Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 110 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THÙY DƢƠNG



CHÕ §ÞNH QUYÒN CON NG¦êI, QUYÒN C¤NG D¢N
TRONG HIÕN PH¸P VIÖT NAM

Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời
Mã số: Chƣơng trình thí điểm


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. VŨ CÔNG GIAO




HÀ NỘI - 2014






LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.


NGƯỜI CAM ĐOAN



Nguyễn Thùy Dƣơng



MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: MỐI QUAN HỆ GIỮA QUYỀN CON NGƢỜI VÀ

HIẾN PHÁP 8
1.1. Vai trò của quyền con ngƣời với sự ra đời và phát triển của
hiến pháp 8
1.1.1. Quyền con người 8
1.1.2. Hiến pháp 11
1.1.3. Quyền con người thúc đẩy sự ra đời của Hiến pháp 13
1.2. Vai trò của Hiến pháp với việc bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền 17
1.3. Chế định quyền con ngƣời, quyền công dân trong hiến pháp
của các nƣớc trên thế giới 18
1.3.1. Cách thức hiến định, vị trí và cấu trúc của chế định quyền con
người, quyền công dân trong hiến pháp của các nước trên thế giới 20
1.3.2. Cách thức xác lập và khuôn khổ các quyền hiến định trong hiến
pháp của các nước trên thế giới 21
1.3.3. Sự phát triển của các quyền hiến định trong hiến pháp của các
nước trên thế giới từ trước đến nay 24
Chƣơng 2: QUYỀN CON NGƢỜI, QUYỀN CÔNG DÂN TRONG
CÁC HIẾN PHÁP 1946, 1959, 1980, 1992 CỦA VIỆT NAM 27


2.1. Khái quát tƣ tƣởng hiến định về quyền con ngƣời ở Việt
Nam trƣớc năm 1946 27
2.1.1. Tư tưởng quyền con người trong tập quán, sáng tác dân gian, tác phẩm
của một số nhân vật tiêu biểu và pháp luật Việt Nam thời quân chủ 27
2.1.2. Tư tưởng về quyền con người ở Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ
19, đầu thế kỷ 20 30
2.2. Cách thức hiến định, vị trí và cấu trúc của chế định quyền con
ngƣời, quyền công dân trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992
của Việt Nam 36
2.2.1. Hiến pháp 1946 36
2.2.2. Hiến pháp 1959 37

2.2.3. Hiếp pháp 1980 39
2.2.4. Hiến pháp 1992 41
2.3. Cách thức xác lập và khuôn khổ các quyền hiến định trong
các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 của Việt Nam 44
2.3.1. Hiến pháp 1946 44
2.3.2. Hiến pháp 1959 46
2.3.3. Hiến pháp 1980 50
2.3.4. Hiến pháp 1992 54
2.4. So sánh chế định quyền con ngƣời, quyền công dân trong các
Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 của Việt Nam với các điều
ƣớc quốc tế cơ bản về nhân quyền 68
Chƣơng 3: QUYỀN CON NGƢỜI, QUYỀN CÔNG DÂN TRONG
HIẾN PHÁP VIỆT NAM NĂM 2013 74
3.1. Cách thức hiến định, vị trí, cấu trúc và khuôn khổ của chế
định quyền con ngƣời, quyền công dân trong Hiến pháp 2013 74
3.1.1. Cách thức hiến định, vị trí và cấu trúc của chế định quyền con
người, quyền công dân trong Hiến pháp 2013 74


3.1.2. Cách thức xác lập và khuôn khổ các quyền hiến định trong Hiến
pháp 2013 75
3.2. Những điểm mới của chế định quyền con ngƣời, quyền công
dân trong Hiến pháp 2013 79
3.2.1. Những điểm mới 79
3.2.2. Ý nghĩa của những điểm mới 86
3.3. Những hạn chế của chế định quyền con ngƣời, quyền công
dân trong Hiến pháp 2013 88
3.3.1. Những hạn chế 88
3.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế 93
3.4. Thực thi chế định quyền con ngƣời, quyền công dân trong

Hiến pháp 2013 94
3.4.1. Những thuận lợi, thách thức với việc thực thi chế định quyền con
người, quyền công dân trong Hiến pháp 2013 94
3.4.2. Một số giải pháp bảo đảm thực thi chế định quyền con người,
quyền công dân trong Hiến pháp 2013 96
KẾT LUẬN 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100





DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ICCPR: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
(International Covenent on Civil and Political Rights)
ICESCR: Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
(International Covenent on Economic, Social and Cultural Rights)
LGBT: đồng tính, song tính, chuyển giới (lesbian, gay, bisexual,
transgender)
UDHR: Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền
(Universal Declaration of Human Rights)




DANH MỤC BẢNG


Số hiệu bảng

Tên bảng
Trang
Bảng 2.1:
So sánh khuôn khổ các quyền con người, quyền công dân
trong Hiến pháp Việt Nam và Hiến pháp các nước trên
thế giới
68
Bảng 3.1:
Các điều kiện để giới hạn quyền theo luật nhân quyền
quốc tế
89




1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng về quyền con người có mối liên hệ chặt chẽ đến quá trình
hình thành và phát triển Hiến pháp của mọi quốc gia trên thế giới. Xét tổng
quát, việc đảm bảo quyền con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu trong
Hiến pháp của các quốc gia, bất kể theo thể chế chính trị nào. Có thể nhận
thấy một xu hướng là cùng với thời gian, Hiến pháp của các quốc gia trên thế
giới ghi nhận các quyền con người, quyền công dân ngày càng rộng rãi và cụ
thể hơn [9, tr.38].
Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam năm 1946, các quyền con
người đã được ghi nhận trong Chương 2 về “Nghĩa vụ và quyền lợi của công
dân”. Vị trí đó cho thấy Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ đã
quan tâm đặc biệt đến việc hiến định quyền con người, quyền công dân. Trong

các bản Hiến pháp về sau của Việt Nam (năm 1959, 1980, 1992 và 2013) chế
định này đã có những sửa đổi, bổ sung, trong đó lần sửa đổi, bổ sung gần đây
(qua Hiến pháp năm 2013) là cơ bản, toàn diện hơn cả [35, tr.54].
Một trong những trọng tâm của việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm
1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001, sau đây gọi là Hiến pháp 1992) là
chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Về vấn đề này,
Kết luận số 20-KL/TW ngày 25/5/2012 của Hội nghị Trung ương 5 Khóa XI đã
định hướng, việc sửa đổi chế định quyền con người và quyền công dân nhằm:
Khẳng định Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân, chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do
của mỗi người. Quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc
tôn trọng, bảo đảm việc thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân. Các quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân phải do Hiến pháp quy định [35, tr.56].


2
Ngoài việc khắc phục những hạn chế, thiếu sót, bất cập trong các quy
định của Hiến pháp 1992, việc sửa đổi, bổ sung còn hướng tới mục tiêu là làm
cho các quy định về quyền con người, quyền công dân phù hợp với các điều
ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Từ những định hướng nêu trên, chế định quyền con người, quyền và
nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp năm 2013 có rất nhiều điểm mới.
Những điểm mới này xuất phát từ việc nhận thức, đánh giá lại một cách toàn
diện về tầm quan trọng, cách thức, phạm vi và nội dung của các quyền hiến
định trên cơ sở phân tích so sánh với các điều ước quốc tế cơ bản về quyền
con người, chế định quyền con người, quyền công dân trong hiến pháp của
các nước trên thế giới và các hiến pháp trước đó của Việt Nam.
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày
28/11/2013, tại kỳ họp lần thứ 6, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014.

Ngay sau đó, vào ngày 02/01/2014, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông
qua Nghị quyết số 718/NQ-UBTVQH13 ban hành Kế hoạch chi tiết triển khai
thi hành Hiến pháp năm 2013. Theo Nghị quyết này, trong số những công
việc cần được thực hiện bao gồm tuyên truyền, giới thiệu, phổ biến nội dung,
ý nghĩa của Hiến pháp, và rà soát, kịp thời sửa đổi, bổ sung, cập nhật các quy
định mới của Hiến pháp vào hệ thống pháp luật quốc gia. Như vậy, Nghị
quyết đã đặt ra một yêu cầu cấp thiết phải nghiên cứu nội dung của Hiến pháp
mới, trong đó bao gồm những quy định về quyền con người, quyền công dân.
Luận văn này nhằm góp phần vào công việc đó, thông qua việc phân tích,
đánh giá những thành tựu và hạn chế của chế định quyền con người, quyền
công dân trong các bản Hiến pháp Việt Nam, trong đó tập trung vào Hiến
pháp hiện hành năm 2013.


3
2. Tình hình nghiên cứu
Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp không phải
là vấn đề mới. Từ trước đến nay ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu
về vấn đề này, trong đó những công trình tiêu biểu có thể kể như sau:
- Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992, những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Phạm Hồng Thái, Nguyễn Sĩ Dũng, Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao,
Hoàng Minh Hiếu, Đặng Minh Tuấn (đồng chủ biên), NXB Hồng Đức. Trong
ấn phẩm này có một mục riêng gồm 4 bài nghiên cứu về chế định quyền con
người, quyền công dân trong các Hiến pháp các nước trên thế giới và các hiến
pháp Việt Nam của các tác giả: Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Tường
Duy Kiên, Bùi Tiến Đạt…
- Sửa đổi, bổ sung chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân và các chế định khác trong Hiến pháp 1992, PGS.TS.
Phạm Hữu Nghị và TS. Bùi Nguyên Khánh (đồng chủ biên), Nhà xuất bản
Khoa học xã hội; Viện Nhà nước và Pháp luật, 2012. Trong ấn phẩm này,

các tác giả đưa ra các đề xuất sửa đổi, bổ sung các chế định trong Hiến pháp
năm 1992 về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học –
công nghệ, bảo vệ Tổ quốc, tổ chức bộ máy nhà nước, quyền con người, đặc
biệt là về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Các đề
xuất sửa đổi, bổ sung dựa trên kết quả tổng kết sâu sắc thực tế thi hành bản
Hiến pháp này và các đạo luật có liên quan; quán triệt đầy đủ yêu cầu thể
chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; tiếp
tục kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp
trước đây còn phù hợp.
- Phân tích và đề xuất hoàn thiện chế định quyền con người, quyền
công dân của Dự thảo 3 Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013, Vũ Công Giao,


4
Tạp chí Kinh tế- Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tháng 11/2013. Bài viết tập
trung phân tích những thay đổi trong chế định về quyền con người, quyền và
nghĩa vụ của công dân trong Dự thảo 3 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung
năm 2013. Trên cơ sở so sánh, đối chiếu với các quy định liên quan của luật
nhân quyền quốc tế, tác giả đã chỉ ra những thành tựu, hạn chế của chế định
quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân của Dự thảo, đồng thời đề
xuất những điều chỉnh để Dự thảo phù hợp hơn với luật nhân quyền quốc tế.
- Báo cáo tổng quan đề tài nghiên cứu khoa học: Quyền con người
trong Hiến pháp Việt Nam, Bùi Ngọc Sơn, Bùi Tiến Đạt, Khoa Luật, ĐHQG
Hà Nội, 2010. Đề tài tập trung phân tích lịch sử, khái niệm về quyền con
người, lý do bảo vệ quyền con người của Hiến pháp và nội dung của nhiệm vụ
bảo vệ quyền con người của Hiến pháp và nội dung về quyền con người trong
các Hiến pháp Việt Nam 1946, 1959, 1980, 1992. Trên cơ sở đó đưa ra
phương hướng cải cách chế định này trong Hiến pháp nhằm nâng cao hiệu
quả bảo vệ quyền con người.

- Báo cáo tổng quan đề tài nghiên cứu khoa học: Quyền con người
trong Hiến pháp Việt Nam, Bùi Ngọc Sơn, Bùi Tiến Đạt, Khoa Luật, ĐHQG
Hà Nội, 2010. Đề tài tập trung phân tích lịch sử, khái niệm về quyền con
người, lý do bảo vệ quyền con người của Hiến pháp và nội dung của nhiệm vụ
bảo vệ quyền con người của Hiến pháp và nội dung về quyền con người
trong các Hiến pháp Việt Nam 1946, 1959, 1980, 1992. Trên cơ sở đó đưa ra
phương hướng cải cách chế định này trong Hiến pháp nhằm nâng cao hiệu
quả bảo vệ quyền con người.
- Báo cáo tổng quan đề tài nghiên cứu khoa học Quyền con người
trong Hiến pháp Việt Nam và một số nước trên thế giới, Vũ Công Giao, Khoa
Luật, ĐHQG Hà Nội, 2011. Đề tài tập trung phân tích mối quan hệ giữa Hiến
pháp và quyền con người, cách thức quy định và nội dung các quyền con


5
người trong hiến pháp của các quốc gia trên thế giới và của Việt Nam. Trên
cơ sở đó, tác giả đề xuất những sửa đổi, bổ sung chế định quyền con người,
quyền công dân trong Hiến pháp 1992
- Các nguyên tắc của chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân trong Hiến pháp sửa đổi của PGS.TS Phạm Hữu Nghị,
đăng trên tạp chú Nhà nước và Pháp luật năm 2013. Bài viết phân tích những
nguyên tắc hiến định của chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân trong Hiến pháp 2013. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra các
đánh giá, nhận định và kiến nghị về việc thể hiện các nguyên tắc cơ bản của
chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến
pháp sửa đổi.
- Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013 của
PGS.TS. Nguyễn Thanh Tuấn đăng trên Tạp chí Cộng sản năm 2013. Bài viết
nêu những điểm mới trong Hiến pháp 2013, những thể chế hiến pháp và pháp
luật bảo đảm quyền con người, quyền công dân và yêu cầu thể chế hóa các

quyền hiến định trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Những công trình nêu trên đã cung cấp một lượng tri thức, thông tin
khá lớn về chế định quyền con người, quyền công dân trong các bản hiến
pháp của Việt Nam. Mặc dù vậy, do nhiều công trình được thực hiện trong
giai đoạn đầu của quá trình thảo luận, sửa đổi Hiến pháp nên không cập nhật
được những nội dung và ý kiến tranh luận trong giai đoạn quan trọng là hoàn
thiện và thông qua dự thảo hiến pháp sửa đổi. Thêm vào đó,chưa có công
trình nào nêu trên phân tích một cách toàn diện những tiến bộ và hạn chế và
cơ chế bảo đảm thực thi chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ của
công dân trong các bản Hiến pháp, từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp 2013.
Vì vậy, việc nghiên cứu về chế định này vẫn rất cần thiết và có ý nghĩa lý
luận, thực tiễn.



6
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục đích của luận văn này là phân tích những cơ sở lý luận, thực tiễn
và nội dung của chế định quyền con người, quyền công dân trong các bản
Hiến pháp Việt Nam, trên cơ sở đó chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đưa ra
những khuyến nghị về việc tổ chức thực hiện và tiếp tục hoàn thiện chế định
này trong tương lai.
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận nền tảng về mối quan hệ giữa quyền con
người và Hiến pháp
- Phân tích chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân
trong các bản Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992, 2013), chỉ ra sự
phát triển của chế định này qua từng bản Hiến pháp.
- Phân tích những sửa đổi, bổ sung của chế định quyền con người, quyền
và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp 2013 so với chế định này trong Hiến

pháp 1992 và những cơ sở, lập luận cho những sửa đổi, bổ sung đó.
- Phân tích chỉ ra những điểm tiến bộ và hạn chế của chế định quyền
con người, quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp 2013 so với các
công ước quốc tế cơ bản về nhân quyền mà Việt Nam đã tham gia, hiến pháp
của các nước trên thế giới và các hiến pháp trước đó của Việt Nam.
Về phạm vi, quyền con người, quyền công dân là nội dung được ghi
nhận không chỉ trong Hiến pháp - đạo luật cơ bản của quốc gia – mà còn được
cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật của nhiều ngành luật khác nhau. Tuy
nhiên, trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu các quy định
về quyền con người, quyền công dân trong các bản Hiến pháp 1946, 1959,
1980, 1992 của Việt Nam (trong đó tập trung vào chế định quyền con người,
quyền công dân của Hiến pháp sửa đổi năm 2013) chứ không đề cập đến Hiến
pháp các quốc gia khác, cũng như không phân tích các quy định về quyền con
người, quyền công dân trong các văn bản pháp luật khác của Việt Nam.


7
4. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước Việt Nam về pháp
luật và xây dựng pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn này
bao gồm: Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh
5. Tính mới và những đóng góp của luận văn
Như đã đề cập, hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về chế định
quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp, tuy nhiên chưa có công
trình nào nghiên cứu toàn diện chế định này trong tất cả các bản Hiến pháp
của Việt Nam.
Luận văn cung cấp cái nhìn tổng thể về chế định quyền con người,

quyền công dân trong các bản Hiến pháp Việt Nam từ trước đến nay, đồng
thời cho thấy sự phát triển của chế định này qua các thời kì, trên cơ sở đó đưa
ra các kiến nghị để tiếp tự hoàn thiện chế định quyền con người, quyền công
dân trong tương lai. Đây là những vấn đề mà các công trình nghiên cứu hiện
nay ít đề cập và chưa làm rõ.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục và Danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được cấu trúc làm ba chương:
Chương 1: Mối quan hệ giữa quyền con người vả Hiến pháp.
Chương 2: Quyền con người, quyền công dân trong các bản HIến pháp
1946, 1959, 1980,1992 của Việt Nam.
Chương 3: Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp Việt
Nam năm 2013.



8
Chương 1
MỐI QUAN HỆ GIỮA QUYỀN CON NGƢỜI VÀ HIẾN PHÁP

1.1. Vai trò của quyền con ngƣời với sự ra đời và phát triển của
hiến pháp
Hiến pháp và quyền con người luôn có mối quan hệ mật thiết. Hiến
pháp và pháp luật ra đời do nhu cầu về việc bảo vệ quyền con người và cho
đến nay, Hiến pháp và pháp luật vẫn được coi là những công cụ hữu hiệu nhất
để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Ngay trong bản thân hai khái niệm
này đã thể hiện sự liên quan không thể tách rời giữa chúng với nhau.
1.1.1. Quyền con người
Quyền con người là một khái niệm có nhiều định nghĩa. Tuy nhiên,
không có định nghĩa nào được coi là bao hàm đầy đủ khái niệm vốn đa diện

này. Ở cấp độ quốc tế, định nghĩa thường hay được trích dẫn bởi các nhà
nghiên cứu là định nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên hợp quốc. Theo định
nghĩa này, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng
bảo vệ cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà
làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con
người [14, tr.44].
Bên cạnh định nghĩa trên,còn có một định nghĩa khác mang dấu ấn của
học thuyết về các quyền tự nhiên, cũng thường được trích dẫn, theo đó, quyền
con người là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng
đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội ;
đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người [14, tr.44].
Ở Việt Nam, một số cơ quan nghiên cứu và chuyên gia cũng nêu ra
nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người, theo những định nghĩa này,
quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có


9
của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp lý quốc tế [14, tr.45].
Mặc dù vậy, xét ở bất cứ góc độ và cấp độ nào, quyền con người đều
được xác định là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân
thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại,
áp dụng với mọi thành viên trong gia đình nhân loại, nhằm bảo vệ nhân phẩm
và tạo điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một
con người [14, tr.45].
Có hai quan điểm trái ngược nhau về nguồn gốc của quyền con người.
Một là những quan điểm dựa trên học thuyết về quyền tự nhiên (natural
right), hai là những quan điểm dựa trên học thuyết về quyền pháp lý (legal
right). Theo học thuyết về quyền tự nhiên, quyền con người là những gì bẩm
sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng vì họ là thành viên trong

gia đình nhân loại. Vì thế, quyền con người không phụ thuộc vào phong tục,
tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng
lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào cũng như không thể bị tước bỏ hay
được ban phát từ bất kì chủ thể nào kể cả nhà nước [14, tr.46].
Ngược lại, học thuyết về các quyền pháp lý lại cho rằng, quyền con
người không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do
các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật. Như
vậy, quyền con người luôn có phạm vi, giới hạn và phụ thuộc rất nhiều vào các
yếu tố như ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập quán,
truyền thống văn hóa của các xã hội [14, tr.47]. Quyền con người do đó có
thể được ban phát và cũng có thể bị tước bỏ. Cho đến nay, cuộc tranh luận về
nguồn gốc của quyền con người vẫn còn tiếp tục. Tuy nhiên, quyền con người
được khẳng định là quyền tự nhiên trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền
con người năm 1948 và một số văn kiện pháp luật ở một số quốc gia.


10
Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, quyền con người có các
tính chất cơ bản như sau:
(1) Tính phổ biến (universal)
Tính phổ biến, hay còn gọi là tính phổ quát của quyền con người thể
hiện ở chỗ quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và
được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại,
không có sự phân biệt đối xử về chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ
tuổi, thành phần xuất thân
Sự bình đẳng về quyền con người không có nghĩa là cào bằng mức độ
hưởng thụ các quyền, mà là bình đẳng về tư cách chủ thể của quyền con
người. Ở đây, mọi thành viên của nhân loại đều có được công nhận có các
quyền con người, song mức độ hưởng thụ các quyền phụ thuộc vào năng lực
của cá nhân từng người, cũng như vào hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội,

văn hoá… mà người đó đang sống [14, tr.49-50].
(2) Tính không thể tước bỏ (inalienable)
Tính không thể tước bỏ của nhân quyền thể hiện ở chỗ các quyền con
người không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ
thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Như vậy, quyền con
người vẫn có thể bị tước bỏ,hạn chế trong một số trường hợp đặc biệt theo
quy định của pháp luật. Liên quan đến tính chất này, cần có sự phân biệt rõ
ràng giữa việc tước bỏ một cách tùy tiện với việc tước bỏ, hạn chế theo quy
định của pháp luật [14, tr.50].
(3) Tính không thể phân chia (indivisible)
Tính không thể phân chia thể hiện ở chỗ các quyền con người đều có tầm
quan trọng như nhau, nên về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá
trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào đều
tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người.


11
Tuy nhiên, trong từng bối cảnh cụ thể, có những quyền có thể cần được
ưu tiên thực hiện. Ví dụ, trong bối cảnh dịch bệnh đe dọa hoặc với những người
bị bệnh tật, quyền được ưu tiên thực hiện là quyền được chăm sóc y tế; … Ở góc
độ khác, trong một số hoàn cảnh nhất định, việc ưu tiên thực hiện quyền của một
số nhóm xã hội dễ bị tổn thương không có nghĩa những quyền này có giá trị cao
hơn các quyền khác hay nhóm đối tượng này được ưu tiên hơn các nhóm khác.
Sự ưu tiên này là nhằm tạo điều kiện bình đẳng cho các nhóm yếu thế trong xã
hội có thể thực hiện quyền của mình một cách bình đẳng [14, tr.51-52].
(4) Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent).
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của quyền con người thể hiện ở các
quyền con người đều nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự
vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc
bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ

trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ví
dụ, những vi phạm về quyền lao động cá nhân, đặc biệt là về vấn đề thù lao có
thể ảnh hưởng đến quyền có mức sống thích đáng của cá nhân đó [14, tr.51-52].
1.1.2. Hiến pháp
Hiến pháp là thuật ngữ được nhân loại sử dụng từ rất lâu trong lịch sử.
Từ thời cổ đại, triết gia nổi tiếng Aristotle đã định nghĩa hiến pháp là “cách
thức tổ chức cơ cấu chính quyền trong một nước, cách thức phân bố quyền
lực được ấn định, chủ quyền tối thượng được xác định, và mục tiêu tối hậu
của quốc gia mà mọi cơ quan và toàn thể dân chúng nhắm tới” [16, tr.78].
Nói một cách khác, hiến pháp là cơ sở, trên đó mọi luật pháp của quốc gia
được ban hành. Trong hệ thống pháp luật của các quốc gia, hiến pháp có hiệu
lực pháp lý cao nhất. Tất cả các văn bản pháp luật khác đều phải phù hợp với
hiến pháp. Sở dĩ hiến pháp có vị trí tối cao là vì nó phản ánh chủ quyền của


12
nhân dân. Về nguyên tắc, hiến pháp phải do nhân dân thông qua dưới hình
thức hội nghị lập hiến, quốc hội lập hiến hoặc trưng cầu dân ý. Điều này khác
với các đạo luật bình thường mà chỉ do quốc hội thông qua.
Sự ra đời của hiến pháp với tính chất là đạo luật cơ bản xuất hiện khi giai
cấp tư sản giành chính quyền trong cuộc đấu tranh chống lại nhà nước chuyên
chế phong kiến. Trong cuộc đấu tranh này, đầu tiên, giai cấp tư sản đã đạt được
những thành tựu trong việc hạn chế quyền lực của vương triều phong kiến bằng
việc thành lập cơ quan gọi là nghị viện tồn tại bên cạnh vua, hoặc thành lập
một chế độ cộng hòa thừa nhận quyền của các công dân có tài sản. Văn bản có
tính chất hiến pháp đầu tiên có tên gọi là: “Hình thức cai quản nhà nước Anh,
Scotland, Iceland…” (1653). Đây là kết quả của cuộc cách mạng tư sản Anh.
Sau khi Hợp chúng quốc Hoa kỳ được thành lập năm 1787, nước này cũng đã
ban hành một bản Hiến pháp mà được coi là văn bản hiến pháp hiện đại đầu
tiên của nhân loại, vẫn còn được áp dụng đến ngày nay [2, tr.2].

Khái niệm Hiến pháp có thể được hiểu theo những cách khác nhau, phụ
thuộc vào những ngữ cảnh khác nhau. Có 4 cách hiểu cơ bản về Hiến pháp:
thuật ngữ Hiến pháp, đạo luật cơ bản, ngành luật Hiến pháp, ngành khoa học
pháp lý. Tuy nhiên, theo các hiểu thông thường nhất, Hiến pháp là đạo luật cơ
bản do cơ quan quyền lực nhà nước được nhân dân ủy quyền ban hành, thường
gọi là Quốc hội lập hiến, quy định việc tổ chức nhà nước, cơ cấu, thẩm quyền
các cơ quan nhà nước và quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân [2, tr.4].
Hiến pháp theo cách hiểu cơ bản nhất là đạo luật cơ bản của quốc gia,
xác định thể chế chính trị, cách thức tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, bảo vệ quyền con người, quyền công dân [4, tr.13]. Như vậy, Hiến pháp
ra đời chính là do nhu cầu bảo vệ một nền dân chủ vì quyền con người.
Ngay từ thời cổ đại, đã có những văn bản có tính hiến pháp đề cập đến
quyền con người như Bộ luật Hammurabi (1810 - 1750 TCN) ở Babylon; Đại


13
Hiến chương Magna Carta (the Magna Carta, 1215) và Bộ luật về các quyền
(The Bill of Rights, 1689) của nước Anh [7, tr.23]. Đến thời kì cách mạng tư
sản, do như cầu về việc hoàn hiện các quy định về cách thức tổ chức bộ máy
nhà nước và quan trọng hơn là ghi nhận các quyền tự do của người dân để
tránh sự lạm dụng quyền lực của chính quyền mới, hàng loạt văn kiện pháp
luật nổi tiếng của nhân loại về quyền con người đã ra đời: Tuyên ngôn Độc
lập (the Declaration of Independence, 1776) của nước Mỹ; Tuyên ngôn về
các quyền của con người và của công dân (the Declaration of the Rights of
Man and of the Citizen, 1789) của nước Pháp.… Những văn kiện này đều ghi
nhận các quyền con người, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, ở các mức độ và
góc độ khác nhau, như là nhữngquyền tự nhiên, vốn có và bình đẳng giữa các
thành viên trong gia đình nhân loại [9, tr.35].
Lời nói đầu của Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ đã khẳng định:"Mọi
người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể

xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc". Như vậy, quyền con người là tự nhiên, vốn có
chứ không phải được ban phát bởi vua chúa hay nhà nước [27, tr.36]. Điều
này gắn liền với học thuyết về quyền tự nhiên, trong đó cho rằng quyền con
người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng
với tư cách là một con người, không phụ thuộc vào phong tục, tập quán,
truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức,
cộng đồng nào cũng như không thể bị tước bỏ hay được ban phát từ tất cả các
chủ thể nào trong đó có nhà nước [9, tr.56].
1.1.3. Quyền con người thúc đẩy sự ra đời của Hiến pháp
Học thuyết về quyền tự nhiên xuất phát tư tưởng về luật tự nhiên (còn
được gọi là luật của tự nhiên - natural law/law of nature, nguyên gốc từ tiếng
La-tinh: lex naturalis). Luật tự nhiên là những qui tắc trong tự nhiên, những


14
quy tắc này tồn tại độc lập với luật lệ được đặt ra bởi bất cứ chủ thể cai trị
nào. Con người tuân theo luật tự nhiên như một quy luật tất yếu. Tư tưởng về
luật tự nhiên có vai trò như là một nguyên lý chính yếu trong mọi nền văn hoá
và các trường phái tư tưởng lớn, thậm chí bao gồm các tôn giáo lớn như
Hindu giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo. Mọi luật lệ được đặt ra từ
trước đến nay đều phải xây dựng dựa trên những quy chuẩn trung về đạo đức
xã hội mà các chuẩn mực này đều hình thành nhờ các quy luật của luật tự
nhiên. Do vậy, pháp luật không thể được xây dựng đi ngược lại luật tự nhiên.
Ngay từ thời cổ đại, triết gia Aristotle, người được coi là đặt nền móng cho lý
thuyết về luật tự nhiên, cho rằng trong tự nhiên đã có sẵn những quy luật, luật
lệ và công lý mà con người phải tuân thủ khi hành xử cũng như khi xây dựng
và thực thi pháp luật. Nhà triết học nổi tiếng ở châu Âu thời Trung cổ
Augustine đã từng nói: “Một luật mà không công bằng là một luật chỉ có trên
danh nghĩa.”Bên cạnh Aristotle và Augustine, nhà triết gia cổ và trung đại

tiêu biểu cho học thuyết này là Thomas Aquinas, Francisco Suárez, Richard
Hooker, Thomas Hobbes, Hugo Grotius, Samuel von Pufendorf, John Locke,
Francis Hutcheson, Jean Jacques Burlamaqui, và Emmerich de Vattel. Nói
chung, các nhà tư tưởng theo học thuyết tự nhiên đều khẳng định luật tự nhiên
được hình thành từ các quy luật vốn có của tự nhiên, do vậy nó nên được áp
dụng vào việc bảo vệ đời sống của con người, cụ thể là trong việc xây dựng
hệ thống pháp luật [7, tr.56]; [27, tr.34].
Những tư tưởng về quyền con người đã thúc đẩy con người đứng lên
đấu tranh chống lại ách áp bức bóc lột của những nền cai trị chuyên chế.
Hàng loạt cuộc cách mạng tư sản ở Châu Âu đã nâng địa vị của những thần
dân lên thành công dân. Hiến pháp ra đời và trở thành công cụ để hạn chế
quyền lực nhà nước và bảo vệ quyền công dân. Quyền con người với tư cách
là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm đã được ghi


15
nhận trực tiếp trong Hiến pháp của nhiều nước. Có thể lấy ví dụ điển hình là
Tu chính án (điều sửa đổi, bổ sung) thứ 14 của Hiến pháp Hoa Kỳ. Khoản 1
Điều này quy định:
Không một bang nào được ban hành hoặc thực thi bất cứ đạo
luật nào nhằm hạn chế đặc quyền hoặc quyền bất khả xâm phạm
của công dân Hoa Kỳ. Cũng không một bang nào có thể tước đoạt
sinh mệnh, tự do hoặc tài sản của một cá nhân mà không theo một
quy trình do luật định. Cũng không thể phủ nhận quyền được pháp
luật bảo vệ một cách bình đẳng của một cá nhân trong phạm vi
thẩm quyền tài phán của bang đó [17, tr.267].
Như vậy, theo quy định trên, quyền con người, quyền công dân là
những quyền bất khả xâm phạm và được pháp luật tôn trọng. Không có luật lệ
được ban ra có thể đi ngược lại những quyền này. Mọi công dân đều có quyền
được bảo hộ về tính mạng, tự do và tài sản, quyền bình đẳng trước pháp luật.

Những quyền này đều không thể bị tước bỏ hoặc xâm phạm một cách tùy tiện.
Quy định phản ánh rất rõ ảnh hưởng của tư tưởng và lý thuyết về các quyền
và luật tự nhiên [7, tr.45].
Không chỉ thúc đẩy sự ra đời của Hiến pháp, quyền con người còn là cảm
hứng cho chủ nghĩa Hiến pháp (Constitutionalism). Khái niệm chủ nghĩa Hiến
pháp được khởi xướng bởi John Locke, một trong các triết gia tiêu biểu theo học
thuyết quyền tự nhiên. Không có định nghĩa thống nhất dành cho chủ nghĩa hiến
pháp, nhưng về cơ bản, chủ nghĩa hiến pháp nhấn mạnh vai trò của Hiến pháp,
đạo luật tối cao của Nhà nước. Đồng thời, chủ nghĩa Hiến pháp cũng đề cập và
giải quyết mối quan hệ giữa quyền lực của nhân dân và quyền lực của nhà nước
bằng cách xác lập và đảm bảo thực hiện các nguyên tắc sau [7, tr. 57]:
Thứ nhất, quyền lực tuyệt đối thuộc về nhân dân;
Thứ hai, quyền lực nhà nước là do nhân dân trao cho, có giới hạn và
phải chịu sự kiểm soát;


16
Thứ ba, những hành động tùy tiện của nhà nước phải bị ngăn chặn.
Tư tưởng về các quyền con người nói chung, các quyền tự nhiên của
con người nói riêng không chỉ là cảm hứng cho các cuộc cách mạng xã hội
của nhân loại nhằm lật đổ ách thống trị chuyên chế, bất công, bắt đầu từ các
chế độ chiếm hữu nô lệ, sang đến chế độ phong kiến, chế độ thực dân-đế
quốc, mà còn có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển của Hiến
pháp và chủ nghĩa Hiến pháp các nước trên thế giới [7, tr. 63].
Theo dòng thời gian, quyền con người đang ngày càng được ghi nhận
rộng rãi hơn trong Hiến pháp của các quốc gia. Theo các nghiên cứu về thực
tiễn lịch sử lập hiến nhân loại [7, tr.59], số lượng quyền con người được ghi
nhận trong Hiến pháp đã tăng lên đáng kể theo thời gian. Trong giai đoạn từ
năm 1800 đến 2000, số lượng các quyền con người được các Hiến pháp các
nước trên thế giới quy định đã tăng liên tục từ con số không vào thời điểm

năm 1800 đến trên 60 quyền vào thời điểm năm 2000. Số quyền này thậm chí
đã vượt qua tổng số các quyền (theo cách tính của nhiều chuyên gia) được ghi
nhận trong các văn kiện quốc tế tiêu biểu nhất về quyền con người. Cụ thể,
theo kết quả thống kê, số lượng quyền được ghi nhận trong Tuyên ngôn về
các quyền của con người và của công dân 1789 của Pháp là 13, trong Tuyên
ngôn toàn thế giới về nhân quyền (1948) là 34, trong Công ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị (1966) là 34, trong Công ước châu Mỹ về nhân quyền
(1969) là 36, trong Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền của
các dân tộc (1981) là 30 [7, tr.31]. Không chỉ ghi nhận những quyền con
người trong các văn kiện quốc tế tiêu biểu về quyền con người đã nêu trên,
các quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp còn có xu hướng tương
thích hơn với các các quy định của luật nhân quyền quốc tế.
Như vậy, quyền con người là những quyền tự nhiên, bất khả xâm phạm.
Hiến pháp và pháp luật ra đời do nhu cầu quản lí xã hội mà mục đích cao nhất


17
chính là bảo vệ quyền con người, quyền công dân, giúp cho mọi thành viên
trong xã hội đều được có cơ hội thụ hưởng quyền lợi chính đáng của mình mà
không có bất cứ sự xâm phạm nào. Quyền con người chính là yếu tố quyết
định cho sự ra đời, hình thành và phát triển của Hiến pháp, đạo luật cơ bản
của mỗi Quốc gia.
1.2. Vai trò của Hiến pháp với việc bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền
Như đã phân tích ở mục trên, Hiến pháp ra đời là do nhu cầu về hạn chế
quyền lực của chính quyền và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.
Do vậy, Hiến pháp là công cụ pháp lý cơ bản để bảo vệ quyền con người ở
các quốc gia.
Theo quan điểm của luật nhân quyền quốc tế, quốc gia là chủ thể chịu
trách nhiệm chính (duty-bearer) trong việc bảo vệ quyền con người. Cụ thể
quốc gia có trách nhiệm hành động hoặc không hành động đểu thực hiện ba

nghĩa vụ cơ bản sau: nghĩa vụ tôn trọng, nghĩa vụ bảo vệ và nghĩa vụ thực
hiện [14, tr.84-85]. Hiến pháp, tư cách là đạo luật cơ bản của các quốc gia,
luôn có các quy định khẳng định rõ các quyền và tự do của cá nhân dưới hình
thức các quyền con người hoặc quyền công dân. Điều này trực tiếp nhấn
mạnh rằng quyền con người là những quyền thiêng liêng, không thể bị xâm
phạm một cách tùy tiện. Ngoài ra, các quy định trong Hiến pháp, cụ thể như
các quy định về cách thức tổ chức, giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước,
cũng nhằm tới mục tiêu cao nhất là bảo vệ nền dân chủ, quyền con người,
quyền công dân thông qua việc giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước;
tránh việc quyền con người, quyền công dân bị lạm dụng và xâm hại một cách
tùy tiện [7, tr.78].
Do có cùng khách thể là quyền con người nên Hiến pháp nói riêng và
pháp luật quốc gia nói chung có mối quan hệ chặt chẽ với luật nhân quyền
quốc tế ở nhiều phương diện. Ở thời kì đầu, pháp luật quốc gia chính là nền


18
tảng thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển luật nhân quyền quốc tế. Hiến
pháp và pháp luật quốc gia cũng chính là phương tiện hữu hiệu nhất để truyền
tải pháp luật quốc tế về quyền con người, đảm bảo cho pháp luật quốc tế về
quyền con người được thực hiện.
Hiện tại, hầu hết các quyền con người theo luật quốc tế về quyền con
người đã được ghi nhận trong hiến pháp của các quốc gia trên thế giới ở mức
độ khác nhau.Với hiệu lực tối cao của mình, hiến pháp đóng vai trò là công cụ
pháp lý cơ bản để hiện thực hóa các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người ở
các quốc gia [4, tr.43].
1.3. Chế định quyền con ngƣời, quyền công dân trong hiến pháp
của các nƣớc trên thế giới
Cùng với sự ra đời của Hiến pháp, khái niệm quyền công dân cũng xuất
hiện. Chính những cuộc cách mạng tư sản đã đưa con người từ địa vị thần dân

lên địa vị công dân và pháp điển hóa các quyền tự nhiên của con người dưới
hình thức các quyền công dân. Về bản chất, quyền công dân là quyền con người
được các nhà nước thừa nhận và áp dụng cho công dân của mình [14, tr.99].
Quyền của cơ bản của công dân là những quyền được ghi nhận trong
Hiến pháp, những quyền này xuất phát từ các quyền tự nhiên thiêng liêng và
bất khả xâm phạm của con người như quyền sống, quyền bình đẳng, quyền tự
do mưu cầu hạnh phúc và là các quyền được hầu hết các quốc gia trên thế giới
thừa nhận.
Quyền công dân là một tập hợp những quyền tự nhiên được pháp luật
một nước ghi nhận và bảo đảm đối với công dân của nước mình. Hệ thống
quyền con người ở mỗi quốc gia có thể được quy định khác nhau, có thể
tương thích hoặc chưa được tương thích với hệ thống tiêu chuẩn quốc tế về
quyền con người. Quyền công dân có các đặc điểm như sau:
Thứ nhất, quyền cơ bản của công dân có liên hệ chặt chẽ với quyền con
người, xuất phát từ những quyền tự nhiên, bất khả xâm phạm của con người.

×