Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Vai trò của tòa án trong kiểm soát quyền lực nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.93 KB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TẠ THỊ NGỌC LIÊN

VAI TRß CñA TßA ¸N
TRONG KIÓM SO¸T QUYÒN LùC NHµ
N¦íC

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TẠ THỊ NGỌC LIÊN

VAI TRß CñA TßA ¸N
TRONG KIÓM SO¸T QUYÒN LùC NHµ
N¦íC
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG



HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Tạ Thị Ngọc Liên


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
HÀ NỘI - 2014..........................................................................................................................................................2
HÀ NỘI - 2014..........................................................................................................................................................2
LỜI CAM ĐOAN.....................................................................................................................................................3
TÔI XIN CAM ĐOAN LUẬN VĂN LÀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA RIÊNG TÔI. CÁC KẾT
QUẢ NÊU TRONG LUẬN VĂN CHƯA ĐƯỢC CÔNG BỐ TRONG BẤT KỲ CÔNG TRÌNH NÀO
KHÁC. CÁC SỐ LIỆU, VÍ DỤ VÀ TRÍCH DẪN TRONG LUẬN VĂN ĐẢM BẢO TÍNH CHÍNH

XÁC, TIN CẬY VÀ TRUNG THỰC. TÔI ĐÃ HOÀN THÀNH TẤT CẢ CÁC MÔN HỌC VÀ ĐÃ
THANH TOÁN TẤT CẢ CÁC NGHĨA VỤ TÀI CHÍNH THEO QUY ĐỊNH CỦA KHOA LUẬT ĐẠI
HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI.....................................................................................................................................3
VẬY TÔI VIẾT LỜI CAM ĐOAN NÀY ĐỀ NGHỊ KHOA LUẬT XEM XÉT ĐỂ TÔI CÓ THỂ BẢO
VỆ LUẬN VĂN........................................................................................................................................................3
TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN!...................................................................................................................3
NGƯỜI CAM ĐOAN..............................................................................................................................................3
TẠ THỊ NGỌC LIÊN............................................................................................................................................3

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

: Tố tụng dân sự

TTHC

: Tố tụng hành chính


TTHS

: Tố tụng hình sự

UBND

: Ủy ban nhân dân

UBTVQH

: Ủy ban thường vụ Quốc hội

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi chính quyền mới được thành lập, vấn đề được đặt ra là phải kiểm
soát quyền lực của chính quyền sao cho nó không xâm phạm đến dân chúng,
đồng thời để đảm bảo cho quyền lực tối cao thuộc về nhân dân. Đó chính là
một nhu cầu tất yếu khách quan. Quyền lực nhà nước được chế ngự sẽ đảm

bảo cho hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo vệ quyền con người và
quyền cơ bản của công dân.
Xuất phát từ nhu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước đòi hỏi phải có
những cơ chế kiềm chế chính thức giữ cho các cơ quan công quyền và các quan
chức phải có trách nhiệm về hoạt động của họ. Trong nhà nước hiện đại và dân
chủ cần phải kể đến vai trò của tòa án với vai trò quan trọng trong hoạt động
kiểm soát quyền lực nhà nước, được ví như bức tường che chắn những xâm
phạm tới Hiến pháp và các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Ở Việt Nam, trong hệ thống văn bản pháp luật hiện hành đã ghi nhận
những căn cứ pháp lý cho cơ chế giám sát của Tòa án đối với các cơ quan
nhà nước, nhưng chưa thể hiện đầy đủ cơ chế kiểm soát quyền lực bằng cơ
quan tư pháp theo đúng nghĩa của nó. Đặc biệt, ở nước ta Tòa án chưa được
thực hiện chức năng tài phán Hiến pháp. Bên cạnh đó, thẩm quyền giải thích
Hiến pháp vẫn thuộc về UBTVQH chứ không thuộc về Tòa án, hoạt động của
Tòa án hành chính chưa hiệu quả, không đáp ứng được kì vọng của người dân
trong giải quyết các tranh chấp hành chính.
Xuất phát từ lý do trên tôi chọn đề tài: “Vai trò của Tòa án trong kiểm
soát quyền lực Nhà nước” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và lịch
sử nhà nước và pháp luật. Đề tài được nghiên cứu với mong muốn góp phần
nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước của tòa án ở nước ta, góp
phần xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam.

1


2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước đã được giới khoa học pháp lý tại
Việt Nam nghiên cứu, trong đó có nhiều công trình, bài báo của các nhà
nghiên cứu đề cập đến một số khía cạnh liên quan đến đề tài, trong đó đáng
chú ý là một số giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo về kiểm soát quyền

lực nhà nước như: “Hạn chế sự tùy tiện của cơ quan nhà nước” của GS.TS.
Nguyễn Đăng Dung, NXB Tư pháp năm 2010; “Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
năm 1992, nhũng vấn đề lý luận và thực tiễn” của Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội, NXB Hồng Đức, năm 2012; “Tài phán Hiến pháp – Một số vấn
đề lý luận cơ bản, kinh nghiệm quốc tế và khả năng áp dụng cho Việt Nam”
do PGS.TS. Nguyễn Như Phát (chủ biên), NXB Khoa học xã hội năm 2011;
“Tài phán hành chính trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền và hội
nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” do PGS.TS Nguyễn Như Phát, PGS.TS
Nguyễn Thị Việt Hương (chủ biên), NXB Khoa học xã hội năm 2010; “Bảo
hiế+n ở Việt Nam” của Th.s Bùi Ngọc Sơn, NXB Tư pháp, năm 2006.
Bên cạnh các công trình khoa học được xuất bản dưới dạng sách tham
khảo, còn có một số luận văn như: “Nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân
dân đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay” –
luận văn thạc sĩ luật học của Trần Phụng Vương; “Vị trí, vai trò của Tòa án
nhân dân trong thể chế nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” – luận
văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Văn Tám; “Chiến lược cải cách tư pháp với
mục tiêu bảo vệ công lý ở Việt Nam” – luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thế Anh.
Qua nghiên cứu các công trình đã công bố, tác giả nhận thấy các kết kết
quả nghiên cứu rất công phu, có giá trị khoa học cao và là tiền đề quan trọng
để tác giả nghiên cứu đề tài của mình. Tuy nhiên, việc làm rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn về vai trò của Tòa án trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở
nước ta còn chưa đầy đủ, còn nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu. Về vấn đề
đánh giá hoạt động kiểm soát quyền lực của tòa án vẫn còn một số vấn đề

2


chưa được nghiên cứu rõ như: đánh giá hoạt động của tòa án Việt Nam với tư
cách là thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước, những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả của Tòa án Việt Nam trong kiểm soát quyền lực nhà nước…

chưa được đề cập cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích luận văn:
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận và đánh giá về vai trò của tòa án trong
hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước.
+ Đánh giá thực trạng của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của
hệ thống TAND ở Việt Nam.
+ Đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của tòa án trong thực
hiện vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam
* Nhiệm vụ của luận văn:
Với mục đích nghiên cứu như trên, luận văn phải hoàn thành những
nhiệm vụ sau đây:
+ Lý giải tại sao quyền lực nhà nước phải bị hạn chế và bị kiểm soát
bằng nhiều phương thức khác nhau, nêu lên các phương thức hữu hiệu để
kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong đó làm nổi bật vai trò của tòa án, cách
thức tòa án kiểm soát quyền lực nhà nước.
+ Từ những tiền đề lý luận trên, luận văn đánh giá hoạt động của hệ
thống TAND trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam, những hạn chế
trong quy định của pháp luật Việt Nam làm giảm hiệu quả của tòa án khi thực
hiện vai trò này.
+ Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả của hệ thống TAND trong hoạt động chế ngự quyền lực nhà nước ở nước ta.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn

3


Luận văn nghiên cứu những quy định pháp luật và thực tiễn về hoạt
động kiểm soát quyền lực của TAND ở nước ta hiện nay. Qua đó đề xuất
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của tòa án trong hoạt động kiểm

soát quyền lực nhà nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tác giả sử dụng phương pháp
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực
tiễn, phương pháp phân tích tổng hợp thống kê, so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò của tòa án trong hoạt động kiểm
soát quyền lực nhà nước nói chung, làm phong phú thêm những vấn đề lý
luận trong lĩnh vực này. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ đóng góp một số
giải pháp cụ thể nhằm nâng cao vai trò của TAND trong hoạt động kiểm soát
quyền lực nhà nước. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công
tác nghiên cứu giảng dạy, học tập tại các trường đại học, cao đẳng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của kiểm soát quyền lực nhà nước.
Chương 2. Nội dung của phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước
bằng Tòa án.
Chương 3. Tòa án Việt Nam trong kiểm soát quyền lực nhà nước và
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của tòa án trong kiểm soát quyền
lực nhà nước ở nước ta.

4


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1.1. Tại sao phải kiểm soát quyền lực nhà nước
Khi nói đến nhà nước, chúng ta không thể tách rời vấn đề quyền lực

của nhà nước. Phân tích bản chất của nhà nước, Ph. Ănghen đã chỉ ra rằng:
“Nhà nước không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội mà là
một lực lượng nảy sinh từ xã hội”[5, tr.260]. Nhà nước được sinh ra do chính
nhu cầu của con người, đại diện cho quyền lực công cộng xuất phát từ nhân
dân. Tuy nhiên, nhà nước từ khi mới ra đời đã bị chi phối bởi giai cấp thống
trị, và giai cấp này đã sử dụng nhà nước vừa thực hiện chức năng công quyền
vừa làm lợi riêng cho chính mình. Để bảo vệ đặc quyền của mình, giai cấp
thống trị đã thiết lập nên một bộ máy cưỡng chế bao gồm cảnh sát, quân đội,
nhà tù… và bắt buộc công dân phải đóng các loại thuế để nuôi dưỡng bộ máy
mà về thực chất phục vụ giai cấp thống trị, duy trì sự thống trị giai cấp và đàn
áp chính những người nuôi dưỡng nó.
Như vậy, khi nhà nước ra đời, quyền lực công cộng của toàn xã hội đã
dần dần bị biến đổi, bị tha hóa và trở thành quyền lực chính trị của giai cấp
thống trị trong xã hội. Nhân dân – chủ thể của quyền lực công đã không còn
kiểm soát được chính nó và dần dần trở thành đối tượng bị bóc lột, bị đàn áp.
Bên cạnh đó, một trong những đặc trưng cơ bản của quyền lực nhà nước, đó
chính là tính độc quyền sử dụng sức mạnh vũ lực. Ngoài nhà nước, không
một chủ thể nào được công khai trong việc sử dụng sức mạnh cưỡng chế.
Không chỉ có vậy, quyền lực nhà nước lại dựa trên nguồn của cải vật chất và
bộ máy cưỡng chế phục vụ nên nó trở nên nguy hiểm với lợi ích hợp pháp của
dân chúng. Đó là lý do vì sao mà Thomas Jefferson (1743 – 1826), một trong
những nhà soạn thảo ra Tuyên ngôn Độc lập nước Mỹ nói: “Nhân dân có hai
kẻ địch là tội ác và chính quyền” [13]. Vì vậy, để đảm bảo nhân dân là chủ

5


thể của quyền lực nhà nước thì quyền lực nhà nước cần phải được chế ngự
nhằm loại trừ một nghịch lý là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân nhưng
lại đe dọa chính nhân dân.

Tại sao phải kiểm soát quyền lực nhà nước? Bản thân quyền lực vốn
không tốt, không xấu. Bởi vì, nó chỉ là công cụ, là phương tiện để quản lý xã
hội. Công cụ này được sử dụng như thế nào sẽ phụ thuộc vào những người
nắm trong tay quyền lực đó. Nếu như quyền lực nhà nước được thực hiện bởi
những người có đức hạnh, tài năng và với mục đích vì nhân dân thì sự chế
ngự quyền lực nhà nước là vô nghĩa. Madison - một trong những nhà khai
sáng nên nước Mỹ đã nhận định:
Chính phủ là gì nếu không phải là cái đã phản chiếu rõ ràng
nhất bản tính loài người? Nếu con người là thần thánh thì loài người
cần phải có Chính phủ để làm gì? Và nếu con người được thần
thánh cai trị thì Chính phủ của loài người cũng chẳng cần phải có
những khoản tiên liệu để Chính phủ kiểm soát dân chúng và Chính
phủ tự mình kiểm soát lấy mình [12, tr.115].
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, chủ thể của quyền lực nhà nước là cá
nhân, cho nên nhà nước phản ánh bản tính của con người. Con người ai cũng có
cái tốt, cái xấu, không cá nhân nào là không có nhược điểm. Trong đó có
những tính xấu như lười nhác, tham lam, tùy tiện và đặc biệt là đam mê
quyền lực. Bởi vì, quyền lực là cái phục vụ cho con người, giúp họ thỏa mãn
những nhu cầu nhất định. Khi nắm trong tay quyền lực, con người sẽ dễ dàng
có được những thứ mà họ muốn như của cải, danh vọng, sự tôn vinh của xã
hội. Tuy nhiên, khi tập trung quá nhiều quyền lực vào một người hay một
nhóm người sẽ dẫn đến một hệ quả xấu, đó chính là sự tha hóa quyền lực, mà
biểu hiện trước tiên của nó là sự lạm dụng quyền lực.
Trong cuốn “Thăng trầm quyền lực”, Alvin Toffler cho rằng: “Khi nói

6


đến quyền lực, trong tâm thức chúng ta không khỏi có ấn tượng xấu, vì nhân
loại có khuynh hướng lạm dụng quyền lực” [2, tr.137]. Khuynh hướng lạm

dụng quyền lực là khuynh hướng có tính phổ biến trong đời sống xã hội, và
cũng là khuynh hướng mang tính lịch sử, vì nó tồn tại và đồng hành với lịch
sử nhân loại. Thông thường, sự lạm dụng quyền lực thường không diễn ra khi
người lãnh đạo mới nắm giữ quyền lực, mà diễn ra sau một khoảng thời gian
quản lý nào đó. Điều đó có nghĩa là, lúc đầu cá nhân đó sẽ sử dụng quyền lực
đúng với giới hạn mà pháp luật cho phép. Tuy nhiên, khi vị trí quyền lực của
mình được củng cố và khẳng định thì sự lạm dụng quyền lực mới bắt đầu.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, các triều đại phong kiến thường bắt đầu
bằng các vị vua anh minh, chăm lo đời sống nhân dân và suy tàn bởi vì con
cháu kế tiếp của họ trở nên lạm dụng quyền lực, thỏa mãn nhu cầu cá nhân
bằng một cuộc sống xa hoa, xa rời trách nhiệm của mình đối với nhân dân.
Nguyên nhân của sự lạm dụng quyền lực bắt nguồn từ chính bản tính đam
mê quyền lực của con người. Khi có quyền lực trong tay, cá nhân dễ dàng sai
khiến người khác làm mọi việc nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Họ ham muốn
quyền lực chỉ để trán áp người khác và thủ lợi cho bản thân, cho gia đình và cho
những kẻ dưới trướng của họ. Sự thực “lòng đam mê quyền lực và lòng đam mê
danh vọng là những ước muốn vô hạn định của con người” [16, tr.137]. Chính
quyền lực, một thứ tưởng chừng chỉ là công cụ để con người thỏa mãn nhu
cầu của mình, lại chính là thứ sai khiến con người thực hiện những hành vi đi
ngược lại chuẩn mực xã hội. Lịch sử đã cho thấy sự tàn bạo của chế độ độc tài
và quyền lực nhà nước không bị hạn chế. Những bài học đắt giá của nhân loại
càng chứng minh cho vấn đề quyền lực nhà nước cần phải được chế ngự,
nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, việc thực hiện
quyền lực nhà nước phải vì nhân dân.
Như đã phân tích ở trên, bản thân sự lạm quyền có mối liên hệ chặt chẽ

7


với sự tùy tiện khi sử dụng quyền lực nhà nước của nhà cầm quyền. Mỗi cá nhân

đều có bản tính tùy tiện và không có một sự đảm bảo chắc chắn rằng một cá
nhân sẽ luôn luôn kiểm soát được tính tùy tiện của mình. Đặc biệt trong trường
hợp có quyền lực trong tay, lý trí của nhà cầm quyền sẽ bị che lấp bởi của cải,
dục vọng và lòng tham thì quyết định của họ càng dễ dàng phạm sai lầm. Bởi
vậy, một nhà nước mà không có sự rõ ràng với những rào cản trong tổ chức
quyền lực thì rất dễ bị thao túng bởi những nhà cầm quyền tùy tiện.
Những người đứng đầu nhà nước sẽ có nhiều quyền lực, trong đó được
quyền ra lệnh những người khác phải thực hiện theo ý mình. Tuy nhiên, khi
quyết định của họ gây ra sai lầm thì họ phải chịu trách nhiệm trước dân
chúng. Bởi vậy, con người thường có xu hướng trốn trách trách nhiệm. Sự
trốn tránh trách nhiệm của nhà cầm quyền sẽ dẫn đến một chính quyền vô
trách nhiệm. Thay vì sửa chữa sai lầm của mình, nhóm cai trị sẽ sử dụng
những sử dụng chính quyền lực công cộng để đàn áp những người chống đối.
Vì vậy, để tránh lặp lại những chính quyền vô trách nhiệm thì cần phải lập ra
những cơ chế hữu hiệu bắt buộc chính quyền phải chịu tránh nhiệm với nhân
dân. Một nhà nước có uy tín phải là một nhà nước hoạt động có hiệu quả và
trách nhiệm.
Tóm lại, từ những phân tích trên chúng ta có thể nhận thấy rằng, kiểm
soát quyền lực nhà nước là một quy luật khách quan khi xã hội cần đến nhà
nước. Nhân loại với những bài học lịch sử đầy máu và nước mắt, đã cho chúng
ta thấy rằng: quyền lực nhà nước phải có giới hạn và phải được kiểm soát chặt
chẽ. Quyền lực nhà nước được chế ngự sẽ đảm bảo cho quyền lực tối cao thuộc
về nhân dân, bảo vệ quyền con người và quyền cơ bản của công dân.
1.2. Các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước
Các phương thức chế ngự quyền lực nhà nước đã xuất hiện từ rất lâu
trong lịch sử, từ khi con người ý thức được sức mạnh đáng sợ của quyền lực nhà

8



nước. Ngay từ thời cổ đại, nhiều nhà tư tưởng vĩ đại như Heraclit, Platon,
Xixeron… đã đề xuất quan điểm quyền lực nhà nước cần phải được giới hạn
bằng pháp luật. Nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật quy định, còn
công dân được phép làm những gì mà pháp luật không cấm. Các phương thức
này được hoàn thiện hơn trong cách mạng tư sản với nội dung là chống lại sự
chuyên quyền của chế độ phong kiến và bảo vệ nhân quyền. Trong xã hội hiện
đại, sự hiện diện của các quy định về kiểm soát quyền lực và trách nhiệm của
nhà nước trong Hiến pháp và các đạo luật là dấu hiệu của dân chủ và tiến bộ xã
hội.
Xuất phát từ những nguyên nhân dẫn đến sự lạm dụng quyền lực nhà
nước, các nhà tư tưởng chính trị, pháp lý đã đề xuất những biện pháp khác
nhau nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước. Về cơ bản, các hình thức kiểm soát
quyền lực nhà nước có thể được phân định thành: kiểm soát quyền lực nhà
nước từ bên trong và kiểm soát từ bên ngoài. Việc thường xuyên kiểm tra, chế
ước quyền lực nhà nước bằng việc kết hợp các biện pháp khác nhau sẽ ngăn
chặn và đẩy lùi căn bệnh của con người khi nắm trong tay quyền lực.
1.2.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài
Kiểm soát quyền lực từ bên ngoài bao gồm những biện pháp tác động
từ bên ngoài, xuất phát từ phía nhân dân và các thiết chế xã hội, chủ yếu bao
gồm các biện pháp sau: sự ghi nhận và tạo ra các cơ chế bảo vệ quyền con
người, quyền công dân; sự giám sát của nhân dân thông qua hoạt động minh
bạch của các cơ quan nhà nước và quyền được tiếp cận thông tin của dân
chúng; và kiểm soát bằng tự do ngôn luận, tự do báo chí.
1.2.1.1.

Sự ghi nhận và tạo ra các cơ chế bảo vệ quyền con người,

quyền công dân – ranh giới phòng chống sự tùy tiện của các cơ quan công
quyền
Khi nghĩ tới các biện pháp kiểm soát quyền lực nhà nước, chúng ta


9


thường hướng đến các chủ thể có quyền lực. Tuy nhiên, hạn chế quyền lực nhà
nước không chỉ là ràng buộc nhà nước bằng pháp luật mà cần vạch ra những
“vùng cấm” đối với công quyền. Vùng cấm ở đây chính là những quyền con
người và quyền cơ bản của công dân mà nhà nước không thể vi phạm và đồng
thời phải có trách nhiệm bảo vệ. Hay nói cách khác, việc quy định quyền con
người, quyền công dân trong Hiến pháp cũng như những đảm bảo pháp lý quan
trọng để quyền con người, quyền công dân được thực thi trong thực tế là một
trong những biện pháp chế ngự quyền lực nhà nước.
Quyền con người được hiểu là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn
có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các
thỏa thuận pháp lý quốc tế” [11, tr.38]. Gắn liền với khái niệm quyền con
người là khái niệm quyền công dân. Quyền công dân về bản chất là những
quyền tự nhiên của con người được các nhà nước thừa nhận và áp dụng cho
công dân của mình.
Theo học thuyết về quyền tự nhiên, quyền con người là những gì bẩm
sinh, vốn có và không thể bị tước bỏ của mọi cá nhân. Do đó, không một chủ
thể nào, kể cả nhà nước, có thể ban phát hay tước bỏ các quyền con người.
Đồng thời, theo John Lock, một nhà triết học người Anh, đã khẳng định “Các
chính phủ chỉ có thể chính danh hay hợp pháp khi thừa nhận, tôn trọng, bảo
vệ và thúc đẩy các quyền bẩm sinh, vốn có của nhân dân…”[11, tr.40]. Điều
đó có nghĩa là, nghĩa vụ của các nhà nước phải làm là tôn trọng quyền con
người, đồng thời có những biện pháp để thực hiện, thúc đẩy quyền con người
trong thực tế. Nghĩa vụ tôn trọng đòi hỏi các nhà nước phải biết kiềm chế,
không can thiệp vào sự thụ hưởng của các cá nhân. Đó chính là biện pháp
nhằm hạn chế sự tùy tiện của các cơ quan nhà nước, phòng tránh sự vi phạm
các quyền cơ bản của công dân.

Để đảm bảo cho quyền con người, quyền công dân được tôn trọng và
thực hiện thì dân quyền phải được quy định trong văn bản pháp lý có hiệu lực

10


tối cao nhất là Hiến pháp. Nhìn chung, trên thế giới, các quyền con người,
quyền công dân được quy định theo ba cách cơ bản:
Cách thứ nhất, quyền con người, quyền công dân được quy định
thành các điều, các chương trong Hiến pháp. Đây là cách thức quy định
phổ biến, được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Ví dụ: ở Việt Nam,
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân quy định tại chương
2, Hiến pháp năm 2013.
Cách thứ hai, quyền con người, quyền công dân được quy định trong
một văn bản riêng, được thừa nhận là một nội dung của Hiến pháp. Ví dụ: bản
Tuyên ngôn về Nhân quyền và dân quyền năm 1789 của Pháp được thừa nhận
là một bộ phận của Hiến pháp năm 1958.
Cách thứ ba, quy định trong một văn bản riêng và được xác định là
những điều bổ sung cho Hiến pháp. Ví dụ: Hiến pháp Mỹ bao gồm 7 điều gốc
và 27 Tu chính án bổ sung sau này, trong đó có 10 Tu chính án được gọi là Bộ
luật về quyền của nước Mỹ.
Mặc dù được quy định theo cách này hay cách khác, nhưng các Hiến
pháp đều quy định những quyền thiết yếu nhất của con người. Việc quy
định nhân quyền phải đảm bảo vừa bao quát hết được các quyền con người
hiện tại và sau này, lại vừa cụ thể để dễ dàng cho việc ngăn chặn sự vi
phạm nhân quyền từ mọi chủ thể trong xã hội. Bên cạnh đó, cần có những
thiết chế hữu hiệu để bảo vệ quyền con người. Sự ngăn ngừa phải được
thực hiện ngay từ trước nhằm ngăn chặn những vi phạm đến quyền con
người, quyền công dân từ phía chủ thể là nhà nước; hoặc khi các quyền con
người bị xâm phạm thì cần phải có những biện pháp trừng phạt chủ thể vi

phạm, khôi phục lại những quyền đó.
Là cơ quan thực hiện quyền lực tư pháp, tòa án có vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ quyền con người. Luật Nhân quyền quốc tế đòi hỏi sự hiện diện của

11


tòa án trong việc bảo vệ quyền con người được hiệu quả. Cụ thể, theo điều 8
Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền (UDHR) được Liên hợp quốc quy định:
“Mọi người đều có quyền được các tòa án quốc gia có thẩm quyền bảo vệ bằng
các biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi vi phạm các quyền cơ bản
của họ mà đã được Hiến pháp hay luật pháp quy định” [32, tr.219]. Các tòa án
quốc gia được ví như một trong những nguồn lực sẵn có để bảo vệ các quyền
con người mà không cần sự can thiệp của các cơ chế bảo vệ mang tính khu vực
và quốc tế. Nhưng quan trọng hơn và quyền năng rộng hơn chính là cơ chế bảo
hiến. Việc đảm bảo thực thi các quyền hiến định trong thực tiễn là cơ sở nền tảng
và thiết yếu cho việc bảo vệ nhân quyền.
Liên quan đến cơ chế bảo vệ nhân quyền, Hiến pháp của một số quốc
gia quy định về một cơ quan nhân quyền quốc gia với vị thế độc lập với chức
năng chuyên trách bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền. Lý do cho việc thành lập
cho loại cơ quan này xuất phát từ đặc điểm nhà nước vừa là chủ thể có nghĩa
vụ chính trong việc bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền; vừa là thủ phạm chính của
các vi phạm nhân quyền. Vì thế cần một cơ quan đóng vai trò tư vấn để góp ý
và trợ giúp các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ nhân quyền. Trên thế
giới, các cơ quan này được thiết lập theo ba hình thức chủ yếu là: Cơ quan
thanh tra quốc hội (Ombudsman); Ủy ban nhân quyền quốc gia (National
Human Rights Comission); Cơ quan chuyên trách về một vấn đề nhân quyền
cụ thể (Specialized Institutions). Về cơ bản, các cơ quan này đều tuân thủ
những nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhân quyền
quốc gia (Các nguyên tắc Paris).

Nguyên tắc độc lập được coi là một trong những nguyên tắc không thể
thiếu trong hoạt động của các cơ quan nhân quyền. Nguyên tắc này xuất phát
từ bản chất của cơ quan này, đó là: mặc dù được nhà nước lập ra, nhưng
không phải là cơ quan nhà nước, nó là cơ quan đứng giữa xã hội dân sự và

12


nhà nước. Mức độ độc lập của cơ quan này được đảm bảo bằng các yếu tố
liên quan đến trụ sở, nguồn tài trợ và quan trọng nhất là việc thành lập, cơ cấu
tổ chức và chức năng được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Địa vị
pháp lý ở tầm hiến định là đảm bảo pháp lý cao nhất của tính độc lập. Sự hiến
định chức năng, thẩm quyền và tổ chức của cơ quan này sẽ tạo cho cơ quan
nhân quyền năng lực pháp lý cao trong việc thực hiện chức năng của mình.
Tóm lại, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công
dân là mục đích cũng là nhiệm vụ của bất cứ nhà nước nào. Không thể có sự
hạn chế quyền lực chuyên chế mà không có sự bảo vệ các quyền cơ bản của
công dân. Bởi vì, xét đến cùng, mục đích của hạn chế quyền lực nhà nước là
thực hiện dân chủ, mở rộng sự tham gia của nhân dân vào quyền lực nhà
nước, đảm bảo quyền lực tối cao thuộc về nhân dân.
1.2.1.2.

Sự giám sát của nhân dân thông qua hoạt động minh

bạch của các cơ quan nhà nước và quyền được tiếp cận thông tin của dân
chúng
Điều cốt lõi của bất cứ nền dân chủ nào là việc đảm bảo sự tham gia tích
cực của công dân vào các quyết định của chính quyền. Muốn làm được như vậy
thì chính quyền phải hoạt động công khai để nhân dân có nhiều khả năng giám
sát chính quyền. Công khai hoạt động của nhà nước sẽ tạo ra sức ép để bộ máy

nhà nước hoạt động hiệu quả hơn.
Lịch sử cho thấy chính quyền ở bất cứ thời nào cũng có khuynh hướng
là muốn cai trị và không muốn người dân có thể tham gia vào mọi hoạt động
của chính quyền. Đây là bản năng của con người và cũng là bản năng của
chính quyền. Sự chuyên quyền, độc đoán sẽ xảy ra nếu mọi thông tin về hoạt
động của chính quyền được che dấu trong bóng tối.
Không chỉ có vậy, việc nhà nước “bảo mật” những thông tin
quản lý sẽ là cánh cửa rộng mở cho tham ô, bất công và bất bình.

13


Tham nhũng gia tăng ở những nơi bí mật, tránh nơi công cộng, vì
vậy có thể nhận thấy những gì không công khai sẽ là mầm mống
của tham nhũng. “Bản năng” giữ rịt thông tin thường mọc rễ trong
những môi trường bảo mật, cho phép các quan chức trở nên bất khả
xâm phạm, chẳng phải giải trình với ai. Chính những nền văn hóa
bảo mật đó là chậm bước mở cửa của xã hội, làm ngăn cản sự phát
triển của xã hội [18, tr.18].
Xuất phát từ những đặc điểm trên, việc công khai và minh bạch hóa
hoạt động của chính quyền là biện pháp để chế ngự được khuynh hướng
muốn bưng bít thông tin của chính quyền. Công khai tức là mọi hoạt động của
nhà nước phải được công bố hoặc truyền tải trên các phương tiện thông tin đại
chúng và mọi người dân có thể được tiếp cận dễ dàng. Còn sự minh bạch
nghĩa là mọi việc phải diễn ra giản đơn và có thể dự đoán trước được.
Sự minh bạch trong hoạt động của chính phủ luôn là trọng tâm của
nguyên tắc minh bạch của nhà nước. Với đội ngũ nhân viên đông đảo, trực
tiếp sử dụng quyền lực nhà nước để quản lý xã hội, hoạt động của chính phủ
cần được thực hiện dưới sự giám sát của người dân. Sự công khai hoạt động
của chính phủ cho phép công dân có quyền chất vấn và ngăn chặn những

hành động của chính quyền mà họ không đồng tình. Sự phản đối từ phía
người dân đối với các hoạt động của chính quyền buộc các quan chức luôn
phải hành động một cách cẩn trọng và trách nhiệm. Do đó, sự cởi mở và minh
bạch trong hoạt động của chính phủ là một trong những nhân tố góp phần
kiểm soát hữu hiệu đối với sự lạm dụng quyền lực được nhân dân ủy thác.
Những nhà nước dân chủ trên thế giới đều có những nguyên tắc đảm
bảo sự minh bạch trong hoạt động của chính phủ, mà tiêu biểu là nước Mỹ.
Kể từ khi lập quốc, hệ thống luật lệ tại Hoa Kì đã tạo điều kiện dễ dàng cho
công dân được tham dự một số cuộc họp quan trọng của các quan chức chính

14


phủ, có quyền yêu cầu và được nhận các tài liệu của chính phủ và đóng góp
vào các quyết định và quá trình hoạch định luật lệ của chính phủ. Đạo luật
“Ánh dương” (Sunshine laws) được ban hành năm 1976 quy định khi các
quan chức họp để tiến hành các công việc của chính phủ, thông thường họ
phải thông báo trước về các cuộc họp của mình và tổ chức họp trong những
diễn đàn được công khai trước công chúng. Trong nhiều trường hợp, người
dân không chỉ được phép dự các cuộc họp công khai mà còn được phát biểu ý
kiến trong các trường hợp đó. Ngoài ra, người dân còn thể hiện quan điểm của
mình là gửi thư hoặc email cho các quan chức. Điều này sẽ đảm bảo cho các
quan chức mà người dân bầu ra luôn hành động trách nhiệm với nhân dân.
Không chỉ tham dự các phiên họp của các cơ quan nhà nước, người dân
còn được tham dự các phiên tòa, đầu tiên là các phiên xử hình sự và sau đó,
nhiều tòa án ở Mỹ nới rộng đến việc tham dự các phiên tòa dân sự. Nhiều tòa
án ở các tiểu bang đã cho phép thu hình và phát các phiên xử trực tiếp trên
truyền hình. Việc tiếp cận với tiến trình pháp lý “có tầm quan trọng rất lớn”,
theo nhận xét của Oliver Wendell Holmes, một thẩm phán của thế kỉ XIX:
Công khai hóa khiến cho việc thi hành luật pháp được an toàn

hơn…. Các vụ xử dân sự nên được tiến hành với sự tham dự của
dân chúng không phải vì việc tranh chấp giữa hai cá nhân là một
mối quan tâm của dân chúng mà là vì các vụ xử đó là những dịp
quan trọng nhất mà những người thi hành luật pháp phải luôn hành
động với một tinh thần trách nhiệm trước công chúng…[12, tr.357].
Quyền được tiếp cận thông tin của người dân là một biện pháp quan
trọng đảm bảo sự công khai và minh bạch, qua đó thể hiện sự giám sát của
dân chúng đối với hoạt động của của chính phủ. Luật Tự do thông tin được
ban hành năm 1966 đã trở thành một công cụ giúp các công dân Mỹ có thể
yêu cầu được cấp bản sao các hồ sơ của các cơ quan thuộc chính phủ liên

15


bang, các bộ và giới quân sự, trừ một số ngoại lệ như những thông tin có thể
ảnh hưởng đến an ninh quốc gia hoặc có thể xâm phạm đến sự riêng tư của cá
nhân… Khi một cơ quan từ chối tiết lộ thông tin dựa trên các ngoại lệ đó thì
người dân có quyền khiếu nại và được tòa án nhanh chóng giải quyết. Nếu tòa
án thấy lý do ngoại lệ do cơ quan đưa ra không đúng thì sẽ ra lệnh cho cơ
quan đó phải tiết lộ tài liệu và có thể phạt tiền cơ quan đó nữa. “Luật tự do
thông tin cho phép người dân Mỹ được tiếp cận nhiều hơn với thông tin về
các hoạt động của chính phủ Mỹ” [12, tr.367]. Không chỉ ở cấp độ liên bang ở
Mỹ đều có luật của tiểu bang cho dân chúng tiếp cận với hồ sơ của chính
quyền địa phương. Các đạo luật đã góp phần thay đổi tư duy trong nề nếp làm
việc của chính quyền, dần dần hình thành nên một chính quyền cởi mở và
công dân dễ dàng tiếp cận thông tin về hoạt động của chính quyền.
Những phân tích trên đã cho chúng ta thấy rằng, Mỹ là một trong số ít
quốc gia có những cơ chế hữu hiệu đảm bảo công dân có quyền hợp pháp để
tiếp cận những thông tin về hoạt động của chính quyền. Đó là những kinh
nghiệm đối với các nước khác khi muốn tạo dựng một chính quyền minh bạch

và trách nhiệm. Sự công khai hóa các hoạt động của nhà nước và quyền tiếp
cận thông tin nhà nước của dân chúng được xem là hai thành tố của một xã
hội dân chủ. Quyền tiếp cận thông tin có ý nghĩa trong việc tạo ra cơ chế
“kiểm soát và cân bằng” giữa công dân và nhà nước, giữa sức mạnh của nhà
nước và quyền lợi của công dân.
1.2.1.3.

Kiểm soát bằng tự do ngôn luận, tự do báo chí
Một xã hội muốn nhận việc công khai hóa là có một giá trị nổi

bật không những cho người dân có quyền rộng rãi tự do phát biểu
mà còn tiến thêm một bước nữa tức là thực sự đưa các tiến trình
nghị luận chính sách của chính quyền ra đón nhận sự soi xét của
mặt trời công luận [12, tr.362].
Gắn chặt với một chính quyền công khai, minh bạch là quyền tự do ngôn

16


luận của công dân và tự do báo chí. Quyền tự do ngôn luận được ghi nhận trong
Điều 19 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền (UDHR): “Mọi người đều có
quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến; kể cả tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền
bá các ý tưởng và thông tin bằng bất kì phương tiện truyền thông nào và không
có giới hạn về biên giới” [11, tr.186]. Nội dung của Điều 19 UDHR sau đó được
khẳng định và cụ thể hóa trong các Điều 19 và 20 của Công ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị (ICCPR). Tại khoản 3, điều này xác định quyền tự do
ngôn luận phải được thực hiện kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt.
Vì vậy, quyền này có thể bị hạn chế bằng pháp luật vì những lý do: tôn trọng các
quyền và uy tín của người khác và để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng,
sự bình yên và đạo đức xã hội.

Tự do ngôn luận là một phần của tự do chính trị, là điều kiện của xã hội
dân chủ. Không những thế, tự do ngôn luận còn có rất nhiều tác dụng cho việc
tăng cường trách nhiệm của các quan chức nhà nước và giảm đi sự tùy tiện
của nhà nước. Khi công dân được quyền nói lên tiếng nói của mình và được
chính quyền tiếp nhận không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo
cho quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà còn tạo điều kiện cho nhân dân
giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền. Đó chính là hoạt động tố cáo
những hành vi sai trái của các cơ quan nhà nước và quan chức bằng việc nêu
lên những thông tin mà họ biết được, qua đó phanh phui ra những hành vi lạm
dụng quyền lực nhà nước. Ngoài việc tiếp nhận và xử lý các thông tin từ phía
dân chúng, nhà nước phải có trách nhiệm bảo vệ những người tố cáo, khiếu
nại khỏi những hành vi trả đũa từ phía chủ thể bị tố cáo. Sự bảo vệ dành cho
những người chống tiêu cực sẽ tạo điều kiện cho người dân dám cung cấp
những thông tin vào đúng lúc để các hành động cần thiết có thể được tiến
hành. Các quyền đó là nền móng của tính trách nhiệm của chính quyền trong
các nhà nước có quyền lực bị hạn chế.
Để thông tin được dễ dàng tiếp cận với dân chúng thì phải kể đến hoạt

17


động truyền thông qua mạng lưới báo chí, truyền thanh, truyền hình. Trong cuốn
Nền dân trị Mỹ, Alexis de Tocqueville đã viết: “Tôi càng quan sát những tác
động của một nền báo chí tự do, thì tôi lại càng tin rằng trong thế giới hiện đại,
tự do báo chí là một yếu tố chủ chốt, thậm chí phải nói là một yếu tố cấu thành
chính yếu trong sự tự do”[1, tr.237]. Tự do báo chí gắn liền với tự do ngôn luận,
là thành phần cốt yếu để bảo vệ một xã hội dân chủ. Tự do báo chí, bên cạnh
việc phát huy quyền tự do ngôn luận của người dân, còn đem lại cho nền dân
chủ một điều tốt đẹp, đó là: buộc chính quyền phải có trách nhiệm.
Khi người dân không có điều kiện để đi quan sát các phiên xử, ngồi

nghe tranh luận trong các phiên điều trần hay điều tra các hoạt động của chính
phủ thì giới truyền thông có thể thay thế họ làm những việc này. Trong một
chế độ dân chủ, báo chí sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện tham
nhũng, phanh phui những sai trái trong việc thi hành công lý hay các hoạt
động thiếu hiệu quả của chính quyền. Một quốc gia không có tự do báo chí thì
không thể nào là một quốc gia tự do. Một dấu hiệu của chế độ độc tài là
không có tiếng nói của giới truyền thông.
Khi nhắc đến hiệu quả của hoạt động báo chí thì phải kể đến vai trò của
báo chí điều tra. Theo Salvio Waisbord, tác giả của bài viết Tại sao nền dân
chủ cần báo chí điều tra đã đưa ra nhận xét:
Báo chí điều tra là quan trọng vì nó có nhiều đóng góp đối với sự
điều hành dân chủ. Vai trò của nó có thể được hiểu tương ứng với mô
hình báo chí là cơ quan quyền lực thứ tư. Theo mô hình này, báo chí
cần làm cho chính phủ phải có trách nhiệm bằng cách xuất bản các
thông tin về những vấn đề thuộc lợi ích công cộng cho dù những
thông tin đó vạch trần những sự lạm dụng hay tội ác do nhà cầm
quyền phạm phải… Nó gắn chặt với nguyên tắc kiểm soát và cân
bằng lẫn nhau trong chế độ dân chủ. Nó đặt ra cơ chế quý giá của các

18


×