Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Thu hoạch hồ sơ hành chính số 12 HVTP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.21 KB, 13 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ
----------

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
MÔN: KỸ NĂNG CƠ BẢN CỦA LUẬT SƯ KHI THAM GIA
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC HÀNH CHÍNH
HỒ SƠ TÌNH HUỐNG SỐ 12

Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Tuyết
Người bị kiện:

Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch tỉnh Gia Lai

Họ và tên :
Lớp

:

SBD

:

HÀ NỘI - 2019


MỤC LỤC

2




BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
HỒ SƠ TÌNH HUỐNG HÀNH CHÍNH SỐ LS.HC 12/DA1
Họ và tên:
Mã học viên:
Lớp:
Vai diễn trong buổi diễn án: Luật sư cho người khởi kiện
I. NỘI DUNG SƠ BỘ
1. Đối tượng khởi kiện: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP của Chánh Thanh tra sở Văn
hóa, Thể thao và du lịch tỉnh Gia Lai, ngày 10/03/2014.
2. Người tham gia tố tụng:
- Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Tuyết
+ Địa chỉ: 241 Lê Lai, tổ 9, phường Đông Lân, thành phố P, tỉnh Gia Lai;
+ Người đại diện theo ủy quyền: Ông Mai Anh Tuấn, Địa chỉ: Số 33 đường
Minh Khai, thành phố P, tỉnh G.L.
- Người bị kiện: Chánh Thanh tra sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Gia
Lai
+ Địa chỉ: Số 6 Trần Hưng Đạo, thành phố P, tỉnh Gia Lai
+ Người đại diện theo ủy quyền: Ông Ông Dương Văn Thành
+ Chức vụ: Phó chánh thanh tra sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai.
- Người làm chứng
+ Ông Nguyễn Văn Thường
+ Bà Nguyễn Thị Lành
+ Ông Phan Văn
+ Bà Nguyễn Thị Thùy
3. Nội dung khởi kiện: Yêu cầu hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP của Chánh Thanh tra
sở Văn hóa, Thể thao và du lịch tỉnh Gia Lai, ngày 10/03/2014.


II. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN
Ngày 23/12/2013, Đoàn Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L đã tiến
hành kiểm tra hoạt động kinh doanh Nhà nghỉ Hoàng Lan là hộ kinh doanh dịch vụ nhà
trọ bình dân tại tổ 9, phường Đông Lân, thành phố P, tỉnh G.L do bà Nguyễn Thị Tuyết
làm chủ. Phát hiện tại phòng trọ số 11 có ông Nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn Thị
3


Lành không có giấy kết hôn đang quan hệ vợ chồng (quan hệ tình dục), phòng số 9 có
ông Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy không có giấy kết hôn đang ở chung phòng xem ti
vi, đoàn kiểm tra đã lập Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC.
Ngày 10/3/2014 Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L ra Quyết
định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo
số 23/QĐ-XPHC xử phạt bà Nguyễn Thị Tuyết theo khoản 1 Điều 25 Nghị định
167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ.
Ngày 24/3/2014, bà Tuyết gửi Đơn kiếu nại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính
số 23/QĐ-XPHC, ngày 10/3/2014 đến Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Ngày 11/4/2014, bà Tuyết khiếu nại lần 2 đến Chủ tịch UBND tỉnh G.L, Giám đốc Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L, Giám đốc công an tỉnh G.L.
Ngày 20/4/2014, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 01/QĐTTr về việc giải quyết đơn khiếu nại xử phạt vi phạm hành chính (lần đầu). Theo đó giữ
nguyên Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XPHC ngày 10/3/2014 của
Chánh thanh tra Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch tỉnh G.L.
Ngày 02/5/2014, bà Tuyết làm Đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án Nhân dân tỉnh G.L hủy
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XPHC ngày 10/3/2014 của Chánh
thanh tra Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch tỉnh G.L.
Yêu cầu của người khởi kiện:
Hủy toàn bộ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XPHC ngày
10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch tỉnh G.L.
Ý kiến của người bị kiện:

Không đồng ý hủy quyết định số 44/QĐ-XPHC về việc xử lý vi phạm hành chính
về bảo vệ môi trường.

4


III. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA
ST
T
1

Vấn đề hỏi

Hỏi ai

Hành vi vi Người
phạm

kiện

Như thế nào?
bị 1.Hoạt động mại dâm được xác định dựa trên
những căn cứ nào?
2. Vậy ông có căn cứ nào cho rằng ông Thường,
bà Lành; ông Văn và bà Thùy có hành vi mua
dâm – bán dâm như ông vừa nêu trên?
3. The o ông, hành vi quan hệ tình dục đã được
coi là hành vi mại dâm hay chưa?
4. Vậy theo ông thì nam và nữ ngồi xem ti vi
cùng với nhau trong một phòng kín có được coi

là hoạt động mại dâm không?
5. Nếu ông nói là cần thời gian để xác minh làm
rõ, vậy ông cho biết: các ông xác minh làm rõ
bằng cách nào, và kết quả như thế nào?
6. Theo biên bản vi phạm hành chính, ông chỉ
dựa vào việc bà Lành và ông Thường có quan hệ
tình dục, bà Thùy và ông Văn ngồi xem ti vi để
kết luận đó là hành vi, hoạt động mại dâm có
đúng pháp luật không?
7. Vậy ông cho biết, Trong xử phạt vi phạm hành
chính, trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan
nhà nước hay của người vi phạm?
8. Theo điểm Đ khoản 1 Điều 3 luật xử lý vi
phạm hành chính 2012 thì: “Người có thẩm
quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi
phạm hành chính”. Ông có thừa nhận trách
nhiệm chứng minh vi phạm hành chính thuộc về
mình hay ko?
9. Khi phát hiện và xác định phòng 11 có Ông
Thường và Bà Lành không có Giấy kết hôn,
đang quan hệ vợ chồng (quan hệ tình dục),
5


phòng số 9 có anh Văn và chị Thùy không có
Giấy kết hôn đang ở chung phòng xem tivi. Đoàn
thanh tra có lập biên bản vi phạm hành chính
không?
10. Lập biên bản hành chính với ai? Ngoài ra còn
lập với ai nữa không?

1.Ông phát hiện hành vi vi phạm của bà Tuyết
vào thời gian nào?
2.Ngày có hiệu lực của Nghị định 167/2013/NĐCP là ngày nào?
3. Việc áp dụng Nghị định 167/2013/NĐ-CP với
hành vi vi phạm diễn ra trước thời điểm nghị
định có hiệu lực có đúng không?
2

Căn cứ

Người
kiện

bị 4. Nghị định 167/2013/NĐ-CP có mức xử phạt
với hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm tạo điều
kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh
có điều kiện về an ninh trật tự để hoạt động mại
dâm có mức xử phạt nặng hơn hay nhẹ hơn Nghị
định 73/2010/NĐ-CP?
5.

Như

vậy,

việc

áp

dụng


Nghị

định

167/2013/NĐ-CP với hành vi vi phạm diễn ra
trước thời điểm nghị định có hiệu lực như vậy là
đúng hay sai?
1. Ông cho biết, Theo Nghị định 167/2013/NĐCP mà các ông căn cứ, hành vi thiếu tinh thần
trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi
3

Thẩm quyền

Người
kiện

bị dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh,
trật tự để hoạt động mại dâm thuộc thẩm quyền
xử phạt hành chính của ai?
2. Vậy việc ông Chánh thanh tra Sở ra quyết định
xử phạt với hành vi này là đúng hay sai?

4

Trình tự thủ Người
tục

kiện


bị 1. Đề nghị ông nêu rõ ngày lập BB xử lý VPHC
và ngày ra QĐ xử lý VPHC?
6


2. Đề nghị ông cho biết vụ việc này có nhiều tình
tiết phức tạp hay đặc biệt nghiêm trọng không?
3. Như vậy, ông có xin gia hạn thời gian để điều
tra, thu thập thêm chứng cứ xác minh hay
không? Ông xin ai?
4. Các ông có ban hành Tờ trình số 02/TT-TTr
ngày 16/01/2014 hay không? Tờ trình do ai ký?
5. Từ ngày lập biên bản đến ngày ra Quyết định
XPVPHC là bao nhiêu ngày?
6. Ông cho tôi biết, Việc ra quyết định XPVPHC
quá thời hạn so với Ngày lập BB XPVPHC là
đúng hay sai?
1.Cơ sở kinh doanh của bà Tuyết đăng ký kinh
doanh dưới hình thức gì?
5

Chủ thể bị Người
xử phạt

kiện

bị 2.Chủ thể vi phạm là hộ kinh doanh do bà Tuyết
làm chủ hay là chính bà Tuyết?
3.Quyết định ghi rõ bà Tuyết là người bị phạt là
không đúng chủ thể đúng không?

1. Ông cho biết Sở VHTT&DL tỉnh GIA LAI. đã
mời bà Tuyết lên làm việc bao nhiêu lần?

6

Người khởi 2. Phía sở VHTT&DL tỉnh GIA LAI. đã mời bà
kiện

Tuyết lên làm việc bằng hình thức nào?
3. Ông cho biết, bà Tuyết nhận được Quyết định
xử phạt VPHC vào thời gian nào?

7


IV. LUẬN CỨ BẢO VỆ NGƯỜI KHỞI KIỆN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc

BẢN LUẬN CỨ

Kính thưa Hội đồng xét xử;
Kính thưa vị đại diện Viện kiểm sát
Thưa các vị Luật sư đồng nghiệp và toàn thể các quý vị có mặt tại phiên tòa
ngày hôm nay.
Tôi là luật sư A, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Căn cứ vào đề nghị của bà
Nguyễn Thị Tuyết, và được sự chấp thuận của tòa án, tôi tham gia phiên tòa hôm nay
với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện trong vụ án
hành chính sơ thẩm này.
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và căn cứ vào diễn biến phiên tòa hôm nay, tôi xin trình

bày quan điểm của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện là
bà Nguyễn Thị Tuyết như sau:
Trước hết, Đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính này là Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh Gia Lai đối với bà Nguyễn Thị Tuyết đã làm ảnh hưởng trực tiếp
đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị Tuyết.Theo quy định tại khoản 1
điều 30 và điểm k khoản 4 điều 32 Luật tố tụng hành chính, khiếu kiện này thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh GIA LAI. Bên cạnh đó, theo quy định
tại điểm a, khoản 3, điều 116 Luật tố tụng hành chính và điểm a, khoản 1 Điều 12
Nghị quyết 02 thì việc khởi kiện của bà Tuyết được thực hiện trong thời hiệu khởi
kiện. Do vậy, phiên tòa ngày hôm nay diễn ra là có cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn.
Kính thưa Hội đồng xét xử! Việc bà Nguyễn Thị Tuyết yêu cầu hủy toàn bộ Quyết
định số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch tỉnh Gia Lai là hoàn toàn có căn cứ, được thể hiện ở các nội dung sau

8


Thứ nhất, Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
Chương 3 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính không quy định thẩm quyền của Chánh thanh tra sở không có thẩm quyền xử
phạt với hành vi thiếu trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh
doanh có điều kiện về an ninh, trật tự tổ chức hoạt động mại dâm.
Điều 69 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định về thẩm quyền xử phạt hành chính của
Thanh tra như sau:
“Thanh tra Văn hóa, Thể thao và Du lịch có thẩm quyền xử phạt theo quy định của
Luật xử lý vi phạm hành chính đối với những hành vi quy định tại Mục 4 Chương II”
Cụ thể, Mục 4, chương II là các điều quy định về xử phạt trong lĩnh vực bạo lực gia
đình và Điều 25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP không phải là một trong những hành vi
quy định tại Mục 4 Chương II của Nghị định 167/2013/NĐ-CP.

Quyết định số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 (Bút lục 5), người ban hành quyết định là
ông Trần Ngọc Minh – Chánh thanh tra sở Văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh G.L.
Từ những căn cứ, phân tích trên, Quyết định 23/QĐ-XP được ban hành không đúng
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
Thứ hai, về trình tự thủ tục xử lý vi phạm hành chính
Theo quy định tại Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 về thời hạn ra
quyết định xử phạt vi phạm hành chính:
“1. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính.
Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp …. thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa
là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản.
Trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng có nhiều tính tiết phức tạp và thuộc trường
hợp giải trình theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của luật này mà
có cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì người có thẩm quyền giải
quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia
hạn, việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn không được quá 30 ngày.”
2. Quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này, người có thẩm quyền xử phạt không
ra quyết định xử phạt…”.
Theo Điều 65 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 về những trường hợp không
ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính:
c) Hết thời hạn ra quyết định xử phạt….”
9


Căn cứ hồ sơ vụ án, Biên bản vi phạm hành chính được lập ngày 23/12/2013 (Bút lục
7), Quyết định số 23/QĐ-XP về việc xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động văn
hóa, thể thao và du lịch được ban hành ngày 10/3/2014 (Bút lục 5). Từ ngày
23/12/2013 đến ngày 10/3/2014 là 80 ngày.
Do đó, Quyết định số 23/QĐ-XP về việc xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động
văn hóa, thể thao và du lịch đã ban hành quá thời hạn ra quyết định xử lý vi phạm

hành chính.
Căn cứ Khoản 2 Điều 66, Điểm c khoản 1 Điều 65 Luật xử lý vi phạm hành chính, Cơ
quan nhà nước có thẩm quyền không được ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Như vậy, Quyết định số 23/QĐ-XP được ban hành quá thời hạn xử phạt vi phạm hành
chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
Ngoài ra, Biên bản 11/BB-VPHC ngày 23/12/2013 không ghi đầy đủ thông tin, cụ thể:
Không ghi thông tin của người chứng kiến, thông tin về người xử phạt không đầy đủ
(không có giấy CMND, thông có thông tin giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh),
không ghi cụ thể căn cứ xử phạt.Một biên bản với những vi phạm về hình thức và nội
dung như vậy không thể được sử dụng làm căn cứ để ban hành ra Quyết định xử phạt
vi phạm hành chính được.
Thứ ba, về Chủ thể bị xử phạt vi phạm hành chính trong Quyết định số 23/QĐXP:
Theo Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC ngày 23/12/2013 chủ thể bị lập
biên bản là Cơ sở kinh doanh nhà trọ Hoàng Lan do bà Tuyết làm chủ. (Bút lục 7).
Theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh hộ kinh doanh cá thể (Bút lục 10) Cơ sở kinh
doanh nhà trọ Hoàng Lan đã đăng ký kinh doanh dưới hình thức Hộ kinh doanh.
Quyết định 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch Điều 1 quy định chủ thể bị xử phạt là Bà Nguyễn Thị Tuyết chứ không phải
Hộ kinh doanh do bà Tuyết làm chủ là sai quy định của pháp luật, không đúng người,
không đúng hành vi vi phạm.
Từ những phân tích trên, Quyết định 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 đã xử phạt không
đúng chủ thể vi phạm.
Thứ tư, về căn cứ pháp lý ban hành Quyết định số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014:
Điều 72 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định:
10


“Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 28 tháng 12 năm 2013”.
Thời điểm phát hiện ra hành vi của cơ sở kinh doanh nhà trọ Hoàng Lan là ngày là
ngày 23/12/2013, Nghị định 167/2013/NĐ-CP chưa có hiệu lực thi hành.

Điều 73 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định:
“1. Đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã
hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia
đình xảy ra trước ngày Nghị định này có hiệu lực đang xem xét, giải quyết, thì áp
dụng các quy định có lợi cho cá nhân, tổ chức vi phạm.”
Cùng hành vi thiếu trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh
doanh có điều kiện về trật tự, an ninh để tổ chức hoạt động mại dâm, Nghị định
167/2013/NĐ-CP có mức xử phạt nặng hơn Nghị định 73/2010/NĐ-CP quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội. (Cụ thể tại
Điều 22, Nghị định 73, Hành vi cung cấp địa điểm cho hoạt động mại dâm nhưng
chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị phạt từ 500.000 đồng đến 1.500.000
đồng)
Vì vậy, căn cứ áp dụng nghị định 167/2013/NĐ-CP để xử phạt vi phạm hành chính với
cơ sở kinh doanh của bà Tuyết là không đúng quy định của pháp luật về áp dụng pháp
luật.
Từ những phân tích trên, căn cứ ban hành Quyết định 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 là
sai căn cứ pháp lý theo quy định về áp dụng pháp luật của pháp luật Việt Nam.
Thứ năm, về nội dung của quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XP
Điều 3 Pháp lệnh phòng chống mại dâm năm 2003 quy định:
“1. Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc
lợi ích vật chất khác.
2. Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người
bán dâm để được giao cấu.”
Trong Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC ngày 23/12/2013 (Bút lục 7) đã
ghi nhận các hành vi vi phạm hành chính như sau:
“Tại thời điểm kiểm tra nhà trọ Hoàng Lan, phòng 11 có ông Nguyễn Văn Thường và
bà Nguyễn Thị Lành không có giấy kết hôn đang quan hệ vợ chồng (quan hệ tình

11



dục), phòng số 9 có ông Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy không có giấy chứng nhận
đăng ký kết hôn đang ngồi xem ti vi.”
Trong suốt quá trình xử lý vi phạm hành chính, Thanh tra sở tài nguyên và môi trường
không thu thập chứng cứ để chứng minh ông Thường, bà Lành có hoạt động mại dâm.
Tức là có yếu tố mua bán, được trả giá và thanh toán bằng tiền hoặc lợi ích vật chất
khác. Cơ quan thanh tra chỉ dựa vào hành vi có một nam một nữ có quan hệ tình dục
đã khẳng định đó là quan hệ mại dâm là chưa đủ chứng cứ. Hơn nữa tại phòng số 9
ông Văn và bà Thùy chỉ đang ngồi xem ti vi cùng nhau thì đâu thể khẳng định là có
hoạt động mại dâm. Hơn nữa, tại bản tường trình, ông Thường, bà Lành đều khẳng
định có đăng ký kết hôn, ông Văn bà Thùy có làm đám hỏi nhưng do ông Ngoại mất
nên phải hoãn (bút lục 31, 32, 33).
Hơn nữa điểm đ khoản 1 Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định về
nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính quy định như sau:
“đ) Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính.”
Như vậy, trách nhiệm chứng minh có hành vi vi phạm là của Thanh tra sở Văn hóa,
thể thao và du lịch. Việc bà Tuyết có thừa nhận có hành vi vi phạm không phải là
chứng cứ để xử phạt vi phạm hành chính đối với bà Tuyết.
Hơn nữa, nhiều lần phía Sở VH,TT & DL nhắc đến việc các ông bà Thường, Lành,
Văn, Thùy không xuất trình được đăng ký kết hôn khi kiểm tra. Tại bút lục số 44,
Biên bản lấy lời khai Ông Dương Văn Thủy – Phó Chánh thanh tra Sở VH,TT & DL,
ông Thủy khai rằng Theo Thông tư hướng dẫn số 33 của Bộ công an ngày 5/10/2010
thì nghề cung cấp dịch vụ lưu trú phải bố trí phòng nghỉ nam nữ riêng trừ khi là vợ
chồng. Dường như là phía Sở VH,TT & DL tỉnh Gia Lai đã sáng tạo thêm điều này,
chứ trong Thông tư 33 không hề có quy định nào như vậy.
Từ những căn cứ, lý lẽ trên, hành vi của ông Thường, bà Lành và ông Văn, bà Thùy
không phải là hoạt động mại dâm. Từ đó, cơ sở kinh doanh nhà trọ Hoàng Lan của bà
Tuyết không vi phạm quy định về thiếu trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi
dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm.
Vì vậy, Quyết định số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 xử phạt bà Tuyết về hành vi trên là

không đúng, không có hành vi vi phạm.
Kính thưa HĐXX, từ những căn cứ, lỹ lẽ trên, Quyết định số 23/QĐ-XP về việc xử lý
vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch là quyết định hành
12


chính trái pháp luật về cả thẩm quyền, thủ tục và nội dung. Do vậy, tôi kính đề nghị
HĐXX tuyên hủy toàn bộ Quyết định số 23/QĐ-XP về việc xử lý vi phạm hành chính
trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tinh G.L.
Trên đây là toàn bộ quan điểm giải quyết vụ việc của tôi, xin chân thành cảm ơn
HĐXX đã chú ý lắng nghe!

13



×