lao đông tuy vất vả nhưng tự do và tự chủ.

"Bài thơ Chiều tối thể hiện một tấm lòng nhân
đạo đạt tới mức quên mình".
III. Tổng kết:
1. Nội dung
Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách nghệ sĩ chiến sĩ Hồ Chí Minh: yêu thiên nhiên, yêu con
người, yêu cuộc sống; kiên cường vượt lên hoàn
cảnh, luôn ung dung, tự tại và lạc quan trong mọi

15


cảnh ngộ đời sống.
2. Nghệ thuật
Bài thơ đậm sắc thái nghệ thuật cổ điển mà
hiện đại.
- Ghi nhớ (SGK)

HS đọc ghi nhớ
4. Củng cố
GV tổ chức trò chơi:
- Tên trò chơi: Ai thông minh hơn?
- Luật chơi: Hai bạn học sinh quay lưng vào nhau, mỗi bạn có một chiếc bảng. Khi GV
đọc câu hỏi trắc nghiệm, hai học sinh sẽ ghi đáp án đúng vào bảng của mình. Mỗi câu
trả lời đúng được 2 điểm. Kết thúc, bạn nào đạt số điểm cao nhất sẽ giành chiến thắng.
* Hệ thống câu hỏi:
Câu 1: Xuất xứ của bài thơ Chiều tối?
A. Bài thứ 30/134 của tập Nhật kí trong tù.
B. Bài thứ 31/134 của tập Nhật kí trong tù.
C. Bài thứ 34/134 của tập Nhật kí trong tù.
Câu 2: Từ nào dưới đây được coi là nhãn tự" của bài thơ?

A. Thiếu nữ
B. Ma bao túc
C. Hồng.
Câu 3: Vẻ đẹp của người chiến sĩ cộng sản được thể hiện như thế nào trong bài
thơ?
A. Chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống, tinh thần lạc quan
cách mạng và bản lĩnh phi thường của người tù cộng sản.
B. Phong thái ung dung, tự chủ, bình thản trong hoàn cảnh khắc nghiệt.
C. Tấm lòng nhân đạo bao la đến quên mình, mọi vui buồn đều gắn với vui buồn của
nhân loại.
D. Cả 3 ý kiến trên.
5. Hướng dẫn về nhà
- Nắm vững kiến thức.
- Chuẩn bị: Từ ấy (Tố Hữu)

5. Kết quả đạt được.
Áp dụng những phương pháp dạy học tích cực vào giáo dục sống cho học
sinh qua đoạn trích "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lưu Quang Vũ, tôi đã
16


thu được những kết quả mong đợi. Giờ học Văn không còn nhàm chán khi học
sinh chủ động, tích cực, sáng tạo chiếm lĩnh tác phẩm. Học sinh đã vô cùng hào
hứng, các em phát biểu, bàn luận, tranh cãi,... và qua những hoạt động dạy học
các em đã tự rút ra được những kĩ năng sống cho riêng mình.
Rõ ràng, với những ưu điểm của các phương pháp dạy học tích cực, giờ
học Văn đã "chạm" đến tâm hồn các em, để các em biết sống, biết yêu, biết khát
khao, biết mơ ước.... Cô và trò cùng say sưa, cảm thấy hứng thú trong mỗi giờ
văn. Một giờ Văn là một trải nghiệm mới, mỗi giờ Văn đều khiến các em "sống"
thực sự. Môn Văn không còn là "gánh nặng" với các em, ngược lại văn học là

một phần tất yếu của cuộc sống.
Cụ thể: Tôi chọn 2 lớp có trình độ ngang nhau: Lớp 12B áp dụng việc
lồng ghép giáo dục kĩ năng sống vào giờ đọc hiểu đoạn trích "Hồn Trương Ba,
da hàng thịt" và lớp 12E không áp dụng sáng kiến. Kết quả cho thấy:
Ở lớp 12E - không áp dụng sáng kiến, giờ học trôi qua như gió thoảng
mây bay, bài giảng không lắng đọng trong tâm hồn các em, không day dứt,
không trăn trở, không rút ra cho mình những bài học về cuộc sống.
Ngược lại, ở lớp 12B, học sinh học bài sôi nổi, tích cực, chủ động chiếm
lĩnh kiến thức, đa số các em hiểu bài. Quan trọng nhất, từ bài học các em đã
được hình thành những kĩ năng sống cần thiết.
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng.
Đề tài cần có sự góp ý xây dựng để hoàn thiện nên rất cần sự đóng góp ý
kiến của đồng nghiệp và tổ chuyên môn.
Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh được thực hiện một cách đồng đều
ở các lớp, tổ chuyên môn phải lên kế hoạch và có phương hướng triển khai cụ
thể.
Giáo dục kĩ năng sống không chỉ qua một giờ đọc hiểu kịch cụ thể, cũng
không phải là việc làm trong ngày một, ngày hai mà nó phải trở thành một quá
trình thường xuyên, liên tục trong dạy học Ngữ văn. theo phương thức "mưa
dầm thấm lâu". Người giáo viên Ngữ văn phải luôn có ý thức lồng ghép kĩ năng
sống cho học sinh vào bài giảng, lựa chọn những phương pháp dạy học tích cực,
phù hợp với nội dung từng bài học để có kết quả cao nhất , qua đó phát huy tính
chủ động, sáng tạo của học sinh, hình thành những kĩ năng sống cần thiết qua
mỗi bài học.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận

17



Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một bộ phận quan trọng của giáo
dục nhà trường, nhằm hình thành cho học sinh ý thức, hành vi, thái độ, cách ứng
xử có văn hoá và khả năng ứng phó với những tình huống phức tạp của cuộc
sống. Trong bối cảnh xu hướng toàn cầu hoá, quốc tế hoá và sự phát triển mạnh
mẽ của nền kinh tế thị trường như hiện nay, việc giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn lúc nào hết.
Qua thực tiễn dạy học, đặc biệt khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực
và dạy văn bản "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" để giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh, tôi nhận thấy học sinh phát huy được nhiều mặt tích cực: tự định hướng
được hoạt động học tập, tự khám phá tích hợp, trình bày, tự chủ động trong hoạt
động học tập. Mặt khác, các em được rèn luyện nhiều kĩ năng sống cơ bản như:
kĩ năng ra quyết đinh và giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp và hợp tác, kĩ năng
nhận thức và cảm thông, kĩ năng tự học...
Các phương pháp dạy học tích cực đều lấy hoạt động của người học lam
trung tâm, tuy nhiên mỗi phương pháp có những điểm khả thủ và có những điểm
hạn chế riêng, vì vậy khi vận dụng phương pháp dạy học tích cực đòi hỏi giáo
viên phải hết sức linh hoạt, lựa chọn sao cho phù hợp với đặc trưng bài học,
năng lực học sinh, điều kiện áp dụng của từng thời điểm.
Để hình thành được kĩ năng sống cho học sinh, đòi hỏi giáo viên phải có
khả năng tư duy, nghiên cứu, khai thác nội dung tư tưởng của tác phẩm, trình độ
chuyên môn sâu sắc, kinh nghiệm dồi dào, giáo dục học sinh qua từng bài, tích
luỹ kiến thức cho học sinh chứ không chỉ dạy một lần duy nhất hay một bài học
duy nhất.
Có ý kiến cho rằng, dạy kĩ năng sống cũng như dạy một đứa trẻ học bơi,
phải kiên trì, tỉ mỉ từng bước một. Giáo viên phải đóng một vai trò quan trọng
trong các hoạt động của học sinh, đánh thức năng lực tiềm năng trong mỗi học
sinh, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
qua các giờ học Ngữ văn cần theo đặc trưng của môn học và giáo dục theo con
đường "mưa dầm thấm lâu" nhẹ nhàng, tự nhiên, không gượng ép theo kiểu sống

sượng", nhồi nhét hoặc giáo viên rút ra kĩ năng sống "hộ" học sinh.
2. Khuyến nghị
- Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo: Tổ chức, triển khai rộng rãi các đề tài
cấp Bộ về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh; xây dựng nội dung chương trình
giáo dục kĩ năng sống một cách thống nhất để các nhà trường thực hiện một
cách đồng bộ, tránh tình trạng mỗi trường dạy một kiểu.
- Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo: Xây dựng kế hoạc thường kì, chỉ đạo,
kiểm tra công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, chú trọng công tác giáo
dục kĩ năng sống như công tác giáo dục kiến thức các môn văn hoá. Cần có kế
18


hoạch tập huấn thường xuyên hơn cho giáo viên về việc tích hợp nội dung giáo
dục kĩ năng sống với việc giảng dạy các môn văn hoá.
- Đối với Trung tâm GDTX: Quán triệt công tác giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh, coi đây là một rrong những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của
Trung tâm trong từng năm học. Đồng thời tạo điều kiện cho cái giải pháp trong
sáng kiến kinh nhiệm được thực hiện một cách triệt để, đồng bộ, nghiêm túc
nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua môn
Ngữ văn.
Với những điều trình bày trên, tôi mong có thể đóng góp một phần nhỏ bé
vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy Ngữ văn trong Trung tâm Giáo dục
thường xuyên nói riêng và giảng dạy Ngữ văn nói chung. Mặc dù rất cố gắng
nhưng ắt hẳn sẽ không tránh khỏi những sai sót, tôi rất mong nhận được sự đóng
góp của quý thầy cô để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành
cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn ở trường THPT, Nhiều tác giả.
NXB Giáo dục, 2010.

19


2. Những giá trị sống cho tuổi trẻ, Diane, NXB TP.HCM, 2000.
3. Một số kĩ năng cần thiết dành cho học sinh THPT, NXB Giáo dục, 2011.

20


21



×