Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

CƠ sở lý LUẬN và THỰC TIỄN của VIỆC vận DỤNG PHƯƠNG PHÁP nêu vấn đề TRONG dạy học PHẦN CÔNG dân với KINH tế môn GIÁO dục CÔNG dân ở TRƯỜNG THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.68 KB, 54 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN
DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY
HỌC PHẦN CÔNG DÂN VỚI KINH TẾ MÔN GIAOS
DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG THPT


Cơ sở lý luận của việc vận dụng PPDH NVĐ trong
dạy học phần “Công dân với kinh tế” môn GDCD ở
trường THPT
Quan niệm về PPDH, phương pháp dạy NVĐ
Trong tiếng Hy Lạp cổ “Methodos” có nghĩa là “phương
pháp”, “con đường nghiên cứu”, “cách thức nhận thức” để
đạt tới mục đích nhất định. Phương pháp là hình thức tự vận
động bên trong của nội dung, nó gắn liền với hoạt động của
con người, giúp con người thực hiện tốt những nhiệm vụ mà
mục đích đã đề ra. Bởi vậy, PP bao giờ cũng có tính mục đích,
tích cấu trúc và luôn gắn liền với nội dung.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu PP là cách thức, con
đường để đạt tới mục đích. Do vậy, PPDH là con đường, cách
thức mà người GV sử dụng để hướng dẫn người học tiếp cận
những trí thức khoa học nào đó. PP không phải là hình thức
bên ngoài của nội dung, mà là biểu hiện bên trong của nội
dung, do nội dung quy định, hay PP là PP của nội dung, là
cách thức thực hiện nội dung. Vì thế, tùy theo tri thức mỗi
môn học có tính đặc thù riêng mà đòi hỏi phải vận dụng
những PPDH phù hợp. Các PPDH này luôn có tác dụng hỗ trợ


lẫn nhau hợp thành một hệ thống các PPDH nhằm chuyển tải
những nội dung tri thức khoa học của môn học đó tới người
học. Hệ thống các PPDH môn GDCD bao gồm các PPDH


như : PP thuyết trình, PP đàm thoại, PP thảo luận nhóm, PP
nêu vấn đề …
Vào những thập niên cuối thế kỷ XX, cùng với việc đổi
mới nội dung dạy học theo hướng hiện đại hóa để đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế tri thức và sự phát triển
như vũ bão của cuối cách mạng khoa học công nghệ thì trong
PPDH cũng đang diễn ra cuộc cách mạng lớn. Bản chất của
cuộc cách mạng này là chuyển từ PP truyền tin sang PP tổ
chức, điều khiến để người học tự tìm tòi, phát hiện và chiếm
lĩnh nội dung học vấn bằng chính hành động và thao tác của
họ. Trong đó, PPDH “Nêu vấn đề” là một trong những PPDH
rất phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục nước ta hiện nay.
Trong lý luận dạy học, PPDH NVĐ còn được gọi là
PPDH GQVĐ, PPDH giải quyết tình huống có vấn đề… Dạy
học NVĐ là PPDH đưa người học vào tình huống có vấn đề
và kích thích người học tự GQVĐ đó một cách sáng tạo.


Nói về PPDH nêu vấn đề đã có nhiều quan niệm khác
nhau như :
Trên quan điểm giáo dục, I.Ia.Lecne cho rằng “Dạy học
giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học trong đó học sinh
tham gia một cách hệ thống vào quá trình giải quyết các vấn
đề và các bài toán có vấn đề được xây dựng theo nội dung tài
liệu học trong chương trình" [24, 5- 6]
V.Ôkôn một nhà giáo dục học Ba Lan cho rằng “Dạy học
giải quyết vấn đề là toàn bộ các hoạt động như tổ chức tình
huống có vấn đề, biểu đạt các vấn đề, chú ý giúp đỡ HS
những điều cần thiết để GQVĐ, kiểm tra cách giải quyết đó
và cuối cùng là quá trình hệ thống hóa và củng cố các kiến

thức tiếp thu được" [31, 103]
Theo PGS. TS Nguyễn Ngọc Bảo cho rằng “Dạy học
giải quyết vấn đề là hình thức dạy học dựa trên những quy
luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động một cách
sáng tạo bao gồm sự kết hợp các phương pháp dạy và học là
có những nét cơ bản của sự tìm tòi khoa học. Nhờ vậy, nó
đảm bảo cho học sinh lĩnh hội vững chắc những cơ sở khoa


học, phát triển tính tích cực, tính tự lực và năng lực sáng tạo
và hình thành cơ sở thế giới quan cho họ"[1, 41] .
Nói về PPDH NVĐ có nhiều quan niệm khác nhau của
các tác giả trong và ngoài nước, nhưng điểm chung nhất của
các tác giả về PPDH NVĐ là hình thành cho HS năng lực tự
GQVĐ bằng cách tạo cho HS các tình huống có vấn đề, tạo
cho HS sự nhận biết và phát hiện vấn đề nảy sinh, khơi dậy
cho HS sự tìm tòi, khám phá trong hoạt động nhận thức.
Dưới đây là một số đặc điểm thể hiện bản chất của
PPDH NVĐ:
Thứ nhất, PPDH NVĐ bao gồm những hệ thống tác
động của GV và HS, những cách thức thực hiện tổng quát các
quy luật và nguyên tắc dạy học nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ
và mục đích dạy học.
Thứ hai, PPDH NVĐ là sự mô hình hóa quá trình tư duy,
cho nên những quy luật tâm lý tư duy và quy luật lĩnh hội một
cách sáng tạo tri thức là cơ sở của nó.
Thứ ba, trong dạy học NVĐ, phương tiện điều khiển
hoạt động nhận thức của HS là việc GV tạo nên tình huống có



vấn đề, HS ý thức rõ được vấn đề đó và tự lực hoặc dưới sự
hướng dẫn chỉ đạo của GV để GQVĐ, kiểm tra những kết
luận đã rút ra.
Thứ tư, PPDH NVĐ tạo điều kiện thực hiện tốt ba nhiệm
vụ dạy học đó là:
+ Dạy và học để làm gì ? (Mục đích)
+ Dạy và học những vấn đề gì ? (Nội dung dạy học)
+ Dạy và học như thế nào ? (PP và hình thức dạy học)
Qua đây ta có thể định nghĩa PPDH nêu vấn đề hay
PPDH giải quyết vấn đề như sau:
“Phương pháp dạy học nêu vấn đề hay dạy học dựa trên
vấn đề hoặc dạy học đặt và giải quyết vấn đề là phương pháp
trong đó, giáo viên đặt ra trước người học một (hay hệ thống)
vấn đề nhận thức, chuyển họ vào tình huống có vấn đề, sau
đó giáo viên phối hợp hoặc hướng dẫn, điều khiển người học
giải quyết vấn đề, đi đến những kết luận cần thiết của nội
dung học tập.”[40,28]
Dạy học NVĐ có những đặc trưng cơ bản sau:


Những bài toán nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa
cái chưa biết và cái phải tìm GV đặt ra trước học sinh
HS tiếp nhận mâu thuẫn của bài toán nhận thức như là
mâu thuẫn trong nội tâm mình và thôi thúc các em giải bài
toán nhận thức đặt ra.
HS có thể giải quyết vấn đề một cách tự giác, tích cực,
hứng thú của sự nhận thức sáng tạo qua quá trình giải quyết
bàitoán nhận thức.
Như vậy, cốt lõi của PPDH NVĐ là PP xây dựng một
chuỗi các tình huống có vấn đề do GV đặt ra nhằm tổ chức

điều khiển hoạt động của HS để GQVĐ nhằm thực hiện tốt
nhiệm vụ dạy học.
Vai trò của phương pháp dạy học nêu vấn đề :
Dạy học GQVĐ là PPDH nhằm phát triển năng lực tư
duy, khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề. Thông qua việc
giải quyết vấn đề, học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng và
phương pháp nhận thức. Dạy học GQVĐ là con đường cơ bản
để phát huy tính tích cực nhận thức của HS, có thể áp dụng
trong nhiều hình thức dạy học với mức độ tự lực của HS. Vì


vậy, tập cho HS biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn
đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, gia
đình và cộng đồng không chỉ có ý nghĩa ở tầm PPDH mà phải
được đặt ra như một mục tiêu giáo dục và đào tạo.
- Các hình thức và các bước thực hiện phương pháp
nêu vấn đề trong dạy học
- Các hình thức của PPDH nêu vấn đề trong dạy học
Tuỳ theo nội dung kiến thức cụ thể của từng bài giảng và
trình độ, khả năng tiếp thu tri thức của HS mà GV có thể vận
dụng PP NVĐ ở những hình thức sau : Trình bày nêu vấn đề,
tìm tòi bộ phận (từng phần), nêu vấn đề toàn bộ (toàn phần)
Trình bày nêu vấn đề
Đây là hình thức thấp nhất trong giảng dạy nêu vấn đề
được sử dụng khi cần phải truyền thụ kiến thức trừu tượng và
khái quát cao, hoàn toàn mới đối với học sinh, nhưng chưa có
một chút hiểu biết nào về chúng.
Ví dụ : Bài 3 “Quy luật giá trị trong sản xuất và lưu
thông hàng hóa”[2]. Để dạy phần″Quy luật giá trị", nếu sử
dụng PP NVĐ để giảng dạy thì giáo viên dùng PP trình bày



NVĐ kết hợp với PP thuyết trình . Mặc dù trong bài 2 đã đề
cập đến vấn đề tại sao lượng giá trị xã hội của hàng hóa lại do
thời gian lao động xã hội cần thiết quyết định (nhưng phần
này thuộc trong phần giảm tải). Giáo viên phải phân biệt các
cặp khái niệm ″thời gian lao động cá biệt" với ″thời gian lao
động xã hội cần thiết", ″giá trị cá biệt" với ″giá trị xã hội" của
hàng hóa. Từ ngữ “cá biệt” gắn với thời gian lao động hao
phí để sản xuất hàng hóa của từng người, từng doanh nghiệp.
Còn từ ngữ ″xã hội" gắn với thời gian lao động hao phí để sản
xuất hàng hóa, trong điều kiện trung bình. Mấu chốt của vấn
đề là ở chỗ trên thị trường xã hội không lấy giá trị cá biệt làm
căn cứ để trao đổi, mua bán mà lấy giá trị xã hội của hàng hóa
làm căn cứ. Qua việc GV trình bày vấn đề trong định nghĩa
này sẽ giúp HS hiểu được nội dung của quy luật giá trị. Nếu
GV giảng dạy tốt phần “Nội dung của quy luật giá trị” thì sẽ
kích thích sự hứng thú của HS, giúp các em có thể vận dụng
những hiểu biết về quy luật giá trị để giải thích hiện tượng
biến động của giá cả hàng hóa trong sản xuất và lưu thông
trong thực tiễn.
Trong khi thực hiện PP trình bày nêu vấn đề, GV dường
như phải thực hiện toàn bộ các bước của PP NVĐ. Nhưng


việc GQVĐ phải làm sao cho HS thấy rõ cách GQVĐ, những
lập luận cần thiết của GV qua đó HS hiểu biết, làm quen với
PP NVĐ, thu nhận trí thức mới. Tuy vậy GV cần tạo điều kiện
để HS tham gia GQVĐ dưới sự hướng dẫn của GV. Để hiểu
rõ “Nội dung của quy luật giá trị là gì ?” Trước hết GV cần

làm rõ các khái niệm “Thời gian lao động xã hội cần thiết là
gì ?” “Thời gian lao động cá biệt là gì ?”… Dưới sự hướng
dẫn của GV, HS có thể tham gia vào việc tìm hiểu các khái
niệm đó bằng các ví dụ để so sánh. Cuối cùng học sinh có thể
tự khái quát trên cơ sở kiến thức vừa nêu ra và GV nêu lên
đầy đủ, trọn vẹn, chính xác, định nghĩa “Nội dung của quy
luật giá trị”.
Tìm tòi bộ phận (Nêu vấn đề từng phần)
Trong mỗi bài giảng có nhiều mục nhỏ có liên quan chặt
chẽ với nhau. Đó là những phần, những bộ phận của bài
giảng. tạo thành một bài giảng trọn vẹn với kết cấu logic xác
định. Vì thế PP NVĐ từng phần được dùng để giải quyết từng
phần của bài giảng. Sau khi đưa HS vào tình huống có vấn đề,
GV hướng dẫn HS cách để học sinh tự GQVĐ và khái quát
hóa tri thức để giải quyết. Cuối cùng GV tổng hợp chúng, hệ


thống hóa lại giúp HS hiểu được kiến thức cơ bản, trọng tâm
của phần đó.
Ví dụ: Bài 4 ″Cạnh tranh trong sản xuất và lưu thông
hàng hóa" [2]. Nếu dùng PP NVĐ từng phần để dạy bài này
GV đưa HS vào tình huống có vấn đề “Trên thị trường ta
thường bắt gặp những hiện tượng ganh đua, giành giật hay
cạnh tranh với nhau giữa người bán với nhau, giữa người mua
với nhau… Những hiện tượng đó tốt hay xấu, có cần thiết
không ? Vì sao?” Để GQVĐ đặt ra, GV cần giúp HS tìm hiểu:
“Cạnh tranh là gì ?”, “ Nguyên nhân nào dẫn đến cạnh
tranh ?”, “Mục đích của cạnh tranh là gì ?”, “Em hãy cho biết
mặt tích cực và mặt hạn chế của cạnh tranh ?” Cuối cùng GV
phải tổng hợp lại để HS có thể nắm được những điểm cơ bản

của “cạnh tranh” và rút ra kết luận.
Nêu vấn đề toàn bộ:
Đây là mức độ cao nhất trong PPDH NVĐ. Ở hình thức
này, HS có thể tự giải quyết toàn bộ những vấn đề nêu lên
trong bài giảng dưới sự định hướng của GV sau khi GV suy
xét kỹ càng về nội dung kiến thức của bài giảng về khả năng
và trình độ tư duy, về kiến thức đã có của HS. Để HS có thể


giải quyết toàn bộ vấn đề trong bài giảng, bản thân GV đã
phải suy nghĩ tới tiến trình HS sẽ phải tiến hành, mối liên hệ
giữa các phần, giữa GQVĐ bộ phận với GQVĐ toàn bộ và
hướng vào trọng tâm, trọng điểm của bài, nếu GV có PP sư
phạm tốt, có nghệ thuật sư phạm thì thông qua việc giảng dạy
NVĐ toàn bộ sẽ giúp HS có PP tư duy khoa học. Giảng dạy
và học tập bao giờ cũng là nhằm mục đích truyền thụ và lĩnh
hội tri thức mới, củng cố tri thức đã có, nâng cao trình độ
nhận thức trên cơ sở của những kiến thức đã tích lũy được. Vì
thế, nếu GV biết liên hệ những tri thức đã tiếp thu được của
HS với tri thức mới thì việc giảng dạy NVĐ toàn bộ có thể
thực hiện được ngay cả với những tri thức được coi là hoàn
toàn mới.
Ví dụ : Bài 5 “Cung - cầu trong sản xuất và lưu thông
trong hàng hóa” [2]. Nếu vận dụng PP NVĐ toàn bộ để giảng
dạy thì GV có thể dùng kết hợp cả PP trình bày NVĐ và PP
tìm tòi bộ phận. Vấn đề là kết hợp sao cho cuối cùng đạt tới
PP nêu vấn đề toàn bộ. Đó là PP chủ yếu trong khi giảng dạy
bài này và nhằm cho học sinh hiểu rõ quy luật cung - cầu
trong sản xuất và lưu thông hàng hóa và sự vận dụng quan hệ
cung - cầu trong cuộc sống. Ta có thể đặt câu hỏi : Em hãy



cho biết tại sao ở địa phương em lại xuất hiện chợ ? ( Nêu vấn
đề) → Có thể HS sẽ trả lời đáp ứng sự cung- cầu trong cuộc
sống, sau đó có thể cho xem một số hình ảnh hoặc cho ví dụ
về cung, cầu và yêu cầu các em đưa ra định nghĩa: Cung là gì
? tương tự như vậy đối với định nghĩa cầu. Ta có thể đặt câu
hỏi tiếp theo: “Trên thị trường người bán và người mua họ
gặp nhau và họ có mối quan hệ với nhau vậy mối quan hệ đó
là gì ?, Và được biểu hiện như thế nào ?” ,“ Em hãy cho biết
việc vận dụng quan hệ cung - cầu như thế nào đối với Nhà
nước, các chủ doanh nghiệp và người tiêu dùng Cho ví dụ
minh họa cho từng trường hợp ?”
Trong bài này có rất nhiều kiến thức nhưng chúng lại
gắn chặt với các tri thức học sinh đã học như: Sản xuất, lưu
thông, thị trường, giá cả… Điều cần thiết là GV tìm ra cho
được kết cấu logic, mối quan hệ giữa các đề mục, mục nhỏ
của bài, hệ thống kết cấu chặt chẽ giữa các tri thức và từ đó
dẫn dắt học sinh giải quyết từng vấn đề nhỏ phục vụ cho việc
giải quyết vấn đề toàn bài. Qua những vấn đề vừa giải quyết
giúp học sinh hiểu được khái niệm cung, cầu, mối quan hệ
cung - cầu và vận dụng quan hệ cung - cầu. Học sinh học


xong bài này có thể giải thích ảnh hưởng của giá cả thị trường
đến cung - cầu của một loại sản phẩm của địa phương.
Việc xem xét các mức độ PP NVĐ trong giảng dạy
GDCD là cần thiết. Nhưng để sử dụng được chúng thì còn
phải tùy thuộc vào khả năng và trình độ sư phạm của GV.
Đồng thời trong quá trình giảng dạy GV cần kết hợp nhiều PP

giảng dạy khác nữa để bài học đạt hiệu quả cao nhất. Việc sử
dụng PPDH giúp học sinh hứng thú, say mê tìm hiểu môn học
và từ đó có hành động đúng đắn trong thực tiễn, từ đó xây
dựng một con người mới, một con người có ích cho đất nước
- Các bước thực hiện PP NVĐ trong dạy học
Bước 1: Đặt vấn đề đề chuyển người học vào tình huống
có vấn đề.
Căn cứ vào nội dung của bài, GV đưa ra một vấn đề hay
hệ thống các vấn đề mà trong đó:
+ Có mâu thuẫn giữa kiến thức cũ với kiến thức mới,
giữa cái đã biết với cái chưa biết, mà bài toán nhận thức cần
phải giải quyết.


+ Vấn đề đưa ra cũng có thể là một nghịch lý, một điều
gì đó không bình thường đối với cách nghĩ của học sinh, và
đôi khi dường như cảm thấy vô lý.
+ Vấn đề đưa ra là một kiến thức mới mà học sinh không
thể dùng kiến thức cũ để giải quyết.
+ Vấn đề đưa ra có thể là mối quan hệ nhân quả cần phải
giải quyết
+ Vấn đề đã đặt ra có thể học sinh phải đứng trước sự
lựa chọn một trong nhiều phương án, nhưng những phương án
này dường như đều cảm thấy hợp lý.
Tạo ra tình huống có vấn đề và đưa HS vào tình huống
đó là đặc trưng của PP NVĐ trong giảng dạy môn GDCD.
Ví dụ: Bài 6 “Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước"
[2]
GV có thể đặt vấn đề
“Tại sao nước ta tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại

hóa là một tất yếu khách quan ?”
Bước 2: Nghiên cứu và giải quyết vấn đề


Ở đây, GV đóng vai trò là người hướng dẫn, dẫn dắt HS
tìm ra cách GQVĐ học tập được đưa ra và HS phải huy động
vốn tri thức đã có để lý giải vấn đề.
GQVĐ trong môn GDCD ở trường THPT thường HS
phải vận dụng một khối lượng tri thức tương đối lớn về lĩnh
vực tự nhiên, xã hội, khoa học kỹ thuật, kinh tế và trong thực
tiễn mà HS có thể biết chút ít hoặc chưa sử dụng đến cũng có
thể lý giải được vấn đề đặt ra.
Bước này, GV có thể đưa ra những những yêu cầu bằng
hình thức thuyết trình, câu hỏi dẫn dắt, những giả thuyết được
trình bày một cách ngắn gọn, xác thực.
Ví dụ: Bài 7: “Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần
và tăng cường vai trò quản lý kinh tế nhà nước.” [2]
Để trả lời cho câu hỏi ″Tại sao trong thời kỳ quá độ
nước ta tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần?" (GV có thể dẫn
dắt HS: Em có thể kể một số thành phần kinh tế đã có từ trước
mà em biết và những thành phần kinh tế mới trong thời kỳ mở
cửa ? Em có nhận xét gì về nguồn nhân lực nước ta ?
→Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định của lực lượng sản
xuất, mà lực lượng sản xuất nước ta còn thấp kém → sở hữu


về TLSX khác nhau mà sở hữu về TLSX là căn cứ để xác
định thành phần kinh tế → Đây chính là những lý do tồn tại
nền kinh tế nhiều thành phần)
Bước 3: Kết luận vấn đề

Cuối cùng, HS rút ra kết luận cho vấn đề mình mới giải
quyết, GV nhận xét, bổ sung để kết luận được hoàn chỉnh. Từ
kết luận rút ra học sinh tiếp tục phát hiện, đề xuất những vấn
đề học tập mới.
Ví dụ: Sau khi trả lời ví dụ ở bước 2, GV có thể đặt câu
hỏi tiếp theo như sau: “Theo em, với sự tồn tại nền kinh tế
nhiều thành phần, vấn đề tìm kiếm việc làm có gì khác với
trước đây khi nền kinh tế nước ta còn tình trạng bao cấp ?”
Để thực hiện tốt 3 bước của PP NVĐ cần lưu ý một số
điểm sau:
Những vấn đề được nêu ra cho HS giải quyết và diễn ra
theo 3 bước trên (có thể có nhiều cách trả lời cho một vấn đề
được nêu ra, HS phải có sự suy nghĩ độc lập theo cách tiếp
cận của mình)


Trong khi thực hiện 3 bước, vai trò của người GV là
hướng dẫn chỉ đạo giúp HS tìm ra lời giải. GV thường sử
dụng chung hệ thống những câu hỏi gợi mở giúp HS nghiên
cứu, tò mò muốn GQVĐ đang được nêu ra, có thể là những
câu hỏi thuận hoặc câu hỏi ngược để giúp HS chứng minh
được vấn đề. Những câu hỏi ngược giúp HS động não nghiên
cứu hơn trong quá trình học tập, giúp HS có kỹ năng phản
biện tốt hơn .
Để đưa ra hệ thống câu hỏi phù hợp PP NVĐ trong
giảng dạy môn GDCD, đòi hỏi người GV phải có kỹ năng đặt
thành thạo theo những câu hỏi thường gặp trong DH NVĐ.
Khi đặt câu hỏi, GV phải tạo sự kích thích chung cho tất
cả HS, sau đó có thể cho HS kém trả lời trước rồi đến HS
trung bình, khá, giỏi và yêu cầu tất cả phải lắng nghe ý kiến

của các bạn trả lời sau đó đóng góp ý kiến ,nhận xét.
GV cần phải lắng nghe câu trả lời của HS và nếu cần có
thể đặt câu hỏi phụ có tính chất gợi mở để giúp HS bình tĩnh
không nên cắt ngang câu trả lời của HS, nếu thấy không cần
thiết. Cần tôn trọng và khuyến khích HS tham gia GQVĐ.


GV hướng dẫn HS các cách thức, biện pháp để giải
quyết nhiệm vụ nhận thức thật logic.
- Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học nêu
vấn đề
-Ưu điểm của phương pháp dạy học nêu vấn đề
Phương pháp dạy học nêu vấn đề là một PPDH tích cực,
luôn gây sự hứng thú, tìm tòi, khám phá, phát hiện ra cái mới
cho học sinh, PPDH này có rất nhiều ưu điểm. Ta có thể khái
quát các ưu điểm như sau:
Một là, PPDH NVĐ tạo cho người học một sự hứng thú
ham học hỏi, nghiên cứu, tìm tòi, luôn muốn khám phá, luôn
lôi cuốn người học trong quá trình nhận thức, phát huy trí tuệ,
hình thành cho người học kỹ năng tư duy, đòi hỏi phải cố
gắng hết mức để có thể giải quyết các vấn đề được đặt ra, PP
này giúp người học phát hiện ra được năng lực tiềm ẩn của
chính mình.
- Hai là, PPDH NVĐ sẽ giúp cho người học năng lực tự
học, tự sáng tạo, rèn luyện cho người học cách tự học, có khả
năng nhận biết và vận dụng vào thực tiễn một cách linh hoạt.


Qua việc giải các bài toán nhận thức giúp cho họ một số kiến
thức đồng thời còn giúp cho họ những kĩ năng, kĩ xảo để họ

không những nắm được nội dung bài học, cả những nội dung
mới ở SGK và còn có khả năng giải quyết các tình huống xảy
ra trong thực tế cuộc sống một cách dễ dàng, nhạy bén.
Ba là, PPDH NVĐ tại lớp thông qua sự cùng thảo luận,
giúp cho người học thêm sự hứng thú với nội dung học tập,
khả năng ghi nhớ nội dung bài học một cách sâu sắc hơn và
khả năng tập hợp trí tuệ của tập thể để GQVĐ, tạo điều kiện
để người học có thể học hỏi lẫn nhau, giúp họ có khả năng
giao lưu, bản lĩnh, tự tin trước đám đông .
Bốn là, qua việc các em trình bày lý giải những vấn đề
được đặt ra giúp GV có thể đánh giá phân loại được HS, từ
đó GV có cách thức giảng dạy phù hợp với từng đối tượng.
Năm là, PPDH NVĐ không chỉ giúp người học tích cực
hơn trong hoạt động nhận thức của mình mà người dạy cũng
trở nên tích cực hơn trong quá trình điều khiển hoạt động
nhận thức của người học từ đó làm hoạt động của người dạy
trở nên đa dạng, phức tạp và khó khăn hơn rất nhiều. Nếu như
người GV thiếu sự chuẩn bị, vốn kiến thức ít, kỹ năng sư


phạm bị hạn chế thì người GV sẽ không hoàn thành nhiệm vụ
dạy học.
- Hạn chế của phương pháp dạy học nêu vấn đề
Tuy PPDH NVĐ có rất nhiều ưu điểm nhưng PPDH này
cũng không phải là phương pháp vạn năng, bên cạnh nó cũng
có một số hạn chế sau.
Thứ nhất, nếu như vận dụng PP NVĐ một cách tuyệt đối
hóa sẽ dẫn đến không đảm bảo chất lượng đồng đều cho
người học, nhiều học sinh yếu kém dễ bị lạc hướng trong việc
GQVĐ, nhiều HS có tâm lý ngại học, nản chí khi gặp tình

huống khó.
Thứ hai, trong quá trình sử PP NVĐ, giáo viên đã yêu
cầu người học đọc thêm tài liệu, nhắc lại kiến thức phân tích
đưa ra lập luận… để tăng hoạt động của người học nhằm tăng
hiệu quả của tiết dạy. Nhưng để làm được điều này thì đòi hỏi
phải có nhiều người thời gian, vốn kiến thức của HS phải
nhiều, phải đọc nhiều tài liệu tham khảo thì giờ dạy mới đạt
hiệu quả.


Thứ ba, việc tạo ra tình huống có vấn đề không phải đơn
giản và không phải GV nào cũng thực hiện một cách dễ dàng.
Hơn nữa, môn GDCD là môn học có tính thực tiễn khá cao, vì
thế đòi hỏi người GV phải có trình độ chuyên môn vững vàng,
có vốn kiến thức về cuộc sống sâu rộng đặc biệt là những kiến
thức có liên quan đến bộ môn.
Thứ tư, PPDH NVĐ đòi hỏi GV phải đổi mới hình thức
kiểm tra đánh giá phù hợp, nhằm động viên phát huy năng lực
tự học, tự nghiên cứu của HS nếu GV không làm được điều
này thì HS dễ chán nãn, chủ quan, xem thường môn học.
Qua những phân tích trên cho ta thấy PP NVĐ là một
trong những PP dạy học tích cực. Nếu PP này được vận dụng
tốt sẽ giúp cho cho người học năng lực tự học, tự nghiên cứu,
khả năng sáng tạo, phát triển tư duy, kĩ năng, kĩ xảo. Từ đó có
thể hình thành cho học sinh khả năng nhận biết, suy đoán và
GQVĐ trong thực tiễn cuộc sống, PP này cũng góp phần tích
cực hóa vai trò của người dạy và nó đòi hỏi ở người dạy phải
có vốn kiến thức vững vàng, phải có nghiệp vụ và kỹ năng sư
phạm, phải nắm được đặc thù bộ môn. Trong DH NVĐ tính
sáng tạo không chỉ ở cách học mà cả cách dạy cũng mang tính

sáng tạo, người dạy vẫn đóng vai trò là người cùng tìm tòi,


khám phá chứ không phải là người trọng tài khoa học, ngay
cả những bài toán nhận thức mà người dạy đã có lời giải trước
khi nghe người học giải bài toán đó.
Mặc dầu, PPDH nào bên cạnh những mặt tích cực cũng
có một số mặt hạn chế và PPDH NVĐ cũng không phải là
ngoại lệ. Để phát huy hiệu quả của PPDH NVĐ ta cần phải có
sự kết hợp hài hòa với các PPDH khác như PP thảo luận
nhóm, PP thuyết trình, PP đàm thoại, PP nghiên cứu trường
hợp điển hình, PP dự án,… phù hợp với sỉ số học sinh trong
lớp khá đông, trình độ của các em không đồng đều.
Người dạy học phải luôn luôn vận động, suy nghĩ, làm
thế nào để đạt mục tiêu là đào tạo những HS thông minh,
nhạy bén, sáng tạo. Nếu người thầy có suy nghĩ về quan niệm
sai lệch và thiếu trách nhiệm trong DH GQVĐ thì người học
sẽ bị lạc hướng và dễ dàng nãn chí dẫn đến hiệu quả của giờ
học không cao.
- Cơ sở thực tiễn của việc vận dụng phương pháp nêu
vấn đề trong dạy học phần “Công dân với kinh tế” môn
GDCD ở THPT Lê Hồng Phong, Phú Yên


- Khái quát về trường THPT Lê Hồng Phong tỉnh Phú
Yên.
Tiền thân của trường THPT Lê Hồng Phong là trường
phổ thông cấp 3 Lê Hồng Phong được thành lập theo quyết
định số 1371/ UB- GD của Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Khánh
ký ngày 2 tháng 8 năm 1977

Ngày 5 tháng 9 năm 1977 trường chính thức khai giảng
năm học đầu tiên năm 1977.
Năm 1978 tại cơ sở phía tây của thôn Phú Thứ, xã Hòa
Bình với gần 300 học sinh (gồm 2 lớp 11 và 4 lớp 10) gồm có
2 cán bộ quản lý, 25 GV và 6 nhân viên.
Năm 2000 Nhà trường được nhà đầu tư xây dựng hai
dãy nhà 3 tầng, gồm 21 phòng học, 03 phòng bộ môn, một
khu văn phòng và một dãy thư viện.
Đến năm 2009 quy mô trường tiếp tục được mở rộng
bằng việc xây thêm một dãy 3 tầng gồm 9 phòng học và 3
phòng thực hành phục vụ việc học tập của 2316 học sinh.
Hiện nay, trường có 119 thầy cô giáo, cán bộ, nhân viên
trong đó có 7 GV trình độ thạc sĩ và 1 GV đang đi học, 109


người trình độ đại học, 2 trình độ trung cấp. Nhiều giáo viên
đã đạt giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh và đã có đóng góp tích cực
trong hoạt động chuyên môn của ngành giáo dục tỉnh nhà.
Đảng bộ trường gồm 66 Đảng viên ( trình độ lý luận cao cấp
1, trung cấp 2 và đang đi học 2)
Công đoàn, đoàn thanh niên thường xuyên tổ chức các
phong trào thi đua yêu nước, giáo dục ý thức kỷ luật, nếp
sống văn hóa cho cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh.
Hiện trường có 45 lớp học với 1932 học sinh, chất lượng
giáo dục không ngừng được nâng lên. Cơ sở vật chất đáp ứng
nhu cầu trang thiết bị dạy học hiện đại, ứng dụng hiệu quả
công nghệ thông tin trong quản lý và trong giảng dạy và học
tập, trường có 30 phòng học cao tầng kiên cố, 10 phòng công
vụ, 3 phòng vi tính, 1 thư viện và 3 phòng thí nghiệm thực
hành và một số phòng chức năng. Trường khá khang trang

sạch đẹp, thực sự là môi trường giáo dục thân thiện cho học
sinh.
Lãnh đạo trường gồm có 04 thầy cô
+ 01 hiệu trưởng


×