Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Sự tham gia của phụ nữ dân tộc thiểu số vào khu vực nhà nước Nghiên cứu trường hợp cồng đồng Ba-na và Gia-rai ở tỉnh Kon Tum

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 133 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------

LƢU THỊ THÚY

SỰ THAM GIA CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀO
KHU VỰC NHÀ NƢỚC: NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP CỘNG ĐỒNG
BA-NA VÀ GIA-RAI Ở TỈNH KON TUM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Dân tộc học

Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Lƣu Thị Thúy, học viên cao học chuyên ngành Dân tộc học khóa
QH-2010, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội. Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi tiến hành.
Các dữ liệu nghiên cứu là kết quả tôi thu thập đƣợc trong quá trình nghiên
cứu thực địa. Các trích dẫn và tham khảo từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau
đều đƣợc chú thích đầy đủ. Tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn về bất cứ sai sót
nào (nếu có) trong luận văn này.
Hà Nội, tháng 11 năm 2015
Học viên

Lưu Thị Thúy


LỜI TRI ÂN


Nghiên cứu “Sự tham gia của phụ nữ dân tộc thiểu số vào khu vực Nhà
nƣớc: Nghiên cứu trƣờng hợp cộng đồng Ba-na và Gia-rai ở tỉnh Kon
Tum” là hợp phần của một dự án tài trợ nhỏ đƣợc triển khai năm 2012 trong
khuôn khổ “Chƣơng trình Lãnh đạo nữ Cambridge - Việt Nam”, do Bộ Ngoại
giao Việt Nam và Chƣơng trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) tổ chức.
Để hoàn thành luận văn này, trƣớc hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Hƣơng - chủ trì dự án kiêm giáo viên hƣớng dẫn đã
tạo điều kiện cho tôi đƣợc tham gia kết hợp thu thập dữ liệu thực địa, cũng
nhƣ sử dụng một số kết quả nghiên cứu vào quá trình phân tích, viết lên công
trình.
Nghiên cứu này sẽ khó khả thi nếu nhƣ không đón nhận đƣợc sự hỗ trợ
nhiệt tình và quý báu của các ban ngành đoàn thể hữu quan tại tỉnh Kon Tum.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các cán bộ công chức, viên chức đã dành thời gian
tham gia trả lời phỏng vấn nghiên cứu. Đặc biệt, tấm tình nồng hậu của bà
con tại các buôn làng nghiên cứu và những bữa cơm ấm cúng gia đình của các
“anh nuôi” cán bộ chiến sĩ đã giúp tôi vợi bớt nỗi cô quạnh trong những ngày
điền dã nơi cao nguyên xa xôi.
Cuối cùng nhƣng không kém phần quan trọng là nhóm chuyên gia cố vấn
kỹ thuật và các điều phối viên chƣơng trình “Dự án Nâng cao năng lực lãnh
đạo cho phụ nữ trong khu vực Nhà nƣớc trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế” (EOWP) đã tạo điều kiện cho tôi đƣợc tham gia các khóa tập huấn kỹ
năng nghiên cứu hữu ích. Xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................ 3
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ....................................................................... 4
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 4
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 5
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài .................................................................... 8

3. Hạn chế của nghiên cứu ................................................................................ 9
4. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 9
5. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 10
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ..... 111
1.1 Tổng quan về tình hình nghiên cứu. ....................................................... 111
1.1.1 Các nghiên cứu về Tây Nguyên trƣớc và sau năm 1975. .................... 111
1.1.2 Phát triển nguồn lực của cộng đồng các dân tộc thiểu số .................... 144
1.1.3 Thực trạng tham chính của phụ nữ ........................................................ 17
1.2 Các khái niệm công cụ ............................................................................ 255
1.2.1 Khái niệm nguồn nhân lực ..................................................................... 25
1.2.2 Khái niệm về khu vực Nhà nƣớc. .......................................................... 26
1.2.3 Định nghĩa về cán bộ, công chức, viên chức. ........................................ 27
1.2.4 Văn hóa tộc ngƣời .................................................................................. 30
1.2.5 Định nghĩa giới và bình đẳng giới .....................................33_Toc433018164
1.3 Hƣớng tiếp cận lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu ............................. 35
1.3.1 Hƣớng tiếp cận lý thuyết ........................................................................ 35
1.3.2 Phƣơng pháp và kỹ thuật nghiên cứu ..................................................... 37
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NỮ DÂN TỘC THIỂU
SỐ BA-NA, GIA-RAI THAM GIA TRONG KHU VỰC NHÀ NƢỚC TẠI
TỈNH KON TUM ............................................................................................ 41
2.1 Khái quát đặc điểm địa lý - kinh tế - xã hội tỉnh Kon Tum ...................... 41
1


2.1.1 Đặc điểm tự nhiên ................................................................................ 411
2.1.2 Cơ cấu dân số - tộc ngƣời .................................................................... 411
2.1.3 Cơ cấu lao động...................................................................................... 45
2.2 Thực trạng phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia khu vực Nhà nƣớc. ............ 50
2.3 Những động lực thu hút và cơ hội việc làm trong khu vực Nhà nƣớc của
phụ nữ Ba-na, Gia-rai tại Kon Tum ................................................................ 56

2.3.1 Động lực thu hút ................................................................................... 600
2.3.2 Cơ hội tiếp cận các vị trí công việc Nhà nƣớc ....................................... 65
2.3.2.1 Tiếp cận qua các chính sách của Nhà nƣớc ........................................ 65
2.3.2.2 Tiếp cận cơ hội qua nhà thờ ................................................................ 68
2.3.2.3 Tự thân vận động ................................................................................ 69
2.3.2.4 Tiếp cận qua mối quan hệ thân quen................................................. 711
2.4 Lựa chọn ngành nghề ................................................................................ 74
Chƣơng 3: TRẢI NGHIỆM VÀ RÀO CẢN CỦA PHỤ NỮ BA-NA, GIA-RAI
THAM GIA KHU VỰC NHÀ NƢỚC TẠI TỈNH KON TUM ..................... 79
3.1 Trải nghiệm liên tộc ngƣời ........................................................................ 79
3.1.1 Đối với tộc đa số: ngƣời Kinh ................................................................ 79
3.1.2 Đối với các tộc thiểu số khác ................................................................. 87
3.2 Ƣu lợi từ sự tham gia khu vực Nhà nƣớc.................................................. 89
3.3 Những rào cản đối với phụ nữ dân tộc thiểu số khi tham gia khu vực Nhà
nƣớc ................................................................................................................. 92
3.3.1 Trở ngại từ gia đình và xã hội .............................................................. 922
3.3.2 Những trở ngại từ tâm lý tộc ngƣời ....................................................... 99
3.3.3 Trở ngại từ kinh tế còn khó khăn ....................................................... 1033
KẾT LUẬN. ................................................................................................ 1077
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 11313
PHỤ LỤC ẢNH, BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH KON TUM ........................... 1233
2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CBCC

: Cán bộ công chức


VC

: Viên chức

ĐHCĐ

: Đại học, Cao đẳng

DTTS

: Dân tộc thiểu số

HĐND

: Hội đồng nhân dân

KHHGĐ

: Kế hoạch hóa gia đình

KVNN

: Khu vực nhà nƣớc

NGOs

: Tổ chức phi lợi nhuận

NNL


: Nguồn nhân lực

TP

: Thành phố

UBND

: Ủy ban nhân dân

3


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1: Dân số trung bình phân theo địa phƣơng (tính sơ bộ đến năm 2011).
Bảng 2.2. Dân số nữ trung bình phân theo địa phƣơng (tính sơ bộ đến 2011).
Bảng 2.3: Dân số tại các địa bàn thực hiện nghiên cứu.
Bảng 2.4: Dân số và nguồn lao động của tỉnh Kon Tum.
Bảng 2.5: Cơ cấu trình độ văn hoá của nguồn nhân lực (%).
Bảng 2.6: Tỷ lệ cán bộ công chức trong các cơ quan hành chính Nhà nƣớc tỉnh
Kon Tum (tính đến ngày 30/12/2011).
Bảng 2.7: Tỷ lệ cán bộ, viên chức DTTS trong các đơn vị sự nghiệp của nhà
nƣớc tỉnh Kon Tum (tính đến ngày 30/12/2011).
Bảng 2.8: Tỷ lệ Cán bộ công chức cấp xã tại tỉnh Kon Tum, tính đến ngày 157-2012.
Bảng 2.9: Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cấp tỉnh, huyện tại
tỉnh Kon Tum.
Bảng 2.10: Chuyển biến về chất lƣợng của công chức hành chính.
Bảng 2.11: Chuyển biến về chất lƣợng của cán bộ, công chức phƣờng, xã.
Bảng 2.12: Tỷ lệ cán bộ công chức nữ dân tộc thiểu số cấp xã.
Bảng 2.13: Tiền lƣơng, thƣởng của các doanh nghiệp năm 2009.

Bảng 2.14: Bảng thống kê cán bộ công chức tỉnh Kon Tum phân theo các dân
tộc.
Biểu đồ 2.1: Biểu đồ cơ cấu theo dân tộc tại tỉnh Kon Tum.
Biểu đồ 2.2: Biểu đồ số thí sinh cử đi đào tạo cử tuyển giai đoạn 1999-2010.

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Với tỷ lệ phụ nữ làm việc trong hệ thống chính trị và trong Đảng ủy các cấp
hiện nay còn rất thấp, nhất là nữ dân tộc thiểu số. Sự tham gia của nữ giới hiện
nay không đáp ứng đƣợc bất kỳ mục tiêu nào do Nhà nƣớc đặt ra”. Đó là phát
biểu của Thứ trƣởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban dân tộc Hoàng Xuân Lƣơng tại
tọa đàm “Giải pháp tăng tỷ lệ cán bộ nữ, nữ dân tộc thiểu số tham gia trong hệ
thống chính trị cơ sở khu vực phía Bắc”, ngày 14-5-2015 tại Hà Nội. Lời nhận
định gợi mở nhiều vấn đề liên quan đến thực trạng tham gia hệ thống kinh tế,
chính trị, xã hội của phụ nữ dân tộc thiểu số khu vực phía Bắc nói riêng và phụ
nữ dân tộc thiểu số cả nƣớc nói chung. Trong những thập kỷ qua, vấn đề bình
đẳng giới là mối quan tâm hàng đầu của hầu hết tất cả các nƣớc trên thế giới.
Một trong những khía cạnh nằm trong mối quan tâm đó là sự tham gia của phụ
nữ vào các hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội của nhà nƣớc. Ở Việt Nam,
Đảng và Nhà nƣớc đã không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần,
củng cố và tăng cƣờng vị trí vai trò của ngƣời phụ nữ đảm bảo quyền bình
đẳng trong xã hội. Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
cam kết thực hiện Chiến lƣợc Nairobi1 hƣớng tới Bình đẳng, Phát triển và Hoà
bình với việc thành lập “Uỷ ban quốc gia về Thập kỷ của phụ nữ Việt Nam”.
Đồng thời, Việt Nam đã sớm tham gia phê chuẩn công ƣớc quốc tế về xóa bỏ
Hội nghị lần thứ ba về quyền bình đẳng và mở rộng thêm khái niệm mới "phát triển",
"Giới", hƣớng đến đối tƣợng phụ nữ tổ chức tại Nairôbi (Kenya) năm 1985. Tại Hội nghị

này "Chiến lƣợc nhìn về phía trƣớc vì sự tiến bộ của phụ nữ" đã đƣợc thông qua.
1

5


tất cả mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW)2, tích cực xây
dựng một xã hội bình đẳng, dân chủ, văn minh. Vì thế, Việt Nam là một trong
những nƣớc đƣợc tổ chức Liên hợp quốc đánh giá cao trong việc rút ngắn
khoảng cách giới về mọi mặt, tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia nhiều hơn vào
các hoạt động của các tổ chức, đoàn thể xã hội ở mọi nơi nhất là vùng núi,
vùng sâu, vùng xa. Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn trong việc đề ra các
chính sách liên quan nhằm đảm bảo quyền bình đẳng cho cả nam giới và phụ
nữ. Tuy nhiên, với những thay đổi nhanh chóng trong phát triển nhân lực, kinh
tế và xã hội, một số quy định của chính sách đã trở thành bất cập, hạn chế các
cơ hội thăng tiến của phụ nữ. Thêm vào đó, xã hội Việt Nam vẫn còn khá nhiều
định kiến nặng về vị thế giới, chƣa nhận thức đầy đủ hoặc thiếu tin tƣởng vào
năng lực ngƣời phụ nữ. Theo báo cáo năm 2010 về sự tham chính của phụ nữ
ở 21 quốc gia khu vực Châu Á- Thái Bình Dƣơng thì Việt Nam là một trong
bảy quốc gia duy nhất có tỉ lệ tham chính của phụ nữ ở cấp quốc gia trên 20%.
Tuy nhiên tỉ lệ đại biểu nữ trong quốc hội đã giảm từ 27 % khóa 2002-2007
xuống còn gần 26% khóa 2007-2011. Tỷ lệ nữ đảm nhiệm vị trí Bộ trƣởng và
tƣơng đƣơng Bộ trƣởng cũng giảm trong giai đoạn này từ 12 % xuống còn
khoảng 5%, chỉ có ba phụ nữ trong số 34 Bộ trƣởng nhiệm kỳ chính phủ 20022007 và 2/22 trong nhiệm kỳ hiện nay. Nam giới chiếm đại đa số trong các cơ
quan thuộc Quốc hội nhƣ các ủy ban luật, ủy ban tƣ pháp, kinh tế, đối ngoại và
2

Công ƣớc CEDAW là chữ viết tắt tiếng Anh của Công ƣớc Xoá bỏ tất cả các hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ, là một văn bản pháp luật quốc tế do Đại Hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 18 tháng 12 năm 1979. Công ƣớc bao gồm 6 phần, 30 điều xác định

những nội dung cơ bản về khái niệm phân biệt đối xử, về các cam kết quốc gia về xoá bỏ
phân biệt đối xử với phụ nữ trong chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và dân sự dƣới mọi hình
thức mà tất cả các nƣớc tham gia phê chuẩn có nghĩa vụ thực hiện nhằm bảo đảm cho phụ
nữ đƣợc thực hiện các quyền bình đẳng nhƣ nam giới. Hiện nay đã có trên 160 quốc gia cam
kết thực hiện Công ƣớc CEDAW. Việt Nam ký Công ƣớc ngày 29/7/1980 và Quốc hội phê
chuẩn ngày 19/3/1982 ( />
6


tài chính từ 85% đến 92% (Ngân hàng thế giới, 2012). Tình trạng bất bình đẳng
giới xảy ra khu vực sản xuất, kinh doanh thƣờng dễ nhận thấy và có thể điều
chỉnh sớm nhƣ chênh lệch về trình độ học vấn, thu nhập, giờ làm việc, trong
khi đó, ở khu vực công, cán bộ, công chức, viên chức nữ lại gặp phải rất nhiều
rào cản vô hình trong quá trình thăng tiến, phát triển sự nghiệp của mình [30,
tr.12]. Đây cũng chính là những trở ngại đối với các công, viên chức nữ nói
chung ở nƣớc ta.
Trong thời gian qua, hàng loạt các văn bản pháp luật của Nhà nƣớc đã đƣợc
ban hành nhằm nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội và thực hiện bình đẳng
giới. Tuy nhiên đó mới chỉ phản ảnh về sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc
với phụ nữ Việt Nam nói chung với đối tƣợng phụ nữ dân tộc thiểu số vẫn còn
hạn chế. Phụ nữ dân tộc thiểu số là lực lƣợng lao động chính trong các hoạt
động kinh tế - xã hội, tham gia các hoạt động kinh tế: trồng trọt, chăn nuôi,
nghề thủ công, tự quản chi tiêu duy trì cuộc sống cho các thành viên trong gia
đình. Ngoài ra, họ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính
sách dân tộc, đại đoàn kết dân tộc. Ở mỗi tộc ngƣời ở mỗi vùng khác nhau, yếu
tố văn hóa trên biểu hiện rất phong phú và đa dạng, song đều thống nhất ở một
điểm chung và không thể phủ nhận đó là vị thế quan trọng của chị em trong tạo
dựng, giữ gìn và phát triển văn hóa (Phạm Thị Hoàng Hà, 2005). Thực trạng
hiện nay cho thấy, vấn đề việc làm, thu nhập, địa vị của ngƣời phụ nữ là
những vấn đề bức xúc đối với phụ nữ dân tộc thiểu số (Nguyễn Thị Hải Yến,

2014). Bởi lẽ đại bộ phận các gia đình ở các dân tộc thiểu số đang sống ở mức
nghèo đói, nhất là ở vùng cao, vùng sâu, miền núi. Vì vậy, để phát huy tiềm
năng của phụ nữ dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế xã hội chính là khơi
gợi những điểm mạnh của cá nhân ngƣời phụ nữ để tạo ra những tác động tích
cực cho sự phát triển xã hội, kinh tế đất nƣớc nói chung. Năng lực của phụ nữ

7


dân tộc thiểu số đƣợc đánh giá qua công việc họ tham gia, những kết quả đạt
đƣợc và sự công nhận của địa phƣơng sở tại.
Địa bàn nghiên cứu Kon Tum là tỉnh nằm ở phía Bắc Tây Nguyên, tại ngã
ba Đông Dƣơng – có biên giới giáp với hai nƣớc Lào và Campuchia. Kon Tum
nắm giữ vị trí chiến lƣợc trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nƣớc trƣớc đây cũng nhƣ trong công cuộc xây dựng đất nƣớc, phát
triển kinh tế hiện nay. Trong những năm gần đây, công tác phát triển nhân lực
của tỉnh Kon Tum đã đạt đƣợc một số thành tựu đáng kể, góp phần hỗ trợ đắc
lực vào sự phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại
hóa của tỉnh. Tuy nhiên, so với nhu cầu thị trƣờng nguồn nhân lực hiện nay thì
công tác phát triển nhân lực vẫn còn nhiều hạn chế nhƣ: trình độ học vấn và
trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực còn thấp; các cơ sở đào tạo
chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu về quy mô, năng lực và chất lƣợng đào tạo; sự phối
hợp giữa các ngành quản lý, giữa các cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp và
ngƣời lao động còn thiếu chặt chẽ, đặc biệt sự phát triển nguồn nhân lực nữ dân
tộc thiểu số cũng không tránh khỏi những hạn chế nêu trên [19, tr.1]. Để đi sâu
tìm hiểu căn nguyên thực trạng này, tôi chọn đề tài “Sự tham gia của phụ nữ
dân tộc thiểu số vào khu vực Nhà nước: nghiên cứu trường hợp cộng đồng Bana và Gia-rai ở tỉnh Kon Tum” làm luận văn nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Các mục đích mà học viên hƣớng đến trong đề tài này là:
- Phân tích thực trạng phụ nữ dân tộc Ba-na và Gia-rai tham gia vào các cơ

quan nhà nƣớc ở Kon Tum.
- Tìm hiểu các cơ hội tiếp cận với nghề nghiệp trong khu vực nhà nƣớc của
cộng đồng ngƣời dân tộc thiểu số nói chung và phụ nữ Ba-na, Gia-rai nói riêng.

8


- Phân tích những trải nghiệm, ứng phó của phụ nữ Ba-na và Gia-rai trong xã
hội khi tham gia. Gợi mở các điều kiện đảm bảo sự phát triển bền vững của
cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Kon Tum trong bối cảnh chuyển đổi.
- Phân tích những rào cản và các yếu tố ảnh hƣởng đến quá trình phụ nữ thiểu
số tiếp cận, tham gia vào các hoạt động nghề nghiệp trong khu vực nhà nƣớc
Qua các dữ liệu thu thập đƣợc, cùng sự quan sát và phân tích khách quan, học
viên hy vọng góp phần đƣa ra những gợi mở về chính sách can thiệp và hỗ trợ
nhằm nâng cao hơn đời sống và vị thế của phụ nữ dân tộc thiểu số nói riêng và
chất lƣợng cuộc sống ở các cộng đồng buôn làng Kon Tum nói chung.
3. Hạn chế của nghiên cứu
Luận văn cao học này cũng không tránh khỏi nhiều thiếu sót nhất định về cỡ
mẫu và quy mô tiến hành nghiên cứu. Về bản chất, đây là một nghiên cứu định
tính Nhân học, tập trung vào số lƣợng nhất định các cuộc phỏng vấn sâu. Vì
thế mà nghiên cứu này không tránh khỏi những hạn chế về tính đại diện và
khái quát của các phát hiện nghiên cứu. Trong khuôn khổ hạn chế về thời gian
và tài lực học viên cũng thực sự chƣa đi sâu vào tìm hiểu và hỏi chuyện kỹ các
công chức, viên chức là nam giới, ngƣời Kinh tham gia khu vực nhà nƣớc tại
địa bàn khảo sát. Đây là một khía cạnh cần đƣợc chú trọng trong các nghiên
cứu tiếp sau.
4. Đóng góp của luận văn
Trong khuôn khổ “Chƣơng trình Lãnh đạo nữ Cambridge – Việt Nam”, do Bộ
Ngoại giao Việt Nam và Chƣơng trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) tổ
chức, có không ít dự án nghiên cứu xem xét sự tham chính của phụ nữ Việt

Nam, gồm cả phụ nữ dân tộc thiểu số. Tiếp nối định hƣớng nghiên cứu này,
luận văn của tôi mong muốn góp thêm những phân tích định tính về thực trạng
phụ nữ dân tộc thiểu số nói chung và phụ nữ Ba-na, Gia-rai nói riêng tham gia
9


khối cơ quan hành chính sự nghiệp. Trên cơ sở các dữ liệu thực địa, nghiên cứu
mong muốn góp phần đƣa ra các ngụ ý chính sách góp phần nâng cao hiệu quả
cho các chƣơng trình Nhà nƣớc về bình đẳng giới, nâng cao quyền năng và vị
thế ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số cũng nhƣ vấn đề phát triển nguồn nhân lực
dân tộc thiểu số.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận khuyến nghị và phụ lục, nội dung chính của luận
văn đƣợc cấu trúc thành ba chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chƣơng 2: Thực trạng cán bộ, công chức nữ dân tộc thiểu số Ba-na, Gia-rai
tham gia trong khu vực Nhà nƣớc tại tỉnh Kon Tum.
Chƣơng 3: Trải nghiệm và rào cản của phụ nữ Ba-na, Gia-rai tham gia khu vực
Nhà nƣớc tại tỉnh Kon Tum.

10


Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Tổng quan về tình hình nghiên cứu.
1.1.1. Các nghiên cứu về Tây Nguyên trƣớc và sau năm 1975.
Con ngƣời là chủ thể sáng tạo ra nền văn hóa, văn minh của nhân loại, là động
lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển tiến bộ xã hội. Ở Việt Nam cũng nhƣ các
nƣớc trên thế giới đều lấy sự phát triển con ngƣời là trung tâm cho sự phát triển
kinh tế- chính trị- xã hội. Mỗi cộng đồng ngƣời, mỗi địa phƣơng trên đất nƣớc

Việt Nam, trong đó có đồng bào các dân tộc thiểu số - một bộ phận đặc biệt
quan trọng cấu thành nguồn lực con ngƣời Việt Nam. Để phát triển kinh tế - xã
hội, xóa đói giảm nghèo hiệu quả và bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền
núi, phát triển nguồn nhân lực phải là khâu then chốt, là một trong những
nhiệm vụ cấp bách nhằm thúc đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nên trình độ phát
triển giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam vẫn còn có sự chênh lệch khá lớn
về mọi mặt, trong đó có trình độ phát triển của nguồn nhân lực, biểu hiện tập
trung ở chất lƣợng của nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số còn thấp, chƣa đáp
ứng đƣợc với yêu cầu của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
Chính vì vậy, trong nhiều năm nay, những khu vực miền núi nhƣ Tây Bắc, Tây
Nguyên đƣợc nhà nƣớc và các ban ngành tập trung quan tâm phát triển kinh tế
- chính trị - xã hội.
Tây Nguyên có vị trí nằm ở trung tâm miền núi Nam Đông Dƣơng, địa thế
hiểm yếu, có những hành lang tự nhiên thông với Nam Lào, Đông bắc
Campuchia và duyên hải Trung bộ, Tây Nguyên còn là một không gian xã hội
rộng lớn, nơi cộng cƣ của đông đảo các tộc ngƣời thiểu số. Đóng góp tích cực
vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất nƣớc nhà (1945 - 1975). Tây
Nguyên giữ một vị trí chiến lƣợc đặc biệt quan trọng trong quốc phòng và an

11


ninh. Tây Nguyên còn là một vùng có nhiều tiềm năng đặc biệt nhƣ rừng,
khoáng sản, du lịch, tuy nhiên những lợi thế này chƣa khai thác hiệu quả, xuất
phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhƣng một nguyên nhân
quan trọng chƣa xây dựng và phát huy nguồn nhân lực nơi đây, đặc biệt là
nhân lực nữ dân tộc thiểu số. Năm 2013, dân số Tây Nguyên là 5.338.434
ngƣời, trong đó nữ 2.617.988 ngƣời chiếm 49,05%. Nguồn lao động là 3136.6
ngƣời chiếm 58,7%, đặc trƣng dân số Tây Nguyên là dân số trẻ (Tổng cục

thống kê, 2012). Do đó, vấn đề quyền lợi, vai trò của các cộng đồng thiểu số,
nhất là các cộng đồng dân tộc bản địa trở thành mối quan tâm trong mọi hoạch
định chính sách liên quan đến Tây Nguyên.
Giai đoạn trƣớc 1975
Quá trình tìm kiếm và khai thác thuộc địa đã khiến ngƣời Pháp trở thành đối
tƣợng đầu tiên phát lộ Tây Nguyên và chuyển thành những tri thức khoa học
hiện đại. Sau sự mở đƣờng của các nhà truyền giáo (Bùi Minh Đạo, 2011), các
phái bộ khảo sát và các nhà cai trị lần lƣợt có mặt ở Tây Nguyên. Đáng chú ý
là những học giả: Henri Maitre, Sabatier, Antomarchi, Bernard Y. Jouin…
Trong đó, công trình của Henri Maitre – “Rừng ngƣời Thƣợng” (Les jungles
Mois), cho đến nay vẫn đƣợc xem là công trình nghiên cứu cơ bản nhất về Tây
Nguyên. Tiếp sau là thế hệ các nhà khoa học chuyên nghiệp: A.de
Hautecloque, Boulbet, Maurice, J. Dournes, những ngƣời đã đến và ở lại Tây
Nguyên trong khoảng thời gian 1950-1970. Đặc biệt, các nghiên cứu của
Georges Condominas qua ba tác phẩm nối tiếng của ông “Chúng tôi ăn rừng”;
“Cái xa lạ là cái hàng ngày” và “Không gian xã hội vùng Đông Nam Á” đƣợc
giới chuyên môn đánh giá là những cuốn sách kinh điển của ngành dân tộc học
và đƣợc dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau. Đóng góp lớn nhất của ngƣời Pháp
12


là đã cung cấp một khối tƣ liệu khổng lồ về đời sống văn hóa buôn/làng cổ
truyền. Đó là nguồn dữ liệu hết sức quan trọng về một Tây Nguyên những năm
trƣớc giải phóng miền Nam thống nhất đất nƣớc, do đó trở thành nguồn tham
khảo không thể bỏ qua cho những ai muốn nghiên cứu Tây Nguyên sau này.
Giai đoạn sau năm 1975
Trong giai đoạn 1954-1975, ở miền Nam nƣớc ta, xuất hiện nhiều công trình
nghiên cứu các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Nổi bật nhƣ công trình của Cửu
Long Giang và Toan Ánh (2003), Nguyễn Trắc Dĩ (1969) và tác phẩm kinh
điển “Những ngƣời con của núi (Sons of the Mountains)” của Gerald Cannon

Hickey (1982). Hiện trạng phát triển của các cộng đồng dân tộc thiểu số đƣợc
đề cập trong một số công trình mang tính khái quát (Bùi Minh Đạo, 2010;
Nguyễn Tấn Đắc, 2005; Bùi Minh Đạo - Bùi Thị Bích Lan, 2005; Lƣu Hùng,
2002). Một số nghiên cứu khác, tuy phạm vi bao quát hẹp hơn, nhƣng giải
quyết tƣơng đối thấu đáo các vấn đề cụ thể - thƣờng là những vấn đề nóng
bỏng trong bối cảnh Tây Nguyên đƣơng đại. Tiêu biểu cho xu hƣớng này là
nghiên cứu của Oscar Salemink (2003) cung cấp một cách nhìn khác so với
những nhận thức đƣơng thời tại Việt Nam về tính biệt lập của các dân tộc
ngƣời Tây Nguyên trong lịch sử so với các khu vực kế cận.
Đáng chú ý nữa, tác giả Andrew Hardy với tác phẩm “Đồi Đỏ: Dân di cƣ và
Nhà nƣớc ở Cao Nguyên Việt Nam” (Red Hills: Migrants and the State in the
Highlands of Vietnam) đã đóng góp dữ liệu phong phú về nghiên cứu di cƣ ở
Đông Nam Á. Tác phẩm đƣợc viết bằng một phong cách đọc sách sống động
và minh họa bằng nhiều bản đồ và hình ảnh, nghiên cứu này hứa hẹn sẽ trở
thành một cổ điển trong nghiên cứu lịch sử Việt. Đây là nghiên cứu mang tính
đột phá của các khu định cƣ của vùng cao nguyên của Việt Nam cung cấp một
13


phân tích lịch sử của và cung cấp cái nhìn sâu sắc vào nền kinh tế chính trị của
di cƣ cả ở Việt Nam và các nơi khác, vùng cao nguyên Việt Nam. Đặt những
kinh nghiệm của ngƣời dân trong bối cảnh các chính sách của chính phủ và lịch
sử dân tộc, cuốn sách này khám phá những dự đoán, khó khăn, những thành
tựu và thất vọng của họ, soi tỏ tầm quan trọng địa chính trị của vùng cao
nguyên. Con ngƣời của buôn làng không chỉ đƣợc đặt trong mối liên hệ với
môi trƣờng tự nhiên truyền thống, mà còn đối diện với những tác động liên tục
và sâu sắc của đời sống chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội.
Có thể nói địa bàn Tây Nguyên và các tộc ngƣời bản địa ở đây đã sớm đƣợc
các học giả trong và ngoài nƣớc quan tâm nghiên cứu. Các nghiên cứu này
phần lớn mang tính bao quát chung tìm hiểu sự khác biệt giữa ngƣời Kinh và

các tộc ngƣời thiểu số trên phƣơng diện văn hóa, chính trị, kinh tế và tôn giáo.
Trong khuôn khổ nghiên cứu này, tôi hƣớng đến phân tích sâu nội hàm vấn đề
phát triển nhân lực nữ dân tộc thiểu số trên địa bàn.
1.1.2 Phát triển nguồn lực của cộng đồng các dân tộc thiểu số
Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực là một trong những vấn đề cốt lõi
của sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội ở mỗi quốc gia. Đặc biệt trong thời đại
ngày nay, đối với các nƣớc đang phát triển, giải quyết vấn đề này đang là yêu
cầu đƣợc đặt ra hết sức bức xúc, vì nó vừa mang tính thời sự, vừa mang tính
chiến lƣợc xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế – xã hội của mỗi nƣớc. Trong
những năm gần đây, nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực là vấn đề
đƣợc đề cập nghiên cứu ở những mức độ và góc độ khác nhau. Đáng chú ý nhƣ
nghiên cứu của Phạm Minh Hạc (2011) đã làm rõ những khái niệm về nguồn
nhân lực và quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam. Trên cơ sở
đánh giá tác động nguồn nhân lực nƣớc ta trong quá trình công nghiệp hóa,
14


hiện đại hóa tác giả đƣa ra giải pháp để phát triển nhân lực này. Nghiên cứu
của Đỗ Minh Cƣơng - Nguyễn Thị Loan chủ biên (2001) trình bày quan điểm,
định hƣớng chiến lƣợc và giải pháp chủ yếu cho việc phát triển năng lực giáo
dục bậc cao ở nƣớc ta trong thời kỳ mới. Nghiên cứu của Bùi Thị Ngọc Lan
(2002) tập trung làm rõ trí tuệ, nguồn lực trí tuệ, vai trò, đặc điểm, thực trạng
phát huy và xu hƣớng phát triển của nguồn lực trí tuệ Việt Nam - bộ phận tinh
hoa trong nguồn nhân lực Việt Nam thời gian qua. Trên cơ sở đó, tác giả đƣa ra
những phƣơng hƣớng và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nguồn lực trí tuệ
Việt Nam trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nƣớc.
Ngoài ra, đối với việc phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số có nhiều
công trình nghiên cứu mang tính khái quát, bƣớc đầu tìm hiểu về chất lƣợng
chung chứ chƣa đi sâu phân tích các nguyên nhân (Hoàng Hiệt; 1987). Hƣớng
đến tầm quan trọng của các dân tộc ít ngƣời (chiếm 12% dân số cả nƣớc) trong

sự phát triển chung của đất nƣớc, về cả vị trí, kinh tế văn hóa và các điều kiện
tự nhiên có liên quan, Đảng và Nhà nƣớc đã có những chính sách cụ thể đối
với công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ dân tộc ít ngƣời. Các tác giả tập trung
nêu lên thực trạng và các đề xuất hữu ích để nâng cao chất lƣợng nguồn nhân
lực này, đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay (Vũ Đình Hòe, 2008). Tuy nhiên
các công trình nghiên cứu mang tính chất khái quát chung về vấn đề phát triển
kinh tế bền vững ở Tây Nguyên. Các nghiên cứu chƣa đề cập đến phát triển
nguồn nhân lực nữ ở Việt nam nói chung và ở Tây Nguyên nói riêng.
Một hƣớng nghiên cứu phát triển nguồn lực đó là đánh giá về chất lƣợng
giáo dục đào tạo của phụ nữ dân tộc thiểu số cũng đƣợc nhiều học giả quan
tâm. Nhìn dƣới khía cạnh giáo dục học tập cho đối tƣợng dân tộc thiểu số, một
số học giả bƣớc đầu đi vào tìm hiểu vấn đề phát triển nguồn nhân lực nhƣ phân
tích những mâu thuẫn trong giáo dục chính quy ở vùng đa dân tộc Tây Nguyên
(Trƣơng Huyền Chi, 2010), ảnh hƣởng của các ngầm ẩn định kiến tộc ngƣời
15


lên động cơ học tập của thanh thiếu niên cộng đồng thiểu số miền núi phía Bắc
(Nguyễn Thu Hƣơng, Nguyễn Trƣờng Giang, 2012). Nghiên cứu của Ngân
hàng thế giới (2001) đã phân tích và đánh giá kết quả là vẫn còn nhiều thách
thức liên quan đến những chênh lệch giới xét về nhóm dân tộc và địa bàn.
Ngoài ra chú trọng công tác tạo nguồn cán bộ nữ cũng là một vấn đề nhằm đảm
bảo không thiếu hụt cán bộ khi đƣợc quy hoạch ở chức vụ lãnh đạo, quản lý.
Để thực hiện điều này, lãnh đạo cấp cơ sở đặc biệt chú ý tới việc tạo điều kiện,
cơ hội cho phụ nữ tham gia vào các khoá đào tạo về lý luận chính trị, quản lý
Nhà nƣớc và kiến thức chuyên môn cũng nhƣ việc tham gia hoạt động xã hội.
Tuy nhiên, xét trên thực tiễn thì nghiên cứu của Lƣu Mai Anh lại chỉ ra: tình
trạng thiếu nghiêm trọng đội ngũ cán bộ dân tộc, thiếu trí thức dân tộc thiểu số
có căn nguyên sâu xa từ trình độ dân trí quá thấp, chăm lo giáo dục mầm non ở
vùng dân tộc thiểu số, tạo nền tảng đến các cấp học cao hơn, cho rằng nên kết

hợp một cách đúng đắn giữa cán bộ ngƣời kinh và cán bộ dân tộc thiểu số, giữa
tạo nguồn cán bộ tại chỗ với nguồn cán bộ điều tiết, cân đối vĩ mô (Vũ Đình
Hòe, 2008). Báo cáo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Tƣ (2011) cho rằng
hơn 70% cán bộ dân tộc thiểu số nhìn nhận thách thức là do trình độ văn hóa
thấp, chƣa đƣợc đào tạo bài bản, thâm niên công tác theo giới tính, tỷ lệ cán bộ
nữ có thâm niên công tác cao giảm xuống, tỷ lệ nữ dân tộc trên đại học rất thấp
1,8%, trong đó cán bộ ngƣời Kinh trong vùng dân tộc lại rất cao. Theo đánh giá
của Trung ƣơng Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam, năm 2009 phụ nữ chỉ chiếm
10-20% tổng số ngƣời tham dự các khóa học về lý luận chính trị và quản lý ở
cấp trung ƣơng, chỉ có 39% cán bộ nữ từng tham gia 1-2 khóa đào tạo so với
42,3% so với nam giới, chỉ có 2,9% cán bộ nữ từng tham dự 3 khóa đào tạo so
với 8,7% nam giới và có tới 58,6% cán bộ nữ chƣa từng tham dự các khóa tập
huấn so với 49% cán bộ nam (Ngân hàng thế giới, 2007).

16


Một số nhà khoa học, nhà quản lý đã có những công trình, bài viết về vấn
đề nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số và đã đƣợc đăng tải trên các tạp chí nhƣ
Lại Thị Thu Hà (2005), Lê Văn Quyền (2005), Nguyễn Thanh Cao (2004),
Nguyễn Thị Mỹ Trang - Nguyễn Thế Huệ (2004). Các nghiên cứu này bƣớc
đầu đề cập đến các vấn đề cấp bách hiện nay nhƣ giáo dục - đào tạo, việc làm
cho đồng bào dân tộc thiểu số. Nhìn chung chƣa có một công trình nào nghiên
cứu trực tiếp và có hệ thống toàn diện nhất về phát triển nguồn nhân lực nữ dân
tộc thiếu số ở Kon Tum.
1.1.3 Thực trạng tham chính của phụ nữ
Nói về tình hình tham gia của phụ nữ trong đời sống chính trị, xã hội của đất
nƣớc có nghiên cứu của tác giả Thanh Xuân (2009). Kết quả nghiên cứu cho
thấy tỉ lệ cán bộ nữ trong các cấp ủy Đảng, Quốc hội khóa 9 có 18,5%, đến
khóa 11 là 27,3%, tỉ lệ phụ nữ đại biểu hội đồng nhân dân trong nhiệm kỳ 2004

– 2009, trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh tỉ lệ phụ nữ cũng có chiều
hƣớng tăng lên. Tỉ lệ cán bộ nữ lãnh đạo quản lý các ngành, các cấp còn thấp,
cơ cấu không đều chƣa tƣơng xứng với sự phát triển của lực lƣợng lao động nữ
và phong trào phụ nữ ở ba cấp độ trung ƣơng, tỉnh, huyện. Tỉ lệ nữ tham gia
vào cấp ủy dƣới 15%. Nghiên cứu chỉ nói đến tỉ lệ phụ nữ trong các hoạt động
chính trị chung chung chứ chƣa đề cập đến sự tham gia của phụ nữ trong các tổ
chức chính trị - xã hội của nhà nƣớc. Nghiên cứu của Lê Chi Mai (2004) chỉ ra
phụ nữ tham gia tích cực vào mọi hoạt động đời sống kinh tế xã hội có đóng
góp to lớn cho sự hòa bình và phồn vinh của đất nƣớc. Sự tham gia của phụ nữ
vào các tổ chức chính trị - xã hội là cơ sở để ngƣời phụ nữ có thể tham gia vào
các hoạt động quản lý nhà nƣớc. Một nghiên cứu khác (Hoàng Mai Hƣơng
(2007) phân tích các nguyên tắc pháp lý về đảm bảo quyền tham gia của phụ

17


nữ tại điều 73 và điều 84 công ƣớc CEDAW. Nghiên cứu thống kê về tỉ lệ phụ
nữ trong Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp. Tỉ lệ phụ nữ tham gia vào hệ
thống cơ quan hành pháp, nghiên cứu, sản xuất kinh doanh, các cấp ủy Đảng,
các tổ chức chính trị - xã hội. Tỉ lệ phụ nữ đã không ngừng tăng lên, tuy nhiên
vẫn giữ ở cấp phó phần nhiều. Tỉ lệ cán bộ nữ trong hoạt động của các cơ quan
tƣ pháp khá thấp và ít giữ các cƣơng vị chủ chốt. Ngoài ra, nghiên cứu của
nhóm tác giả Nguyễn Thị Lân, Đỗ Thị Ngọc Oanh, Luân Thị Đẹp, Lê Sĩ Lợi
(2004) tìm hiểu vai trò của phụ nữ dân tộc Dao trong hoạt động khuyến nông.
Phụ nữ Dân tộc Dao với vai trò là ngƣời chuyển giao thông tin khoa học kỹ
thuật, ngƣời đƣa thông tin đến cho nhiều ngƣời khác, cụ thể, 50,5% phụ nữ học
kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi từ những phụ nữ cùng thôn bản và trên 80% phụ
nữ từng đi tập huấn thƣờng xuyên trao đổi thông tin với các chị em khác. Phụ
nữ là ngƣời tiếp nhận thông tin và áp dụng kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất một
cách hiệu quả hơn nam giới vì phụ nữ là ngƣời trực tiếp tham gia sản xuất nông

nghiệp. Nghiên cứu còn chỉ ra các cơ hội tiếp cận của phụ nữ dân tộc Dao với
hoạt động khuyến nông nhƣ cơ hội tiếp cận với khuyến nông Nhà nƣớc. Trong
đó, cơ hội tiếp cận với cán bộ công tác khuyến nông khá thấp và tỉ lệ nam giới
thỉnh thoảng tiếp cận với cán bộ cao hơn so với phụ nữ, cơ hội tiếp cận với tập
huấn kỹ thuật tỉ lệ ngƣời Dao đi tập huấn rất thấp, ngƣời phụ nữ thƣờng tham
gia ít hơn nam giới.
Tất cả các công trình nghiên cứu trên đều phản ánh việc ngƣời phụ nữ tham
gia vào các hoạt động lĩnh vực chính trị và có nói đến pháp luật đảm bảo quyền
tham gia của phụ nữ. Đặc biệt, các nghiên cứu chỉ tập trung phân tích tình hình
phụ nữ tham gia vào trong các lĩnh vực chính trị, tìm hỉểu trong giới lãnh đạo
3

Điều 7: Thực hiện quyền bình đẳng trong đời sống chính trị và cộng đồng.

4

Điều 8: Phụ nữ tham gia các hoạt động quốc tế.

18


nói chung chứ chƣa tìm hiểu sự tham gia của phụ nữ trong các tổ chức chính trị
- xã hội cấp cơ sở.
Xác định rào cản với phụ nữ nói chung và phụ nữ dân tộc thiểu số nói riêng là
hƣớng nghiên cứu thứ tƣ đƣợc các học giả và các nhà nghiên cứu quan tâm.
Các nghiên cứu gần đây đã cung cấp thông tin Việt Nam là một trong bảy nƣớc
duy nhất có tỷ lệ tham chính của phụ nữ ở cấp quốc gia trên 20% [25, tr 83].
Tuy nhiên, vẫn còn khoảng cách khá lớn giữa tỷ lệ nam và nữ (73% và 27%)
và đặc biệt là tỷ lệ phụ nữ nắm giữ các vị trí lãnh đạo trong hệ thống chính trị
cơ sở. Theo đánh giá chung của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), mặc dù

chính phủ Việt Nam đã có những tiến bộ đầy ấn tƣợng trong việc thu hẹp
khoảng cách giới nhƣng chênh lệch về giới vấn thể hiện rất rõ trong các cộng
đồng nghèo, cộng đồng yếu thế và ở một số lĩnh vực vụ thể nhƣ tiếp cận với
giáo dục trung học phổ thông, đào tạo nghề, cơ hội nhận biên chế nhà nƣớc.
Đặc biệt đối với những vùng điều kiện kinh tế khó khăn nhƣ vùng miền núi và
dân tộc thiểu số do điều kiện kinh tế xã hội chƣa đáp ứng đầy đủ, các dịch vụ
xã hội chƣa phát triển thì địa vị của ngƣời phụ nữ chƣa đƣợc cải thiện.
Nhiều năm gần đây các tổ chức phát triển cộng đồng và phi lợi nhuận
cũng nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của các vùng dân tộc thiểu số nên tập
trung vào nghiên cứu những vấn đề mang tính chất nổi cộm ở các khu vực tập
trung dân tộc thiểu số. Ví nhƣ báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2009), cho
thấy các dân tộc thiểu số gặp phải hạn chế lớn hơn so với dân tộc đa số trong
các lựa chọn sinh kế. Đồng bào dân tộc thiểu số thƣờng ít tham gia vào nhóm
lao động đƣợc trả công nhật, nhƣng mối tƣơng quan giữa vấn đề dân tộc và lao
động công nhật đối với nữ giới yếu hơn đối với nam giới. Quan trọng là phụ nữ
thuộc các nhóm dân tộc thiểu số có xu hƣớng gặp bất lợi hơn so với nữ giới ở
các dân tộc đa số trên nhiều khía cạnh khác. Phụ nữ nói chung và phụ nữ dân
tộc thiểu số ít có thể tham gia vào các hoạt động đƣợc coi là quan trọng đối với
19


triển vọng thăng tiến sau này của họ. Điều này cũng đƣợc phản ảnh trong Báo
cáo Theo dõi đói nghèo có sự tham gia của cộng đồng do Oxfam và ActionAid
trong giai đoạn 2008-2009. Báo cáo này chỉ ra có nhiều rào cản mà phụ nữ
trong các cơ quan nhà nƣớc ở cấp cao hơn gặp phải cũng lặp lại đối với những
phụ nữ đảm nhận các chức vụ lãnh đạo ở cấp xã. Trong khi đó về mặt lợi ích,
phụ nữ dân tộc thiểu số không đƣợc chia sẻ những lợi ích của quá trình giảm
nghèo và cái thiện sự phát triển con ngƣời ở cùng mức độ nhƣ ngƣời dân thuộc
nhóm đa số, nguyên nhân có thể là do khoảng cách địa lý xa xôi, di chuyển khó
khăn hơn nên họ ít có điều kiện ra ngoài các thị trấn chứ chƣa tính đến ra ngoài

thị xã (Đánh giá giới tại Việt Nam, 2011). Các yếu tố khác nhƣ mạng lƣới xã
hội quan hệ xã hội và kỹ năng diễn thuyết trƣớc công chúng cũng ảnh hƣởng
đến sự phấn đấu của ngƣời phụ nữ.
Liên quan các yếu tố cản trở sự tham gia của phụ nữ trong đời sống chính
trị, nghiên cứu điều tra của Viện Gia đình và Giới (2009) cho thấy thái độ của
ngƣời chồng và mạng lƣới gia đình có thể tạo ra sự khác biệt lớn đối với sự
thành công trong đời sống chính trị của ngƣời phụ nữ. Phụ nữ muốn tham gia
vào hoạt động chính trị hoặc đời sống công cộng phải tìm cách cân đối các
trách nhiệm gia đình với các nghĩa vụ chuyên môn và chính trị. Một trở ngại
khác liên quan đến các giá trị và thái độ mà phụ nữ gặp phải trong đời sống
chính trị từ cấp quản lý và cộng đồng nói chung cũng nhƣ những giá trị và thái
độ của chính họ (Võ Thị Mai, 2006). Tuy nhiên vấn đề quan điểm và thái độ
không nằm ở riêng nam giới, nhiều phụ nữ cũng giữ định kiến giới. Một nghiên
cứu của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cho thấy rất nhiều ngƣời trả lời cho
biết sẽ chọn nam giới vào vị trí cao nhất và lãnh đạo chuyên môn và phụ nữ
vào vị trí chịu trách nhiệm các công việc hành chính (Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, 2009). Mặc dù bối cảnh xã hội đang thay đổi, sự đóng góp của mỗi
giới vào quá trình phát triển là ngang nhau nhƣng sự khác biệt giới hay nói
20


cách khác là sự phân công lao động trong lĩnh vực tham chính cũng có xu
hƣớng đƣợc thu hẹp nhƣng sự dịch chuyển diễn ra một cách chậm chạp. Những
bằng chứng thu thập đƣợc, dễ dàng cho chúng ta có nhận xét phụ nữ rất ít cơ
hội tham gia vào các vị trí có tính chất chiến lƣợc, chức vụ ra các quyết định
trong quá trình thực thi quyền lực tại địa phƣơng. Trong khi đó, các tổ chức
Đoàn thể, cơ hội của ngƣời phụ nữ và nam giới gần ngang bằng nhau và ở
nhiều cơ sở thì phấn đấu thăng tiến ở khối đoàn thể phụ nữ đƣợc chờ đợi và kỳ
vọng nhiều hơn (Đặng Thị Ánh Tuyết, 2011). Tác giả khi nghiên cứu về phụ
nữ cấp phƣờng ở Hà Tĩnh cho rằng rằng hiện nay phụ nữ chiếm tỷ lệ rất hạn

chế so với nam giới cả về số lƣợng cũng nhƣ vị trí quyền lực trong các xã,
phƣờng “Nam giới áp đảo trong các vị trí quyền lực và chiến lƣợc”. Phụ nữ chủ
yếu có lợi thế ở tổ chức hội của mình (bởi vì không phải cạnh tranh) và ở các
khối đoàn thể - các tổ chức mang tính hoạt động xã hội nhiều hơn. Có sự khác
biệt về nhóm tuổi, học vấn và giới tính trong con đƣờng phấn đấu đạt các vị trí
trong lãnh đạo, quản lý. Nam giới đƣợc kỳ vọng nhiều hơn và họ vẫn chiếm vị
trí ƣu thế trong chính trƣờng. Tác giả chú trọng phân tích sâu hơn những rào cản
đến con đƣờng tham chính của phụ nữ tại tỉnh Hà Tĩnh về thể chế; giá trị, chuẩn
mực, định kiến giới; trở ngại gia đình.
Khi nhìn nhận về rào cản đối với con đƣờng phát triển sự nghiệp chính trị,
cũng nhƣ sự nghiệp của phụ nữ, có ý kiến cho rằng phụ nữ luôn bị áp lực từ
gánh nặng của công việc gia đình, nhắc đến phụ nữ là công việc nội trợ, chăm
sóc gia đình (Lê Thị Mỹ Hiền, 2011). Cũng vì lẽ đó, nữ cán bộ khó đề bạt vào
trị chủ chốt mặc dù khi họ có cùng trình độ, năng lực với nam giới. Nghiên cứu
của Nguyễn Thị Hạnh (2013) cũng bổ sung thêm về những phát hiện cho rằng
phụ nữ dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên nói chung theo chế độ mẫu hệ, ngƣời
phụ nữ làm chủ gia đình nên họ phải lo toan quyết định các việc lớn nhỏ. Cuộc
sống thƣờng ngày của họ gắn chặt với nƣơng rẫy, với gia đình con cháu (35.1%
21


phụ nữ đồng ý với việc đảm nhận các việc trong nhà, 31.6% đồng ý việc chăm
sóc con cái là của phụ nữ, chỉ có 4.9% đồng ý việc nhà, 0.9 % đồng ý việc
chăm con là của ngƣời chồng). Theo các nhà chức năng, phân công lao động
theo giới trong gia đình thƣờng bị bỏ qua vì họ cho rằng phụ nữ thƣờng gắn với
việc nhà nhƣ là “thiên chức” trong khi nam giới lo toan “đại sự”. Theo báo cáo
phát triển con ngƣời năm 1995 của Chƣơng trình phát triển Liên hiệp quốc,
ƣớc tính phụ nữ dành hai phần ba số giờ lao động của họ cho những công việc
không trả công, nam giới chỉ dành một phần tƣ, và phần lớn số thời gian lao
động này là dành cho công việc chăm sóc. Việc phân công lao động trong gia

đình ở đây có xu hƣớng ngang bằng nhau, song, những việc quyết định quan
trọng trong gia đình thì ngƣời chồng có xu hƣớng quyết định nhiều hơn (Lê
Thi, 2010). Từ đó có thể thấy rằng muốn giải phóng phụ nữ ra khỏi “áp bức gia
đình”, trƣớc hết, cần phải thay đổi các thiết chế, có sự phân công lại lao động
trong gia đình (Lê Ngọc Văn, 2006; Trần Hàn Giang, 2004).
Đối với phụ nữ thuộc dân tộc ít ngƣời và từ các tỉnh nông thôn, miền núi, có
thể có thêm những trở ngại văn hóa xã hội khác liên quan đến thái độ và thói
quen trong các cộng đồng của họ. Nói một cách khác có những đặc thù trong
suy nghĩ, nhìn nhận của cộng đồng tộc ngƣời về vai trò giới, khác biệt giới
cũng nhƣ các ngầm định, mong đợi ở mỗi giới. Hình ảnh của ngƣời phụ nữ
lãnh đạo, quản lý luôn bị đánh giá rất thấp so với nam giới (Lê Thị Mỹ Hiền,
2011). Đó là sự khác biệt về giới tính và sự khác biệt đó đã xã hội hóa từ khi
cất tiếng chào đời (Lê Thị Quý, 2009; Lê Ngọc Văn, 2006). Những khuôn mẫu
giới về hình ảnh của phụ nữ đã trở thành rào cản khiến cho con đƣờng phấn
đấu của nữ cán bộ ở địa phƣơng ngày càng gian nan hơn. Hơn nữa nhận định từ
các nghiên cứu cho thấy phụ nữ dân tộc thiểu số thƣờng gặp phải rào cản về
ngôn ngữ (khả năng sử dụng tiếng phổ thông), khả năng tiếp cận/sử dụng

22


×