Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận Những điểm mới về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.46 KB, 14 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Hiến pháp là công cụ quan trọng nhất để bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, do vậy chế định quyền con người, quyền công dân luôn là một nội dung quan
trọng cấu thành Hiến pháp.
Trong lịch sử lập hiến ở Việt Nam, từ năm 1946, đến Hiến pháp năm 1959,
Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013, chế định quyền
con người, quyền và nghĩa vụ của công dân luôn giữ vị trí quan trọng. Tuy nhiên,
Hiến pháp năm 2013 là đỉnh cao trong hoạt động lập hiến bảo vệ quyền con người.
Qua hơn 30 năm Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới
quyền con người, quyền công dân đã quy định đầy đủ, phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và với chuẩn mực quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.
Trong Hiến pháp năm 2013, có 36 điều quy định về quyền con người, quyền và
nghĩa vụ của công dân. Điều đáng chú ý, quyền con người, quyền công dân không
chỉ được quy định ở một chương, mà còn nằm ở nhiều chương khác nhau của Hiến
pháp. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 có những sửa đổi, bổ sung
và phát triển quan trọng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân.
Để hiểu rõ hơn vấn đề này, em chọn nội dung “Những điểm mới về quyền
con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013” để viết bài thu hoạch của
mình.


2
PHẦN NỘI DUNG
1. Những vấn đề chung về quyền con người, quyền công dân
1.1. Khái niệm quyền con người, quyền công dân
1.1.1. Khái niệm về quyền con người
Quyền con người là những quyền mà tất cả mọi người không phân biệt giới
tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội… đều có, đơn giản chỉ vì họ là con người.
Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ cá
nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân
phẩm, những tự do cơ bản của con người.


1.1.2. Khái niệm về quyền công dân
Quyền công dân là tổng hợp các quyền và tự do cơ bản của mỗi cá nhân, tạo
nên địa vị pháp lý của cá nhân trong mối quan hệ với nhà nước thông qua chế định
quốc tịch, được thừa nhận và bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật của quốc gia.
1.1.3. Những điểm giống nhau và khác nhau của quyền con người và quyền
công dân
- Điểm giống nhau: Thể hiện ở 4 nội dung sau:
Thứ nhất, chúng đều xuất phát từ phẩm giá vốn có và sự bình đẳng của con
người. “Phải từ cái thuộc tính chung là con người, từ sự bình đẳng của mọi người
với tư cách là con người, rút ra cái quyền có giá trị ngang nhau về chính trị và xã
hội cho tất cả mọi người, hay ít ra là mọi công dân trong một nước”
Thứ hai, quyền con người, quyền công dân đều tập trung vào chủ đề “quyền”
– tức là các khả năng và tự do cơ bản của mọi người, mọi công dân được sống trong
nhân phẩm, nó luôn thuộc về cá nhân, công dân và không thể bị tước đoạt.
Thứ ba, trong nhiều trường hợp, quyền con người, quyền 161
công dân có tên gọi
giống nhau và nội hàm được bảo vệ như nhau.
Thứ tư, chế định quyền con người, quyền công dân là nội dung cốt lõi của các


3
Hiến pháp dân chủ và do đó, đều là nghĩa vụ của nhà nước và một số chủ thể khác
trong xã hội.
- Điểm khác nhau
Quyền con người và quyền công dân có những sự khác biệt nhất định về lịch
sử tư tưởng, chủ thể quyền, tính chất, nội hàm và cơ chế bảo đảm…
1.2. Nội dung các quyền con người, quyền công dân quy định trong Hiến
pháp năm 2013
1.2.1. Các quyền dân sự, chính trị
Theo Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật Việt Nam các quyền dân

sự, chính trị được ghi nhận và bảo đảm bao gồm:
- Quyền sống, bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm
+ Quyền sống: Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền sống.
Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái
luật” (Điều 19), đồng thời “Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe
của người khác và cộng đồng” (Điều 38).
+ Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm: Điều 20 Hiến
pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo
lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể,
sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.
+ Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác: Đây là quyền mới được bổ
sung trong Hiến pháp. Theo đó, mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người
và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay
bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của
người được thử nghiệm.

161

- Quyền được bảo vệ khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện: Khoản 2, Điều 20 Hiến


4
pháp năm 2013 quy định: “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án
nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện Kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp
phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định”.
- Quyền được đổi xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những người bị
bắt, giam, giữ: Quyền của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam được quy định trong
Hiến pháp và được cụ thể hóa trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó,
hình phạt đối với người phạm tội không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn

giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các
quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới.
- Quyền được xét xử công bằng: Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định và
bảo đảm một loạt các quyền con người có liên quan trong hoạt động tố tụng hình sự
như sau: Quyền được coi là không có tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật (nguyên tắc suy đoán vô tội); Quyền được Tòa án xét xử
kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai; Không ai bị kết án hai lần vì
một tội phạm; Quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa; Quyền
được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự.
- Quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử: Bình đẳng, không phân biệt đối
xử được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật về quyền con
người. Điều 16 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Mọi người đều binh đẳng trước pháp
luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa,
xã hội”. Nguyên tắc hiến định này đã được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật
khác nhau.
- Quyền được bảo vệ bí mật đòi tư: Điều 21, Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí
mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống
161

riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn. Mọi
người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông


5
tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện
thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác”.
- Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở: Điều 22 Hiến pháp năm 2013 quy định:
Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về
chồ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng

ý. Việc khám xét chỗ ở do luật định.
- Quyền tự do đi lại và cư trú: Điều 23 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công
dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước
ngoài về nước”.
- Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo: Điều 24 Hiến pháp năm
2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng
và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín
ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Thứ mười, Các quyền tự do, dân chủ khác về dân sự, chính trị
Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định một loạt các quyền tự do dân chủ về
dân sự, chính trị, gắn liền với mỗi cá nhân, công dân bao gồm: quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí; quyền tiếp cận thông tin; quyền hội họp, lập hội, biểu tình. Hiến
pháp cũng quy định: Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.
Thứ mười một, Quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân
Điều 36 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn.
Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình
đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi
của người mẹ và trẻ em”.
Thứ mười hai, Quyền tham gia quản lý nhà nước

161

Quyền tham gia quản lý nhà nước được quy định từ Điều 27 đến Điều 30
Hiến pháp năm 2013, bao gồm các quyền như: Quyền bầu cừ ứng cử; Quyền tham


6
gia thảo luận, kiến nghị với các cơ quan nhà nước và biểu quyết khi nhà nước tổ
chức trưng cầu dân ý; Quyền khiếu nại, quyền tố cáo và trách nhiệm tiếp công dân

của cơ quan nhà nước.
1.2.2. Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
- Quyền về việc làm: Điều 35 Hiến pháp năm 2013 quy định: Công dân có
quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc. Khoản 2, Điều 35
Hiến pháp 2013 khẳng định: Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện
làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi.
- Quyền tự do kinh doanh: Điều 33 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người
có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”.
- Quyền sở hữu: Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Nhà nước, pháp luật bảo
hộ quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập
hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp
trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Tài sản hợp pháp của cá
nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc
hữu hóa.
- Quyền có mức sống thích đáng: Điều 3 Hiến pháp năm 2013 xác định: Nhà
nước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
- Quyền thành lập và gia nhập công đoàn: Khoản 2, Điều 9 Hiến pháp khẳng
định: Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị-xã hội được thành lập trên cơ sở tự
nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội
viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và
thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Nhà nước có nghĩa vụ bảo
đảm, hỗ trợ, tạo điều kiện cho Công đoàn thực hiện chức năng, 161
quyền, trách nhiệm
theo quy định của pháp luật.
- Quyền được hưởng an sinh xã hội: Hiến pháp năm 2013 chính thức ghi


7
nhận quyền được bảo đảm an sinh xã hội tại Điều 34. Bên cạnh đó, Hiến pháp xác

định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo bình đẳng về cơ hội để
công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội.
- Quyền được chăm sóc sức khỏe: Con người có quyền được chăm sóc, bảo
yệ sức khỏe. Chăm sóc sức khỏe là nghĩa vụ của Nhà nước đối với mọi người.
- Quyền về giáo dục: Điều 61 Hiến pháp khẳng định rõ quan điểm, mục tiêu
giáo dục của Việt Nam coi phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao
dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
- Quyền về văn hóa: Hiến pháp khẳng định: Nhà nước, xã hội chăm lo xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
1.2.3. Các quyền của nhóm dễ bị tổn thương
- Quyền của phụ nữ: Hiến pháp xác định: Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi
mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới Nhà nước, xã
hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình
trong xã hội. Tất cả những hành vi phân biệt đối xử về giới bị nghiêm cấm.
- Quyền của trẻ em: Khoản 1, Điều 37 Hiến pháp khẳng định rõ: “Trẻ em
được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia
vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm
dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”.
- Quyền của các nhóm dễ bị tổn thương khác: Ngoài những đối tượng trên,
một số nhóm đối tượng khác cũng thuộc nhóm những người dễ bị tổn thương:
người nghèo, người dân tộc thiểu số, người có công, người bị nhiễm chất độc,
người nhiễm HIV/AIDS.
161dân trong Hiến
2. Những điểm mới về quyền con người, quyền công

pháp năm 2013
Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con



8
người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý
quốc tế. Ở Việt Nam, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
luôn được tôn trọng và bảo đảm. Cùng với việc ghi nhận quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980,
1992, Đảng và Nhà nước ta đã thực thi nhiều chính sách bảo đảm quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về
quyền con người như Công ước quốc tế về loại trừ các hình thức phân biệt chủng
tộc năm 1965, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966,
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về
xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979, Công ước về quyền
trẻ em năm 1989, Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2006 v.v… và đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, to lớn, góp phần xây dựng một nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”,
đóng góp vào cuộc đấu tranh chung vì mục tiêu hòa bình và tiến bộ xã hội của toàn
nhân loại. Tiếp tục kế thừa và phát triển những quy định của các bản Hiến pháp
trước đây về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp
năm 2013 đã có những đổi mới căn bản, quan trọng cả về cơ cấu, bố cục, cách viết
và nội dung. So sánh, đối chiếu với các bản Hiến pháp trước đây, đặc biệt là Hiến
pháp năm 1992, sẽ càng thấy rõ đều đó.
Thứ nhất, về tên Chương, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, “quyền con
người” đã trở thành tên gọi của Chương, thay vì chỉ gọi là “quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân” như Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đó. Sự bổ
sung cụm từ “quyền con người” là điểm nhấn quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong
bối cảnh xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Đây không chỉ đơn
thuần là sự bổ sung một cụm từ mang tính chất kỹ thuật lập hiến, mà còn phản ánh
tư duy phát triển, phù hợp với xu hướng của dân tộc, thời đại và 161
nhân loại. Cùng đó,
cũng xóa bỏ ranh giới còn chưa rõ ràng giữa khái niệm về quyền con người và
quyền công dân (quyền con người là quyền tự nhiên, bất cứ ai cũng có quyền đó;



9
quyền công dân là quyền của những người có quốc tịch Việt Nam), ghi nhận việc
mở rộng các chủ thể của quyền, khẳng định chủ thể rộng nhất của quyền con người
là mọi cá nhân, mọi người đều được hưởng. Việc thay đổi tên Chương từ “Quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân” thành “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân” trong Hiến pháp năm 2013 còn thể hiện sự nỗ lực và cam kết mạnh
mẽ của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện các Công ước quốc tế về quyền
con người mà Việt Nam là thành viên.
Thứ hai, Chương quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân được đưa lên và đặt trang trọng tại Chương II, ngay sau Chương I quy
định về chế độ chính trị. Đây cũng không chỉ đơn thuần là sự thay đổi số học về vị
trí các chương mang tính chất kỹ thuật lập hiến, mà còn thể hiện sự thay đổi về
nhận thức lý luận, tư duy lập hiến, là sự khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đề cao nguyên tắc Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, chủ
quyền tối cao thuộc về nhân dân, đồng thời cũng phản ánh thực tiễn đổi mới toàn
diện, hội nhập sâu rộng, tiến bộ và phát triển của đất nước ta, thể hiện nhất quán
đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo
vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Tham khảo Hiến pháp
của nhiều nước trên thế giới cho thấy, Chương quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân đều được đặt ở vị trí trang trọng nhất - Chương I hoặc Chương
II của các bản Hiến pháp.
Thứ ba, với quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (khoản 1 Điều
14), Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện sự phát triển quan trọng về nhận thức lý luận
161công dân so với
và tư duy lập hiến trong việc ghi nhận quyền con người, quyền


Hiến pháp năm 1992 (chỉ ghi nhận quyền con người về chính trị, dân sự và kinh tế,
văn hóa, xã hội được thể hiện ở các quyền công dân). Điểm nhấn của nội dung này


10
là việc bổ sung nguyên tắc “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế
theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (khoản 2 Điều
14). Đây chính là điều kiện để bảo đảm tính hiện thực của quyền con người, quyền
công dân, bảo đảm sự cân bằng, minh bạch và lành mạnh giữa các lợi ích trong mối
quan hệ giữa Nhà nước với con người, công dân, cá nhân và phù hợp với các công
ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên; hạn chế tối đa bất cứ
sự lạm dụng hay tùy tiện nào tước đi hay hạn chế các quyền và tự do vốn có của
mọi người bởi các cơ quan nhà nước.
Thứ tư, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn các nguyên tắc
về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo hướng: quyền công
dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của
người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội;
việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc
gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật; không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội (Điều 15 và Điều 16). Nguyên tắc hiến định này vừa khẳng định sự
thống nhất chặt chẽ giữa quyền và nghĩa vụ, vừa đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực
hiện quyền của người này không thể là sự chối bỏ, phủ nhận hay xâm phạm đến
quyền của người khác; nói khác đi, việc tôn trọng các quyền tự do của mỗi người
phải đặt trong mối quan hệ với việc tôn trọng quyền và tự do của người khác.
Thứ năm, so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung 05
quyền hoàn toàn mới và sửa đổi, bổ sung trên 30 quyền còn lại.
- Về các quyền hoàn toàn mới, với 05 điều cụ thể: Điều 19 (quyền sống),

Điều 40 (quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và
161

thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó), Điều 41 (quyền hưởng thụ và tiếp cận các
giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa), Điều 42
(quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ


11
giao tiếp), Điều 43 (quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ
bảo vệ môi trường), Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định sự phát triển mạnh mẽ
trong chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Các
quyền này đều nằm trong hai nhóm quyền cơ bản được ghi nhận trong các Công
ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Các quyền này vô cùng
thiết yếu đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi người với tư cách là thành viên của
cộng đồng nhân loại và với tư cách là cá nhân. Trong 05 quyền mới được hiến định
lần này, có thể nói việc hiến định quyền sống được coi là bước tiến rõ rệt đối với
những cam kết của Việt Nam trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền sống của tất cả
mọi người, trong đó có cả các nhóm người dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em,
người khuyết tật…Bên cạnh quyền sống, con người còn cần đến nhu cầu và điều
kiện để phát triển. Quyền được phát triển gắn liền với việc tiếp cận, nghiên cứu, thụ
hưởng các giá trị vật chất, tinh thần và những thành quả của khoa học - công nghệ,
văn học, nghệ thuật, các giá trị văn hóa. Chính vì thế, việc hiến định các quyền về
nghiên cứu khoa học - công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật, về văn hóa là hết
sức cần thiết, giúp ích cho việc nâng cao chất lượng cuộc sống và mục tiêu hướng
tới của quá trình phát triển của mọi người. Thực tiễn gần 30 năm đổi mới và hội
nhập quốc tế của nước ta cho thấy, tình trạng suy thoái và ô nhiễm môi trường đã và
đang là nguyên nhân trực tiếp đe dọa đến sự sống, sức khỏe, sự phát triển của mọi
người. Vì vậy, quyền sống và quyền phát triển của mọi người không thể tách rời với
quyền về môi trường. Điều 43 Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có quyền

được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Quyền
về môi trường là một loại quyền mới trong hệ thống các quyền con người, trong khi
nhiều quốc gia trên thế giới chưa hiến định quyền này thì quy định của Hiến pháp
năm 2013 về quyền môi trường lại càng có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện sự tiến bộ, phát
triển rõ rệt của Việt Nam trên trường quốc tế. Ở một quốc gia đa
161dân tộc như Việt
Nam, quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn
ngữ giao tiếp của công dân là nhu cầu và là yếu tố bảo đảm bình đẳng, đoàn kết, tôn


12
trọng và giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc. Xác định rõ vấn đề này, Điều
42 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình,
sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”.
- Về các quyền được sửa đổi, bổ sung. Cùng với việc hiến định các quyền
mới, Hiến pháp năm 2013 còn sửa đổi, bổ sung hơn 30 điều cụ thể trong Chương
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những sửa đổi, bổ sung
này là một bước tiến mới trong việc hiến định các quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân; là sự phản ánh thành tựu của gần 30 năm đổi mới và hội
nhập quốc tế của đất nước, thể hiện trách nhiệm ngày càng cao của Nhà nước trong
việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
với những thiết chế, cơ chế hiệu lực, hiệu quả, trong đó đáng chú ý là cơ chế thực
hiện quyền dân chủ trực tiếp như quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác
(Điều 20), quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật
gia đình; quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình (Điều 21), quyền có nơi ở hợp
pháp (Điều 22), quyền tiếp cận thông tin (Điều 25), quyền được bảo đảm an sinh xã
hội (Điều 34), quyền kết hôn, ly hôn (Điều 36) v.v… Khẳng định thân thể, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm là một quyền bất khả xâm phạm của mọi người, Hiến
pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng định mọi người không bị tra tấn, bạo lực, truy
bức, nhục hình hay bất cứ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe,

xúc phạm danh dự, nhân phẩm (khoản 1, Điều 20). Quy định này thể hiện quyết
tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm cho mọi người được hưởng quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, đồng thời cũng thể hiện cam kết trong việc thực hiện
Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng
phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người mà Quốc hội khóa XIII đã phê
chuẩn tại kỳ họp thứ 8.
161
- Về các nghĩa vụ cơ bản của công dân, nghĩa vụ nộp thuế
đã sửa đổi về chủ

thể, thay cụm từ “công dân” bằng cụm từ “mọi người” cho phù hợp (mọi người có
nghĩa vụ nộp thuế theo luật định chứ không chỉ có công dân Việt Nam như quy định


13
tại Điều 80 của Hiến pháp năm 1992). Bên cạnh đó, tại Chương II của Hiến pháp
năm 2013 cũng còn một số điều quy định quyền gắn với nghĩa vụ cơ bản của công
dân, như quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các
dịch vụ y tế và nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa
bệnh (Điều 38), quyền và nghĩa vụ học tập của công dân (Điều 39); quyền và nghĩa
vụ bảo vệ Tổ quốc (Điều 45) v.v…
Thứ sáu, Hiến pháp năm 2013 đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò, trách nhiệm
của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện các quyền con
người, quyền công dân, nhất là các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội, như: “Nhà
nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” (khoản 2 Điều 24),
“Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy
vai trò của mình trong xã hội” (khoản 2 Điều 26), “Nhà nước tạo điều kiện để công
dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp
nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân (khoản 2 Điều 28); “Nhà nước bảo
hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em” (khoản 2 Điều

36); “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”,
“Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động, giải
trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công
dân…”, “Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và
phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Điều 37) v.v…
Cùng với việc nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện các quyền con người, Hiến pháp năm 2013
đã bổ sung các thiết chế độc lập nhằm tăng cường cơ chế thực hiện quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, như hiến định Hội đồng Bầu cử
quốc gia (Điều 117) và bổ sung quy định “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”
(đoạn 2, khoản 2 Điều 119).

161


14
PHẦN KẾT LUẬN

Như vậy, so với Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đó, Hiến
pháp năm 2013 đã có những sửa đổi, bổ sung và phát triển quan trọng về quyền con
người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Hiến pháp 2013 về cơ bản đã tiếp thu quy
định của Công ước quốc tế về quyền chính trị, dân sự; quyền kinh tế, văn hóa và
tuyên ngôn nhân quyền năm 1948. Sự tiếp thu này là phù hợp với thời kỳ toàn cầu
hóa, và để những quy định về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
được đầy đủ hơn.
Với tinh thần đó, hoàn toàn có thể khẳng định, Hiến pháp 2013 đã phản ánh
được ý chí, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân; thể hiện rõ và đầy đủ
hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội; quy định rõ ràng, đúng đắn và đầy đủ về chế độ chính trị, kinh tế,
văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, quyền con người, quyền và

nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đặc biệt, việc Việt Nam hiến định quyền con người
trong Hiến pháp 2013 là sự tiếp nối logich và tạo nền tảng pháp lý cao nhất để bảo
đảm quyền con người được hiện thực hóa đầy đủ trong thực tiễn như là nội dung,
mục tiêu và động lực mới cho phát triển một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng và văn minh.

161



×