TCNCYH Phụ trương 72 (1) - 2011
differences between the complete and incomplete could be seen regarding pain prevalence and
intensity. In tetraplegic group, the noceptive pain and neuropathic pain are on the same rate but the
neuropathic pain intensity is higher than noceptive pain . In paraplegic group, the noceptive pain and
neuropathic pain are on the same rate and intensity.Among those with paraplegia, the three most
common sites were the lowback, legs and shoulder. Person with cervical injury. pain is most common
in shoulder, neck and upper limbs.
Keywords: pain, spinal cord injury, rehabilitation
KẾT QUẢ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG BÀN TAY TRÊN BỆNH NHÂN LIỆT
NỬA NGƯỜI DO TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO GIAI ĐOẠN HỒI PHỤC
BẰNG KỸ THUẬT VẬN ĐỘNG CƯỢNG BỨC TAY BÊN LIỆT - CIMT
Nguyễn Thò Kim Liên1, Nguyễn Huy Hoàng1, Nguyễn Xuân Nghiên1, Lê Văn Thính2
1
Trường Đại học Y Hà Nội, 2Bệnh viện Bạch Mai
Tai biến mạch máu não là bệnh thường gặp và di chứng để lại rất nặng nề, trong đó di chứng bàn
tay là nặng nề và khó hồi phục nhất. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả phục hồi chức năng bàn tay trên
bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não giai đoạn hồi phục bằng kỹ thuật vận động cưỡng
bức tay bên liệt - CIMT. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả, can thiêp trên 76
bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não tại Trung tâm Phục hồi chức năng và khoa Thần
kinh bệnh viện Bạch Mai trong thời gian từ 6 - 2009 đến 12 - 2009. Kết quả và kết luận: Sau 1 tháng
can thiệp, mức độ vận động tay liệt, mức độ vận động bàn tay liệt, mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng
ngày, mức độ cảm giác nông cải thiện (p < 0,05). Mức độ khéo léo của tay bên liệt chưa được cải thiện
(p > 0,05).
Từ khóa: phục hồi chức năng, liệt nửa người
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tai biến mạch máu não là một trong bốn
nguyên nhân tử vong cao nhất, trở thành vấn đề
thời sự của y học. Với sự tiến bộ về y học, bệnh
nhân tai biến mạch máu não được cứu sống
ngày càng nhiều, đồng nghóa với di chứng và
tàn tật cũng tăng lên [3].
Trong các di chứng của bệnh nhân liệt nửa
người thì di chứng bàn tay là thường gặp. Phục hồi
chức năng bàn tay bên liệt rất chậm và gặp nhiều
khó khăn. Phục hồi chức năng bàn tay có nhiều
động tối đa tới mức có thể trong thời gian tối đa là
6 giờ/ngày, để hoạt hóa và kích thích các tế bào
thần kinh nhằm đem lại cho bệnh nhân kết quả
chức năng tốt hơn về chi trên [10]. Các nghiên
cứu của Myint (2008), Page (2002), và Wolf
(2006) nghiên cứu tỉ mỉ CIMT trong giai đoạn bán
cấp đã cho kết quả tốt hơn đáng kể về sử dụng và
chức năng chi trên [8]. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt
Nam, chưa có tác giả nào nghiên cứu về vấn đề
này. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu
này nhằm mục tiêu:
phương pháp khác nhau, trong đó kỹ thuật vận
Đánh giá hiệu quả phục hồi chức năng bàn
động cưỡng bức tay bên liệt - CIMT (Constraint -
tay trên bệnh nhân liệt nửa người do tai biến
induced movement therapy) là kỹ thuật mới đang
mạch máu não bằng kỹ thuật vận động cưỡng
được áp dụng với mục đích là ép tay liệt hoạt
bức tay bên liệt – CIMT.
24
TCNCYH Phụ trương 72 (1) - 2011
II. ĐỐI TƯNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
bảng đánh giá vận động bệnh nhân tai biến
NGHIÊN CỨU
mạch máu não (Carr J. H và Shepherd R.B) [6].
1. Đối tượng nghiên cứu
76 BN liệt nửa người do tai biến mạch máu
não giai đoạn hồi phục có giảm chức năng bàn
tay bên liệt tại Trung tâm Phục hồi chức năng,
khoa Thần kinh bệnh viện Bạch Mai từ tháng 6
- 2009 đến 12 - 2009 theo các tiêu chuẩn sau:
- Bệnh nhân (BN) liệt nửa người do tai biến
mạch máu não lần đầu tiên.
- BN có thể giao tiếp được, từ 16 tuổi trở lên.
- BN có giảm chức năng bàn tay bên liệt.
- BN không đang ở giai đoạn cấp.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả, can thiệp, ngẫu nhiên có
đối chứng. Phân chia bệnh nhân tai biến mạch
- Xác đònh mức độ độc lập trong sinh hoạt
hàng ngày bằng thang điểm Barther. từ 0 - 3 [2].
Bước 3: Can thiệp điều trò phục hồi chức
năng cho bệnh nhân.
Bước 4: Đánh giá kết quả sau 1 tháng can
thiệp dựa trên mức độ chênh lệch trước và sau
can thiệp.
3. Xử lý số liệu: Các số liệu được xử lý bằng
phần mềm SPSS 16.0.
III. KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu
Chỉ tiêu
Mức độ cảm giác
nông
máu não vào 2 nhóm theo:
Nhóm 1: Được phục hồi chức năng tại Trung
tâm Phục hồi chức năng bằng các kỹ thuật vận
động cưỡng bức tay bên liệt CIMT 2 giờ/ngày.
Vận động tay liệt
Nhóm 2: Được hướng dẫn chăm sóc tay liệt
tại khoa Thần kinh.
Nghiên cứu can thiệp:
Bước 1: Phân chia 76 bệnh nhân vào 2
nhóm bằng cách bốc thăm ngẫu nhiên.
Bước 2: Đánh giá bệnh nhân ban đầu cho cả
Vận động bàn tay
liệt
2 nhóm theo:
- Xác đònh chức năng vận động tay: từ 0 - 6
dựa trên bảng đánh giá vận động tai biến mạch
máu não (Carr J. H và Shepherd R.B) [6].
- Xác đònh chức năng vận động bàn tay: từ 0
Mức độ khéo léo
bàn tay liệt
- 6. Đánh giá dựa trên đánh giá chi trên của
bảng đánh giá vận động bệnh nhân tai biến
mạch máu não (Carr J. H và Shepherd R.B) [6].
- Xác đònh chức năng khéo léo của bàn tay:
từ 0 - 6. Chức năng khéo léo của bàn tay được
đánh giá dựa trên mục đánh giá chi trên của
Mức độ độc lập
sinh hoạt hàng
ngày
Mức độ
n
(%)
0
33
43,42
1
43
56,58
0
41
53,94
1
11
14,47
2
7
9,21
3
10
13,16
4
4
5,26
5
3
3,96
0
46
60,53
1
8
10,53
2
10
13,16
3
5
5,67
4
5
5,67
5
2
2,64
0
54
70,06
1
12
15,80
2
7
9,21
3
2
2,62
4
0
0
5
1
1,31
0
41
53,95
1
30
39,48
2
5
6,57
3
0
0
25
TCNCYH Phụ trương 72 (1) - 2011
53,9% bệnh nhân có mức độ vận động tay liệt là 0, các mức độ khác chiếm tỷ lệ thấp và không
đồng đều. Mức độ vận động bàn tay bên liệt là 0 chiếm tỉ lệ cao nhất là 60,5%, mức độ khéo léo là
0 chiếm 71,1%. Bệnh nhân giảm cảm giác nông chiếm tỷ lệ cao chiếm 56,6%
2. Đánh giá kết quả chăm sóc dựa trên chênh lệch trước và sau điều trò
2.1. Chênh lệch mức độ vận động tay liệt trước và sau điều trò
Sau 1 tháng được chăm sóc, ở nhóm chứng không có bệnh nhân nào tăng mức độ vận động tay liệt
theo mức chênh lệch từ 4 trở lên và chỉ có 1 bệnh nhân tăng chênh lêch ở mức 3. Trong khi đó ở
nhóm can thiệp có tới 15 bệnh nhân
Bảng 2. Chênh lệch mức độ vận động bàn tay liệt trước và sau điều trò
Chênh lệch mức độ vận động bàn tay liệt
Nhóm can thiệp
Nhóm chứng
n
%
0
9
11,8
17
22,4
26
34,2
1
10
13,2
17
22,4
27
35,5
2
6
7,9
3
3,9
9
11,8
3
7
9,2
1
1,3
8
10,5
4
2
2,6
0
0,0
2
2,6
5
3
3,9
0
0,0
3
3,9
6
1
1,3
0
0,0
1
1,3
Tổng
38
50,0
38
50,0
76
X ± SD
1,89 ± 1,673
n
%
Tổng
0,68 ± 0,739
n
%
100,0
p < 0,001
Cải thiện vận động bàn tay liệt ở nhóm can thiệp gấp 2,78 lần nhóm chứng (Trung bình của chênh lệch
mức vận động bàn tay liệt ở nhóm can thiệp là 1,89 trong khi đó ở nhóm chứng chỉ là 0,68). Nhóm can
thiệp có bệnh nhân lên chênh lệch ở mức độ 4 → 6, nhóm chứng không có bệnh nhân nào.
2.3. Chênh lệch mức độ khéo léo trước và sau chăm sóc: Mức độ khéo léo của nhóm can thiệp
trung bình là 1,21 và không có bệnh nhân nào tăng hạn chế. Nhóm chứng có 1 bệnh nhân tăng hạn
chế mức độ khéo léo và không có bệnh nhân nào chênh lệch đến mức 3. Cả 2 nhóm có 49 bệnh
nhân không cải thiện vẫn ở mức độ 0. Không cải thiện có ý nghóa thống kê với độ tin cậy 95%.
26
TCNCYH Phụ trương 72 (1) - 2011
Số lượng
35
30
25
20
Can thiệp
15
Chứng
10
5
0
-1
0
1
2
3
4
5
6
Mức
2.4. Chênh lệch mức độ độc lập trong sinh hoạt hằng ngày
Can thiệp
Chênh lệch mức độ độc lập trong sinh hoạt
hàng ngày
n
%
Chứng
Tổng
n
n
%
%
0
10
13,2
25
32,9
35
46,1
1
18
23,7
13
17,1
31
40,8
2
10
13,2
0
0,0
10
13,2
Tổng
38
50,0
38
50,0
76
100,0
1,00 ± 0,735
X ± SD
0,38 ± 0,547
p < 0,001
Cải thiện mức độ độc lập ở nhóm can thiệp gấp 2,63 lần so với nhóm chứng. Trong đó ở nhóm
can thiệp có 10 bệnh nhân tăng chênh lệch 2mức, nhóm chứng không có bệnh nhân nào.
2.5. Chênh lệch mức độ cảm giác nông trước và sau điều trò
Chênh lệch cảm giác nông
Can thiệp
n
Chứng
%
n
%
Tổng
n
%
0
21
27,6
32
42,1
53
69,7
1
17
22,4
6
7,9
23
30,3
Tổng
38
50,0
38
50,0
76
100,0
X ± SD
0,45 ± 0,504
0,16 ± 0,370
p < 0,05
Mức độ cải thiện cảm giác nông của nhóm can thiệp trung bình là 0,45, nhiều hơn nhóm chứng là 0,16.
IV. BÀN LUẬN
1. Mức độ vận động tay liệt
ngoài ra còn áp dụng phương pháp mới đó là:
CIMT, khuyến khích bệnh nhân vận động và sử
dụng tay liệt tối đa. Điều này giúp kích thích,
Nhóm chứng không có bệnh nhân nào tăng
hoạt hóa các tế bào thần kinh đang còn ngủ
vận động tay liệt theo mức độ chênh lệch từ 4
yên trở nên hoạt động và kích thich những tế
trở lên và chỉ có 1 bệnh nhân chênh lệch ở
bào thần kinh tổn thương hồi phục nhanh hơn
mức 3. Nhóm can thiệp có tổng số 15 bệnh
[8, 10].
nhân chênh lệch từ mức 3 trở lên. Có sự cải
Khi vào khoa chúng tôi tiến hành phục hồi
thiện đáng kể này là do chúng tôi thường xuyên
chức năng sớm vì vậy bệnh nhân có nhiều khả
tiến hành các bài tập phục hồi chức năng,
năng lấy lại được các mẫu vận động tay liệt.
27
TCNCYH Phụ trương 72 (1) - 2011
Những bệnh nhân phục hồi chức năng sớm
của CIMT đối với người bệnh yếu chi trên sau
trong những tháng đầu sau tai biến mạch máu
tổn thương tế bào thần kinh vận động trên. Kỹ
não sẽ có kết quả tốt hơn bệnh nhân được phục
thuật cơ bản của CIMT bao gồm bó chặt cánh
hồi chức năng muộn hơn [9].
tay không bò liệt trong 90% thời gian thức trong
Kỹ thuật CIMT đã cho thấy hiệu quả trong
giai đoạn mạn tính. Trong những nghiên cứu
gần đây, người ta thấy rằng kỹ thuật CIMT đưa
ra những kết quả đáng kể trong cả sự hồi phục
giai đoạn 2 - 3 tuần, kết hợp với luyện tập tích
cực, lặp đi lặp lại chi trên bò liệt. Bó chi trên
không bò liệt bằng găng tay hở ngón và dây đeo
hoặc găng tay. Bệnh nhân tham gia vào chương
vận động và những bài kiểm tra chức năng chi
trình điều trò 2 giờ một ngày, kết hợp với các
trên nhất đònh bao gồm quy mô tác động từ vừa
hoạt động ở nhà và hoạt động sinh hoạt hàng
đến lớn, dù vậy vẫn còn những kết quả gây
ngày (ADL). Liệt kê chi tiết các danh mục thói
tranh cãi về các hoạt động chăm sóc bản thân
quen phải làm ở nhà trong khi bó tay, nhằm
(ADL). Ban đầu hầu hết các nghiên cứu CIMT
mục đích tăng cường sự tham gia của bệnh
chọn đối tượng trong giai đoạn mạn tính; tuy
nhân, tập theo thời gian đã qui đònh ở nhà [10].
nhiên, gần đây hơn, các nghiên cứu đã đánh
giá hiệu quả của CIMT trong nhóm giai đoạn
bán cấp [10].
Đồng thời, những kó thuật tập vận động phục
hồi chức năng phối hợp có hiệu quả trong việc
duy trì tầm vận động các khớp của bàn tay bên
liệt, trong đó chú trọng đến sử dụng tay liệt [1].
2. Mức độ vận động bàn tay liệt
Theo nghiên cứu của chúng tôi mức độ cải
thiện vận động bàn tay bên liệt ở nhóm can
thiệp gấp 2,78 lần so với nhóm chứng.
Sau 1 tháng mức vận động bàn tay trung bình
là 2,27 và tỷ lệ bệnh nhân mức 0 giảm 16,2%
với bệnh nhân được phục hồi chức năng sớm.
Theo Dean mức độ vận động trung bình sau 70
ngày phục hồi chức năng là 3,9% và tỷ lệ bệnh
nhân mức 0 giảm 19,1%. Qua nghiên cứu của
chúng tôi và nhiều nghiên cứu đã cho thấy việc
phục hồi chức năng nói chung và phục hồi chức
năng vận động nói riêng cho người bệnh cần
được bắt đầu càng sớm càng tốt.
Kỹ thuật CIMT là một phương pháp can thiệp
3. Mức độ khéo léo bàn tay liệt
Mức độ khéo léo của nhóm can thiệp trung
bình là 1,53 và có không có bệnh nhân tăng
hạn chế mức độ khéo léo của bàn tay liệt.
Nhóm chứng có 1 bệnh nhân tăng hạn chế mức
độ khéo léo bàn tay liệt và không có bệnh nhân
nào chênh lệch đến mức 3. Cả 2 nhóm bệnh
nhân không cải thiện vẫn ở mức 0. Không có sự
cải thiện có ý nghóa thống kê p > 0,05
Theo nghiên cứu của chúng tôi số bệnh nhân
ở mức 0 chiếm tỷ lệ cao nhất và sau khi được
phục hồi chức năng vẫn xấp xỉ 50%. Tỷ lệ này
cao hơn so với Dean.
Theo nghiên cứu đánh giá hiệu quả phục
hồi chức năng bàn tay ở bệnh nhân liệt nửa
người do tai biến mạch máu não bằng các biện
pháp vận động sau một tháng tại trung tâm
Phục hồi chức năng bệnh viện Bạch Mai, các
tác giả Cao Minh Châu và Nguyễn Thò Kim Liên
nhận thấy rằng hoạt động tinh vi, khéo léo vẫn
chưa được cải thiện [2].
4. Mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày
có một số nghiên cứu bổ trợ cho việc cải thiện
Cải thiện mức độ độc lập ở nhóm can thiệp
khả năng vận động sau tai biến mạch máu não
gấp 2,63 lần so với nhóm chứng. Trong đó ở
hay tổn thương não bộ. Một vài nghiên cứu
nhóm can thiệp có 10 bệnh nhân tăng chênh
trong vòng hai thập kỷ qua đã chỉ ra hiệu quả
lệch mức độ độc lập lên mức 2, còn nhóm
28
TCNCYH Phụ trương 72 (1) - 2011
chứng không có bệnh nhân nào. Kết quả này
cho thấy lợi ích của việc phục hồi chức năng
đối với bệnh nhân liệt.
Theo kết quả của chúng tôi về cải thiện mức
độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày: 27,5% độc
lập, 57,3% trợ giúp, 15,2% phụ thuộc. So với
Trần Văn Phú: 46,84% độc lập, 47,21% trợ giúp,
5,94% phụ thuộc. Tỷ lệ bệnh nhân phụ thuộc
can thiệp: 1,89, nhóm chứng: 0,68 (p < 0,001).
Mức độ khéo léo chưa được cải thiện: TB nhóm
can thiệp: 0,92, nhóm chứng: 0,27 (p > 0,05).
Mức độ độc lập trong SHHN cải thiện: TB nhóm
can thiệp: 1.00 và nhóm chứng: 0,38 (p < 0,001).
Cảm giác nông cải thiện: TB nhóm can
thiệp: 0,45 và nhóm chứng: 0,16 (p < 0,01).
trong sinh hoạt hàng ngày của chúng tôi lớn hơn.
Có sự khác biệt trên có lẽ do bệnh nhân nghiên
cứu của chúng tôi được điều trò, chăm sóc, cấp
cứu ban đầu tại viện Trung Ương nên tỷ lệ bệnh
nhân được cứu sống cao hơn, dẫn đến bệnh
nhân bò di chứng nặng cũng tăng lên.
Kết quả của chúng tôi cho thấy tỷ lệ bệnh
nhân độc lập trong sinh hoạt hàng ngày thấp
hơn nhiều so với các tác giả vì các nước trên
thế giới bệnh nhân được phục hồi chức năng
trong các bệnh viện và trung tâm có kỹ thuật
cao và được hướng dẫn sớm.
5. Mức độ cảm giác nông
Mức độ cải thiện cảm giác nông của nhóm
can thiệp là 0,45 nhiều hơn nhóm chứng là
0,16 với p < 0,05.
Các kó thuật tạo thuận phục hồi cảm giác sau
tai biến mạch máu não chẳng hạn như chà sát,
gõ vào vùng da tay bên liệt, chòu trọng lượng
lên tay liệt đã được thực hiện trong quá trình
tập luyện phục hồi chức năng. Kết quả nghiên
cứu của tôi chỉ là nghiên cứu bước đầu trên một
mẫu bệnh nhân chưa lớn và thời gian nghiên
cứu ngắn do điều kiện khách quan chưa cho
phép. Vì vậy, cần có nghiên cứu lớn hơn và sâu
sắc hơn để có thể đưa ra kết luận cụ thể.
V. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ môn Phục hồi chức năng trường Đại
học Y Hà Nội, (2003). Phục hồi chức năng cho
bệnh nhân liệt nửa người”. Bài giảng vật lý trò
liệu – phục hồi chức năng, nhà xuất bản y học,
139 - 150.
2. Cao Minh Châu, Nguyễn Thò Kim Liên,
(2004). Đánh giá hiệu quả phục hồi chức năng
của bàn tay bệnh nhân liệt nửa người do tai biến
mạch mau não”. Tạp chí Y học số 30, 52 - 56.
3. America Heart Association, (1995). Heart
and stroke fact: 1994 statistical supplement,
Dallas, Texas: American Heart Association.
4. Blanco I.S, Sangrador C.O, Munain L.L, et
al, (1999). Predictive model of functional
independence in stroke, paitiens admitted to
rehabilitation programm, Clinical Rehabilitation,
(13), 464 - 475.
5. Cailliet R, (1982). Hand pain and
impairment, F.A Davis Philadelphia, 180 - 196.
6. Carr J.H, Shepherd R. B, et al., (1985).
Investigation of a new motor assessment scale
for stroke patient, Phys Ther, (65), 175 - 180.
7. Charles C, Carolyn B., (1991). Occupation
therapy, Slack Incorporated, 455 - 470.
8. Harris J.E., (2009). A self–administered
Mức độ vận động tay liệt cải thiện: trung
graded repetitive arm supplementary program
bình nhóm can thiệp: 2,21 và nhóm chứng:
(GRASP) improves arm function during inpatient
0,74 (p < 0,001).
stroke rehabilitation: a multi - site randomized
Mức độ vận động bàn tay cải thiện: TB nhóm
controlled trial. Stroke 40, 2123 - 2128.
29
TCNCYH Phụ trương 72 (1) - 2011
(2002).
10. Taub E., (2006). A placebo - Controlled trial
Improving Hand Function on chronic stroke,
of constrain - Induced movement therapy for upper
Arch Neurol (59), 1278 - 1282.
extremity after stroke. Stroke, 37, 1045 - 1049.
9.
Wolf
M.,
Coletta.,
et
al.,
Summary
RESULT OF HAND REHABILITION AFTER STROKE BY CONSTRAINT - INDUCED
MOVEMENT THERAPY IN SUB ACUTE PHAGE
Stroke is a commonly disease and have the severe sequels, in there sequel of hand is very difficult
to recover. Objective: To assess the effect of hand rehabilitation after stroke by Constraint - induced
movement therapy (CIMT). Method: Descriptive, prospective study on 76 patients after stroke in
Rehabilitation centre in Bachmai hospital from June 2009 to December 2010. Results and Conclusion:
After 1 month to treatment, the movement’s grade of upper limb impairment, hand impairment,
activities of daily living, surface sensory are improved (p < 0.05). The dexterity of hand impairment
was not improved after 1 month (p > 0.05).
Keywords: Rehabilitation, hand function, CIMT, stroke
ĐẶC ĐIỂM TỔN THƯƠNG CỦA BỆNH NHÂN
BỊ BẬT RĂNG CỬA VĨNH VIỄN HÀM TRÊN DO CHẤN THƯƠNG
1
Trần Thò Mỹ Hạnh1, Mai Đình Hưng2
Viện Đào Tạo Răng Hàm Mặt, 2Trường Đại Học Y Hà Nội
Nghiên cứu nguyên nhân, cơ chế chấn thương và đặc điểm tổn thương của nhóm bệnh nhân bật
răng cửa vónh viễn hàm trên do chấn thương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 21 bệnh nhân bò
chấn thương với 35 răng bò bật khỏi huyệt ổ răng được chẩn đoán và điều trò tại viện Răng Hàm Mặt
Trung Ương từ tháng 1 năm 2008 đến tháng 9 năm 2010. Kết quả: Nguyên nhân hay gặp do tai nạn giao
thông, tai nạn sinh hoạt. Cơ chế chấn thương thường gặp là lực tác động vuông góc với trục thân răng.
Răng bò tổn thương gặp chủ yếu là răng cửa giữa (88,57%). 65,71% răng bật ra nguyên vẹn, 31,43% có
kèm theo gẫy thân răng. 68,57% không gẫy xương ổ răng, 31, 43% có kèm theo gẫy xương ổ răng. Kết
luận: Hình thái lâm sàng răng bật ra khỏi huyệt ổ răng, và tổn thương tại chỗ rổ đa dạng và thường gặp
nhất là răng tổn thương còn nguyên vẹn.
Từ khóa: Răng bật khỏi huyệt ổ răng, răng cửa, chấn hong răng, cắm lại răng
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
cũng khó khăn vì bệnh nhân chấn thương
thương ở tuổi chưa trưởng thành, chưa có chỉ
Thương tổn bật răng ra khỏi huyệt ổ răng
đònh cắm Implant, đợi đến tuổi trưởng thành tại
(HOR) do chấn thương là thương tổn không quá
vò trí mất răng thường bò tiêu xương gây khó
hiếm gặp trong thực hành lâm sàng nha khoa.
khăn cho việc cắm Implant.
Tỷ lệ gặp khoảng 5,7% đến 15% trong các
Andreasen đã có những nghiên cứu cho thấy
trường hợp chấn thương răng [1, 2, 5, 7, 8, 9,
có nhiều răng cắm lại tồn tại trong miệng hơn
10]. Răng bò chấn thương bật khỏi HOR nếu
20 năm. Có những răng cắm lại tuy không tồn
không được cắm lại bệnh nhân sẽ bò mất răng.
tại lâu trong miệng nhưng cho đến khi bò tiêu
Sẽ mất phí tổn làm răng giả, phải mài các răng
hết chân đã đảm bảo giữ được nguyên vẹn thể
bên cạnh để làm cầu răng hoặc có cắm Implant
tích xương chuẩn bò tốt cho phục hình tiếp theo.
30