Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Sự vận dụng của Đảng ta về chủ nghĩa duy vật biện chứng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.46 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
Trong lịch sử triết học, vấn đề nguồn gốc, bản chất, kết cấu và vai trò
của ý thức luôn là một trong những vấn đề trung tâm của cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Trên cơ sở những
thành tựu của triết học duy vật, của khoa học, của thực tiễn xã hội,
triết học Mác- Lênin góp phần làm sáng tỏ những vấn đề trên. Ở đây
chúng ta sẽ đi tìm hiểu vấn đề bản chất của ý thức. Ý thức là sự phản
ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào đầu óc con người, là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là toàn bộ sản
phẩm những hoạt động tinh thần của con người, bao gồm những tri
thức, kinh nghiệm, những trạng thái tình cảm, ước muốn, hy vọng, ý
chí niềm tin,… của con người trong cuộc sống. Ý thức là sản phẩm
của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội, là kết quả của
quá trình phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc của con
người.
Trước năm 1986, đất nước ta đã gặp rất nhiều khó khăn bởi một nền
kinh tế trì trệ, một hệ thống quản lý yếu kém cũng là do một phần
không nhận thức đúng và đầy đủ về quan niệm chủ nghĩa duy vật
biện chứng về ý thức. Vấn đề này được nhận thức đúng sau đổi mới
tại đại hội VI, và quả nhiên là đã giành rất nhiều thắng lợi sau khi đã
chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

1


NỘI DUNG
I.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng – hình thức phát triển cao
nhất của chủ nghĩa duy vật



Trong lịch sử, cùng với sự phát triển của thực tiễn và nhận thức khoa
học, chủ nghĩa duy vật đã trải qua ba hình thức cơ bản là: Chủ nghĩa
duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
- Chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại: đồng nhất với vật thể, lý
giải toàn bộ sự sinh thành của thế giới từ một hoặc một số dạng
vật chất cụ thể, cảm tính và coi đó là thực thể đầu tiên, là bản
nguyên của thế giới.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình: cơ học cổ điển đạt được những thành
tựu rực rỡ, ảnh hưởng đến tư duy triết học. Thế giới như một cỗ
máy khổng lồ, mà mỗi bộ phận của nó luôn biệt lập tĩnh tại.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Là hình thức cơ bản thứ ba của chủ
nghĩa duy vật, đồng thời là hình thức phát triển cao nhất của
CNDV do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập từ những năm 40 của
thế kỷ XIX, sau đó V.I.Lênin và những người kế tục ông bảo vệ và
phát triển.
- Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử
dụng triệt để những thành tựu khoa học tự nhiên đương thời, chủ
nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục
được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại và chủ
nghĩa duy vật siêu hình thời cận đại, đạt tới trình độ là hình thức
phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử.
- Trên cơ sở phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan trong mối liên
hệ phổ biến và sự phát triển; nêu ra những quy luật phổ biến nhất
chi phối sự vận động phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; tạo
ra sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng; chủ
nghĩa duy vật biện chứng đã cung cấp công cụ vĩ đại cho hoạt
2



động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng tạo ra cuộc cách
mạng trong lịch sử triết học.
- Toàn bộ hệ thống quan niệm, quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng được xây dựng trên cơ sở lý giải một cách khoa học về
vật chất, ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức.
II. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức
Ý thức là gì ?
Triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định, ý thức là một phạm
trù triết học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới
vật chất diễn ra trong não người, hình thành trong quá trình lao động
và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ.
1. Nguồn gốc của ý thức (yếu tố cần)
Theo quan điểm chủ ý Lê nin thì trong lịch sử triết học, vấn đề nguồn
gốc, bản chất của ý thức là một trong những vấn đề trung tâm của
cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT.
 Nguồn gốc tự nhiên
Theo quan điểm triết học mac lê nin ý thức là một thuộc tính của một
dang vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là sự phản ánh thế giới
khách quan vào bộ não người . Nếu không có sự tác động của thế giới
khách quan vào bộ não người và không có bộ não người với tính cách
là cơ quan vật chất của ý thức thì sẽ không có ý thức. Bộ não người
và sự tác động của thế giới khác quan vào bộ não người là nguồn gốc
tự nhiên của ý thức.
Các nhân tố bao gồm :
- Bộ óc người: Là sản phẩm quá trình tiến hóa lâu dài của thế giới
vật chất, từ vô cơ tới hữu cơ, chất sống (thực vật và động vật) rồi
đến con người – sinh vật – xã hội. Hoạt động ý thức của con người
diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần kinh não bộ; bộ óc càng hoàn

thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý
thức con người càng phong phú và sâu sắc. Tuy nhiên, nếu chỉ có
bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài
để bộ óc phản ánh tác động đó thì cũng không thể có ý thức.
3


- Mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tao ra quá
trình phản ánh năng động sáng tạo. Đây là quan hệ tất yếu ngay từ
khi con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thế giới khách
quan được phản ánh thông qua hoạt động của các giác quan đã tác
động đến bộ óc người, hình thành nên ý thức.
“Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất
này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của
chúng". Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật- vật tác
động và vật nhận tác động. Đồng thời, quá trình phản ánh bao hàm
quá trình thông tin hay vật nhận tác động bao giờ cũng mang
thông tin của vật tác động”
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật
chất, là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất khác trong
quá trình tác động qua lai lẫn nhau giữa chúng. Sự phản ánh của
vật chất là một trong những nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, thuộc tính
phản ánh của vật chất cũng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp:
1) Phản ánh vật lý, hóa học (phản ánh của giới vô cơ) : là hính thức
phản ánh thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh. Thể hiện qua
những biến đổi về cơ, lý, hóa khi có sự tác động qua lại lẫn nhau
giữa các dạng vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này mang tính
thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhận tác động.

2) Phản ánh sinh học: là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho
giới tự nhiên hữu sinh. Phản ánh sinh học được thể hiện qua tính
kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính kích thích là phản ánh của
thực vật và động vật bậc thấp bằng cách thay đổi chiều hướng sinh
trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, thay đổi cấu trúc… khi nhận
tác động trong môi trường sống. Tính cảm ứng là phản ứng của
động vật có hệ thần kinh tạo ra năng lực cảm giác , được thực hiện
trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ không
điều kiện , khi có sự tác động từ bên ngoài môi trướng nên cơ thể
sống.
4


3) Phản ánh tâm lý: là phản ánh của động vật có hệ thần kinh trung
ương được thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh thông
qua cơ chế phản xạ có điều kiện.
4) Phản ánh năng động sáng tạo: là hình thức phản ánh cao nhất
trong các hình thức phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật
chất phát triển cao nhất, có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Đây là
sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin
để tạo ra nhưng thông tin mới, phát hiện ý nghĩa thông tin. Sự
phản ánh năng động sáng tạo này được gọi là ý thức
 Nguồn gốc xã hội của ý thức (yếu tố đủ)
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan
trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ điều kiện quyết định cho
sự ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động,
ngôn ngữ và những quan hệ xã hội, ý thức là sản phẩm của sự phát
triển xã hội, nó phụ thuộc vào xã hội, và ngay từ đầu đã mang tính
chất xã hội.
- Lao động là hoạt động có mục đích, có tính lịch sử - xã hội của

con người nhằm tạo ra của cải để tồn tại và phát triển. Lao động
làm cho ý thức không ngừng phát triển (bằng cách tích lũy kinh
nghiệm), tạo cơ sở cho con người nhận thức những tính chất mới
(được suy ra từ những kinh nghiệm đã có) của giới tự nhiên; dẫn
đến năng lực tư duy trừu tượng, khả năng phán đoán, suy luận dần
được hình thành và phát triển.
Qua lao động con người tác động vào tg khách quan buộc nó bộc
lộ những thuộc tính, kết cấu, quy luật.. và được ý thức phản ánh
nhằm cải tạo giới tự nhiên. Thông qua lao động, hoạt động của con
người mang tính tập thể xã hội và nảy sinh nhu cầu trao đổi kinh
nghiệm, tư tưởng tình cảm từ đó xuất hiện ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết) là hệ thống tín hiệu vật chất chứa
đựng thông tin mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ, ý thức
không thể tồn tại và thể hiện. Trong quá trình lao động con người
liên kết với nhau, tạo thành các mối quan hệ xã hội tất yếu và các
5


mối quan hệ của các thành viên của xã hội không ngừng được
củng cố và phát triển dẫn đến nhu cầu cần thiết “phải trao đổi với
nhau điều gì đấy” nên ngôn ngữ xuất hiện. Ngôn ngữ ra đời trở
thành “cái vỏ vật chất của ý thức”, thành phương tiện thể hiện ý
thức. Nhờ ngôn ngữ, con người khái quát hóa, trừu tượng hóa
những kinh nghiệm để truyền lại cho nhau. Ngôn ngữ là sản phẩm
của lao động, đến lượt nó, ngôn ngữ lại thúc đẩy lao động phát
triển.
Như vậy , nguồn gốc cơ bản , trực tiếp và quan trong nhất quyết
định sự ra đời và phát triển ý thức là lao động . Sau lao động và
đồng thời với lao động là ngôn ngữ ; đó là hai sức kích thích chủ
yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn , đã làm cho bộ óc đó

dần biến chuyển thành bộ óc của con người,khiến cho tâm lý
động vật dần chuyển hóa thành ý thức
2. Bản chất của ý thức
Bản chất của ý thức thể hiện ở sự phản ánh năng động, sáng tạo thế
giới khách quan vào bộ não người; là hình ảnh chủ quan về thế giới
khách quan.
 Tính chất năng động, sáng tạo
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh được thể hiện ở khả
năng hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng,
tiếp cận thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu trữ thông
tin và trên những cơ sở thông tin đã có nó có thể tạo ra nhưng thông
tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin đã được nhập. Sự phản
ánh đó nhằm nắm bắt bản chất, quy luật vận động và phát triển của
sự vật, hiện tượng; khả năng vượt trước (dự báo) của ý thức tạo nên
sự lường trước những tình huống sẽ gây tác động tốt, xấu lên kết quả
của hoạt động mà con người đang hướng tới. Có dự báo đó, con
người điều chỉnh chương trình của mình sao cho phù hợp với dự kiến
xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng (dự báo thời tiết, khí
hậu...); xây dựng các mô hình lý tưởng, đề ra phương pháp thực hiện
phù hợp nhằm đạt kết quả tối ưu. Tính chất năng động, sáng tạo còn
được thể hiện ở chỗ quá trình con người tạo ra những ý tưởng, giả
6


thuyết, huyền thoại... trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái
quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng,
tri thức trong các hoạt động của con người.
 Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan
Điều đó thể hiện ở chỗ: Ý thức là hình ảnh về thế giới khách quan, bị
thế giới khách quan quy định cả về nội dung và hình thức biểu hiện;

nhưng thế giới ấy không còn y nguyên như nó vốn có, mà nó cải
thiện thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng,
tri thức, nhu cầu...) của con người. Theo C.Mác, ý thức “ chẳng qua
chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc của con người và
được cải biến đi trong đó”. Có thể nói, ý thức phản ánh hiện thực,
còn ngôn ngữ thì diễn đạt hiện thực và nói lên tư tưởng. Các tư
tưởng đó được tín hiệu hóa trong một dạng cụ thể của vật chất – là
cái ngôn ngữ - cái mà con người có thể cảm giác được. Không có
ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
 Ý thức là hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội
Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu
sự chi phối không chỉ của các quy luật tự nhiên mà còn (và chủ yếu
là) của các quy luật xã hội; được quy định bởi nhu cầu giao tiếp xã
hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của đời sống xã hội. Với tính
năng động của mình, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu
của bản thân và thực tiễn xã hội. Ở các thời đại khác nhau, thậm chí ở
cùng một thời đại, sự phản ánh ( ý thức) về cùng một sự vật, hiện
tượng có sự khác nhau – theo các điều kiện vật chất và tinh thần mà
chủ thể nhận thức phụ thuộc.
3. Kết cấu của ý thức
Ý thức là một hiện tượng tâm lý – xã hội có kết cấu rất phức tạp.
 Phân theo các yếu tố hợp thành (theo chiều ngang): tri thức,
tình cảm, ý chí:
- Tri thức: là toàn bộ hiểu biết của con người, là kết quả của quá
trình nhận thức về thế giới hiện thực; là sự tái hiện trong tư tưởng
những thuộc tính, quy luật của thế giới và diễn đạt chúng bằng
ngôn ngữ hoặc các hệ thống tín hiệu khác. Tri thức là yếu tố quan
trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý
thức phát triển.
 Theo lĩnh vực phản ánh: tri thức về tự nhiên, con người, xã hội.

7


-

-

-

-

 Theo trình độ phát triển của nhận thức: tri thức đời thường và
khoa học, kinh nghiệm và lí luận, cảm tính và lí tính.
Tình cảm: là những rung động biểu hiện ở thái độ của con người
trong các quan hệ hoặc khi tiếp nhận sự tác động của ngoại cảnh.
Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, yếu
tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức
và thực tiễn.
 Tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo...
Ý chí: là sự biểu hiện sức mạnh bản thân mỗi người nhằm vượt
qua những cản trở trong quá trình thực hiện mục đích. Là một biểu
hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự ý thức được
mục đích của hành động nên tự thực hiện đến cùng mục đích đã
chọn. “Ý chí là một trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp cách
mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết
liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại” – Lênin.
 Kết cấu theo chiều sâu nội tâm (theo chiều dọc): tự ý thức,
tiềm thức, vô thức:
Tự ý thức: sự tự ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý
thức về thế giới bên ngoài.

Tiềm thức: là ý thức dưới dạng tiềm năng, những tri thức mà chủ
thể có từ trước, trở thành bản năng và nằm trong tầng sâu ý thức.
Hoạt động do tiềm thức chỉ đạo ngoài sự kiểm soát của chủ thể
nhưng liên quan trực tiếp đến hoạt động tâm lý dưới sự kiểm soát
của chủ thể ấy.
Vô thức: là trạng thái tâm lí ở chiều sâu, điều chỉnh suy nghĩ, hành
vi, thái độ ứng xử của chủ thể mà chủ thể không có tính toán, kiểm
soát được (lỡ lời, thôi miên, ham muốn bản năng, trực giác, mặc
cảm...)

Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với
nhau, song tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn
tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng đối với sự phát
triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.
4. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
 Vai trò của vật chất đối với ý thức
8


Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: vật chất có trước, ý thức
có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
- Quyết định nguồn gốc ra đời của ý thức: ý thức chỉ là thuộc tính
phản ánh của một dạng vật chất đặc biệt là bộ óc con người nên
chỉ khi có con người thì mới có ý thức. Con người là kết quả quá
trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế
giới vật chất. Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên và xã hội
đều là từ thế giới vật chất khách quan hoặc những dạng tồn tại của
vật chất nên vật chất là nguồn gốc sinh ra ý thức.
- Quyết định nội dung, bản chất của ý thức: Ý thức là sự phản ánh
thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan của thế giới vật chất. Vật

chất là đối tượng, khách thể của ý thức, nó quy định nội dung,
hình thức, khả năng, và quá trình vận động của ý thức.
- Quyết định sự biến đổi của ý thức: Sự vận động và phát triển của ý
thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các
quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định.
Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất cũng quyết
định mọi sự biến đổi của ý thức. Do ý thức là chức năng của bộ
não con người. Hoạt động ý thức không diễn ra ở đâu ngoài những
hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não. Ý thức phụ thuộc vào hoạt
động của bộ não, do đó khi bộ não bị tổn thương thì hoạt động ý
thức sẽ không được bình thường hoặc bị rối loạn.
Vật chất là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của ý thức nên khi vật
chất thay đổi thì ý thức cũng thay đổi theo.
VD1: Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường trên cơ sở hoạt động
sinh lý thần kinh của bộ não con người. Nhưng khi bộ não người bị
tổn thương thì hoạt động của ý thức cũng bị rối loạn.
VD2: Ở Việt Nam, nhận thức của các học sinh cấp 1, 2, 3 về công
nghệ thông tin là rất yếu kém sở dĩ vậy là do về máy móc cũng như
đội ngũ giáo viên giảng dạy còn thiếu. Nhưng nếu vấn đề về cơ sở vật
chất được đáp ứng thì trình độ công nghệ thông tin của các em cấp 1,
2, 3 sẽ tốt hơn nhiều.
 Vai trò của ý thức đối với vật chất
9


Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
- Ý thức do vật chất sinh ra và quy định, nhưng ý thức lại có tính
độc lập tương đối của nó. Hơn nữa, sự phản ánh của ý thức đối với
vật chất là sự phản ánh tinh thần, phản ánh sáng tạo và chủ động

chứ không thụ động, máy móc, nguyên si thế giới vật chất, vì vậy
nó tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn
của con người
- Trên cơ sở đó ý thức giúp xác định mục tiêu, đề ra phương hướng
hoạt động, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, phương
tiện tác động nhằm cải tạo hiện thực khách quan thông qua hoạt
động thực tiễn của con người. Và bằng nỗ lực, ý chí, con người có
thể thực hiện mục tiêu đề ra trong điều kiện vật chất cụ thể.
- Dựa trên các tri thức khách quan, con người đề ra mục tiêu,
phương hướng, xác định phương pháp, dùng ý chí để thực hiện
mục tiêu ấy. Vì vậy ý thức tác động đến vật chất theo 2 chiều
hướng:
 Tác động tích cực: nếu con người có nhận thức đúng đắn, có tri
thức khoa học, có tình cảm cách mạng , có nghị lực, có ý chí thì
hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan,
con người có khả năng vượt qua những thách thức trong quá
trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo =>
thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng.
 Tác động tiêu cực: nếu ý thức của con người phản ánh không
đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì
ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại
các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác động tiêu cực
đối với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan =>
kìm hãm sự phát triển của sự vật.
 Như vậy có nghĩa là cũng có những ý thức khoa học và những
ý thức không khoa học so với hiện thực khách quan, tương ứng
với nó là hai tác động trái ngược nhau tích cực và tiêu cực của
ý thức đối với vật chất.

10



VD1: Hiểu tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở 1000 0C thì con
người tạo ra các nhà máy gang thép để sản xuất các loại thép với đủ
các kích cỡ chủng loại, chứ không phải bằng phương pháp thủ công
xa xưa.
VD2: Từ nhận thức đúng về thực tại nền kinh tế của đất nước. Tư
sản đại hội VI, Đảng ta chuyển nền kinh tế từ tự cung, tự cấp quan
liêu sang nền kinh tế thị trường, nhờ đó mà sau gần 20 năm đổi mới
bộ mặt đất nước ta đã thay đổi dần.
Tuy vậy, sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một
mức độ nhất định chứ nó không thể sinh ra hoặc tiêu diệt các quy
luật vận động của vật chất được. Và suy cho cùng, dù ở mức độ nào,
nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất.
Như vậy bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức
có thể quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của
con người đúng hay sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không
hiệu quả.
Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã
hội là quan hệ giưa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn
tại xã hội quyết định ý thức xã hội, đồng thời ý thức xã hội có
tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội. Ngoài ra,
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để nghiên cứu,
xem xét các mối quan hệ khác như: lý luận và thực tiễn, khách
thể và chủ thể, vấn đề chân lý,…
5. Ý nghĩa phương pháp luận
Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan; nhận thức và
hành động theo quy luật khách quan.
- Vật chất là nguồn gốc khách quan sản sinh ra ý thức, ý thức chỉ là
sản phẩm, là phản ánh thế giới khách quan. Vì vậy trong hđ nhận

thức và thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng
quy luật khách quan, biết tạo điều kiện và phương tiện vật chất tổ
chức lực lượng biến khả năng thành hiện thực.

11


- VD: Cương lĩnh năm 1991 của Đảng ta chỉ rõ: "Mọi đường lối,
chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật
khách quan".
- VD2: Đảng thừa nhận lỗi Chủ quan duy ý chí là trái ngược với
quyết định trên.
Phát huy tính năng động chủ quan, phát huy vài trò của nhân tố con
người, của tri thức khoa học và cách mạng trong hoạt động thực tiễn.
- Cần nhận rõ vai trò tích cực của nhân tố ý thức, tinh thần trong
việc sử dụng hiệu quả nhất điều kiện phương tiện vật chất hiện có.
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố cn
để cải tạo thế giới khách quan; phải tạo ra động lực hành động cho
con người bằng cách quan tâm tới đời sống kinh tế, lợi ích thiết
thực của quần chúng, phát huy dân chủ rộng rãi.
- Cần khái quát tổng kết hành động thực tiễn để thường xuyên nâng
cao năng lực nhận thức, năng lực chỉ đạo thực tiễn, chống tư tưởng
thụ động ngồi chờ, ỷ lại vào hoàn cảnh, vào điều kiện vật chất.
- Bảo đảm sự thống nhất biện chứng giữa tôn trọng khách quan và
phát huy năng động chủ quan trong hoạt động thực tiễn. Ý thức có
thể quyết định thành công hay thất bại trong hoạt động thực tiễn
của con người. Vì vậy, trong nhận thức cũng như hoạt động thực
tiễn cần xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan
làm căn cứ cho mọi hành động của mình. Đồng thời cần phát huy
tính năng động sáng tạo của nhân tố con người, khắc phục bệnh

chủ quan duy ý chí hoặc bảo thủ, trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động,
ỷ lại.
III. Sự vận dụng của Đảng ta trong thực tiễn cách mạng Việt
Nam.
1. Sự vận dụng của Đảng ta về chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý
thức trước đổi mới
Sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, nước ta bước vào
thời kỳ khôi phục kinh tế. Đảng nhận thấy rõ những khó khăn của
nền kinh tế đất nước: cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, cơ cấu nền
kinh tế nhiều mặt mất cân đối, năng suất lao động thấp, sản xuất chưa
đảm bảo nhu cầu đời sống và tích lũy,... Đảng ta cũng vạch ra những
nguyên nhân sâu xa của tình hình trên là nền kinh tế nước ta là sản
xuất nhỏ, công tác tổ chức và quản lý kinh tế có nhiều hạn chế,...
12


Nhưng những điểm bất hợp lý trong quan hệ sở hữu Đảng lại chưa
chỉ ra. Ở miền Bắc, nền kinh tế bị chiến tranh phá hoại bằng không
quân của đế quốc Mỹ tàn phá nặng nề. Ở miền Nam, sau 20 năm
chiến tranh, nền kinh tế bị đảo lộn và suy sụp, nông nghiệp nhiều
vùng hoang hóa, lạm phát trầm trọng,...
Trước tình hình đó, đại hội Đảng lần thứ IV, Đảng ta đặc biệt quan
tâm tới việc hoàn thiện hệ thống quản lý kinh tế, nhằm vào những
vấn đề quan trọng nhất là tổ chức lại nền sản xuất xã hội chủ nghĩa
trong phạm vi cả nước. “Tổ chức lại tất cả các ngành sản xuất công
nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp... trong cả nước theo
hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ tình trạng phân tán, cục
bộ, hình thành những ngành kinh tế - kỹ thuật thống nhất và phát
triển trên phạm vi cả nước...”. Đồng thời với việc tổ chức lại nền sản
xuất, Đảng chủ trương cải tiến phương thức quản lý kinh tế, lấy kế

hoạch hóa làm chính. Kế hoạch hóa trên cơ sở đề cao trách nhiệm và
phát huy tính sáng tạo của các ngành, các địa phương và các cơ sở.
Trong quản lý kinh tế, Đảng cũng đã nhấn mạnh đến việc phải coi
trọng quy luật giá trị, phải thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, sử
dụng tốt thị trường,...
Tuy nhiên, việc thực hiện công tác quản lý kinh tế còn nhiều khuyết
điểm, đặc biệt là không gắn kế hoạch với hạch toán kinh tế, do đố kế
hoạch chưa thực sự xuất phát từ thực tế lao động sản xuất, thiếu tính
khả thi. Đảng vạch rõ: “về tổ chức thực hiện, khuyết điểm, sai lầm
của chúng ta là quan liêu, xa rời thực tế, không nhạy bén với cuộc
sống: là bảo thủ, trì trệ, thiếu trách nhiệm trong quản lý kinh tế”.
Trong khi đó cơ chế quản lý quan liêu bao cấp vẫn tiếp tục được duy
trì đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền sản xuất, nhất là trong việc phân
phối, lưu thông. Nhà nước đóng vai trò điều tiết giả cả nên đã không
kích thích được sản xuất kinh doanh phát triển. Cơ chế quản lý quan
liêu bao cấp với đặc điểm “tách rời việc trả công lao động với số
lượng và chất lượng lao động”, kết hợp với nguyên tắc “phân phối
theo lao động” đã làm cho chế độ phân phối mang tính bình quân, do
đó không kích thích được sự nhiệt tình và khả năng tìm tòi sáng tạo
của người lao động.
13


Trong kế hoạch phát triển kinh tế được đề ra tại Đại hội IV, Đảng ta
đã có sự chuyển hướng tương đối phù hợp với điều kiện nước ta. Từ
chủ trương ưu tiên phát triển công nghiệp nặng được đề ra tại đại hội
III, tới Đại hội IV Đảng đặt ra nhiệm vụ tập trung cao độ lực lượng cả
nước của các ngành, các cấp, tạo ra một bước phát triển vượt bậc về
nông nghiệp,... Sự chuyển hướng này có ý nghĩa rất lớn đối với việc
giải quyết tình trạng thiếu lương thực, khai thác một cách triệt để hơn

các nguồn lực trong nước, đồng thời sẽ tạo ra những điều kiện và tiền
đề cần thiết cho những bước đi tiếp theo.
Đại hội IV đã đề ra những chỉ tiêu kế hoạch năm 1976 – 1980 quá
cao và phát triển sản xuất quá khả năng của nền kinh tế, như năm
1975, phấn đấu đạt 21 triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển, 1 triệu
héc ta khai hoang, 1 triệu 200 héc ta rừng mới trồng, 10 triệu tấn than
sạch, 2 triệu tấn xi măng... đặc biệt là đã đề ra việc xây dựng thêm
nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đạc biệt là cơ khí và đặt nhiệm
vụ hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam.
Những chủ trương sai lầm đó cùng với cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp đã tác động xấu đến nền kinh tế, ảnh hưởng không tốt đến đời
sống của nhân dân... Đến hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu kinh tế đạt
khoảng 50 – 60% mức đề ra, nền kinh tế tăng trưởng rất chậm chạp:
tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân 1.5%, công nghiệp tăng 2.6%,
nông nghiệp giảm 0.15%.
Trước sự yếu kém của nền kinh tế đất nước, Đại hội V năm 1982
cũng chỉ tìm ra được đầy đủ những nguyên nhân đích thực sự trì trệ
trong nền kinh tế của nước ta và đã đề ra các chủ trương chính sách
và toàn diện về đổi mới, nhất là về kinh tế. Từ Đại hội III năm 1960,
Đảng luôn khẳng định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của
thời kỳ quá độ. Đến Đại hội V này, điều mới và quan trọng là Đảng
đã xác định cụ thể nội dung và hình thức công nghiệp hóa trong
chặng đường đầu tiên. Đó là “tập trung phát triển mạnh mẽ nông
nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một
bước lên xã hội chủ nghĩa...”

14


Gắn liền với việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, tại Đại hội V,

Đảng chủ trương tiếp tục đẩy mạnh hợp tác hóa nông nghiệp ở Nam
Bộ, từng bước phát huy tác dụng của hợp tác hóa đối với việc đưa
nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và xây dựng nông thôn
mới. Rút kinh nghiệm từ phong trào hợp tác hóa trong những năm
trước đây đưa quy mô hợp tác xã nông nghiệp lên quá lớn ở một số
địa phương, trong chủ trương lần này, Đảng nhấn mạnh đến việc ổn
định quy mô hợp tác xã và tập đoàn sản xuất, tổ chức tốt việc điều
chỉnh quy mô trong những trường hợp cần thiết. Một bước tiến mới
trong việc xây dựng và củng cố hợp tác xã là Đảng chủ trương “áp
dụng rộng rãi khoản sản phẩm cuối cùng đến người lao động và
nhóm lao động”. Chủ trương này đã mở ra một phương hướng đúng
đắn cho việc củng cố quan hệ kinh tế tập thể ở nông thôn, vì nó đã
bước đầu thể hiện quyền tự chủ của nông dân. Có thể coi đây là đột
phá đầu tiên trong tiến trình đổi mới, là một tiền đề quan trọng để tiến
tới sự đổi mới toàn diện và sâu sắc nền kinh tế xã hội.
Trong suốt thời kỳ thực hiện kế hoạch 5 năm 1981 – 1985, chúng tá
chỉ kiên quyết khắc phục chủ quan, trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế,
cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, lại phạm những sai lầm
mới nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối lưu thông. Nhìn chung,
chúng ta chỉ thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội V đề ra là
cơ bản ổn định tình hình kinh tế, ổn định đời sống nhân dân. Nông
nghiệp tăng bình quân 4.9% so với 1.9% hàng năm của thời kỳ 1976
– 1980. Sản xuất lương thực có bước phát triển quan trọng, mức bình
quân hàng năm từ 13,4 triệu tấn trong thời kỳ 1976 – 1980 đã tăng
lên 17 triệu tấm trong thời kỳ 1981 – 1985.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qua độ lên chủ
nghĩa xã hội đã nhận định: “Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng
ta có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định
đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy công cuộc cải
cách được tiến hành trong nhiều năm nhưng chúng ta chưa xác định

rõ ràng, nhất quán những quan điểm, chủ trương và chính sách chỉ
đạo công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, trong việc tổ chức
thực hiện còn mắc quá nhiều sai lầm:
15


- Nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa muốn xóa bỏ ngay nền
kinh tế nhiều thành phần
- Thúc đẩy mạnh quá mức qua trình xây dựng công nghiệp nặng
- Duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp
- Có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền
lương
Đất nước ta sau nhiều năm trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, nhưng nền kinh tế vẫn ở trong tình trạng thấp kém. Thực trạng
đất nước vào giữa những năm 1980 với những khó khăn mới gay gắt
và phức tạp: hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp, mất cân đối lớn trong
nền kinh tế, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, nhiều nhu cầu
chính đáng tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất tinh thần chưa
được đảm bảo... Thực trạng kinh tế xã hội đòi hỏi Đảng ta phải có
những quyết sách xoay chuyển tình hình, tạo ra một bước ngoặt cho
sự phát triển.
2. Thời kỳ đổi mới, những chủ trương và thành tựu đạt được
Sau đổi mới nền kinh tế nước ta đã có sự thay đổi đáng mừng song
cũng vẫn còn tồn tại rất nhiều vấn đề tồn đọng nhũng hiện tượng tiêu
cực vẫn còn như nông nghiệp lạc hậu quản lí kém, tham ô… Nhưng
thực ra mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất với
những hình thức kinh tế -xã hội xa lạ được áp đặt một cách chủ quan
kinh tế thích hợp cần thiết cho lực lượng sản xuất mới nảy sinh và
phát triển. Để khắc phục khuyết điểm, chuyển biến được tình hình,
Đảng ta trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận

thức và hành động đúng đắn, đề ra những chủ trương, chính sách phù
hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó các quy luật đặc thù
của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối mạnh mẽ phương hướng
phát triển chung của xã hội. Mọi chủ trương, chính sách, biện pháp
kinh tế gây tác động ngược lại đều biểu hiện sự vận dụng không đúng
quy luật khách quan, phải được sửa đổi hoặc huỷ bỏ.
Trên cơ sở đó, chúng ta phải vận dụng tổng hợp hệ thống các quy luật
đang tác động lên nền kinh tế. Trong hệ thống các quy luật đó, quy
16


luật kinh tế cơ bản cùng với các quy luật đặc thù khác của chủ nghĩa
xã hội ngày càng phát huy vai trò chủ đạo, được vận dụng trong một
thể thống nhất với các quy luật của sản xuất hàng hoá, đặc biệt là quy
luật giá trị, quy luật cùng cầu, quy luật cạnh tranh... Kế hoạch hoá
phải luôn luôn gắn liền với việc sử dụng các đòn bẩy kinh tế.
Trước tình hình ngày càng nghiêm trọng, nền kinh tế nước ta rơi vào
tình trạng sa sút nghiêm trọng trong thời điểm diễn ra Đại hội VI năm
1986. Đảng nghiêm khắc đánh giá những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng đó, đạc biệt là những nguyên nhân chủ quan, duy ý chí, chưa
nắm vững và vận dụng đúng quy luật khách quan. Đảng và nhà nước
đã đi sâu nghiên cứu, lấy ý kiến rộng rãi của cơ sở, của nhân dân, và
đặc biệt đổi mới tư duy về kinh tế.
Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành đổi mới toàn
diện đất nước. Để tiến hành đổi mới đúng hướng, tại Đại hội VI
Đảng ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó có
các bài học:
1. Chống chủ quan duy ý chí
2. Phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan.

Trước hết, cần phải nói rằng, sự thất bại của mô hình cũ xuất phát từ
sự chủ quan duy ý chí. Trong một thời gian dài, chúng ta đã tiến
hành xây dựng chủ nghĩa xã hội theo ý muốn chủ quan, khi nghĩ
rằng, với nhiệt tình, với “tấm lòng người cộng sản” là có thể nhanh
chóng xây dựng được chủ nghĩa xã hội. Với suy nghĩ sai lầm đó,
chúng ta đã nhanh chóng thiết lập một quan hệ sản xuất có quá nhiều
yếu tố vượt xa trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đã đặt ra
quá nhiều mục tiêu, nhiệm vụ (theo ước muốn chủ quan) mà trên
thực tế, chưa có điều kiện để giải quyết chúng.
Nhận rõ sai lầm đó, để công cuộc đổi mới đi đúng hướng, Đảng ta
đặt ra yêu cầu: Tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan mà
quan niệm duy vật về lịch sử đã đặt ra. Dựa trên các quy luật khách
quan trong sự phát triển của xã hội loài người, căn cứ vào điều kiện
17


đặc thù của Việt Nam và tính chất của thời đại – quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục lựa chọn
con đường phát triển: đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa. Đây là sự lựa chọn đúng đắn và nhất quán. Tuy nhiên,
khác với trước đây, khái niệm “bỏ qua” đã được xác lập một cách cụ
thể và chuẩn xác hơn, đó là “… bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được
dưới chế độ tư bản, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. (Đảng
Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 84 – 85)
Để thực hiện thành công chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức,
trong quá trình tiếp tục đổi mới tư duy ở Việt Nam, chúng ta cần chú

ý tới các quan hệ sau:
1. Phải đổi mới tư duy một cách toàn diện và đồng bộ các mặt của
đời sống xã hội đất nước.
- Cùng với đổi mới tư duy kinh tế, phải đổi mới tư duy toàn diện
các mặt khác, như chính trị, văn hoá, giáo dục, khoa học…, trước
hết là đổi mới tư duy chính trị theo kịp với đổi mới kinh tế và giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Cùng với đổi mới tư duy lý luận, phải đổi mới tư duy thực tiễn.
Chúng ta phải đổi mới hệ thống chính trị một cách phù hợp với cơ
sở kinh tế và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Phải xây dựng một cách đồng bộ các loại thị trường, tôn trọng các
quy luật của kinh tế thị trường.
3. Phải kết hợp chặt chẽ giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây
dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trong từng bước và trong suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

18


4. Phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với
phát triển kinh tế tri thức, phát triển nền khoa học, giáo dục, văn hoá
tiên tiến.
Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua
chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước là sản xuất phát triển,
lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân
từng bước được ổn định và nâng cao, con người mới xã hội chủ
nghĩa ngày càng được hình thành rõ nét, xã hội ngày càng lành
mạnh, chế độ xã hội chủ nghĩa được củng cố.
Sau nhiều năm cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương
hướng xã hội chủ nghĩa hóa toàn bộ quan hệ sản xuất đã dẫn tới tình

trạng sản xuất bị đình đốn, nền kinh tế phát triển chậm. Thực tiễn đó
đã chứng minh một điều rằng cần phải mở ra một phương hướng mới
để đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đó cũng đã chứng minh việc
tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là một quá trình lâu
dài, phức tạp và trải qua nhiều bước đường khác nhau. Đó là cả một
quá trình tìm tòi, sáng tạo, cần phải rút kinh nghiệm từ thực tiễn để
vạch ra những bước đi tiếp theo, phải tránh sự dập khuôn, máy móc.
Lênin đã chỉ ra rằng “chúng tá không hề coi lý luận của Mác như là
một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm, trái lại, chúng ta
tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học àm người xã
hội chủ nghĩa phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không
muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống”.
Trên tinh thần đó và xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước, tại Đại
hội VI Đảng đã đề ra chủ trương thực hiện đường lối đổi mới, trước
hết là đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận
những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ
biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối
đúng đắn đã được xác định, trái lại, chính là bổ sung và phát triển
những thành tựu ấy.
Tại Đại hội VI, Đảng đã tự phế bình một cách nghiêm khắc, đã phân
tích đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế xã hội, đề
19


ra các định hướng lớn và xác định chủ trương đổi mới, đặc biệt là đổi
mới về kinh tế, đã thực hiện mục tiêu của 3 chương trình kinh tế:
lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu; tình hình
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, sử dụng đúng đắn quan hệ hành
hóa – tiền tệ.

Trong chủ trương xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, Đảng xác định rõ: xây dựng quan hệ sản xuất mới cả ba mặt,
làm cho nó thật sự mang bản chất xã hội chủ nghĩa, gắn với mỗi
bước phát triển của lực lượng sản xuất, là công việc to lớn, không thể
làm xong trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, khác với những năm
trước đây, là những nâm mà trong nhận thức cũng như trong hành
động, chúng ta chưa thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài. Từ Đại hội VI
trở đi nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành
phần. Các thành phần kinh tế đó là:
- Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu
vực tập thể, cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với
thành phần đó.
- Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế sản xuất hàng hóa
(thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh
doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản
nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư
hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận
đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng khác.
Đảng khẳng định: chính sách cải tạo xã hội chủ nghia phải xuất phát
từ đặc trưng nói trên mà đề ra những hcur trương và biện pháp đúng
đắn.
Việc thừa nhận nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần thể hiện sự nhận
thức mới của Đảng ta về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lênin
đã từng khẳng định: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng
giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ
20


nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm về

đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy”.
Trong những năm trước Đại hội VI, Đảng ta đã có những biện pháp
nóng vội, muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế từ tư bản tư ngân thành chủ nghĩa
quốc doanh, có xu hướng tổ chức ngay các hợp tác xã quy mô lớn,
không tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng
lực cán bộ trước sự phát triển của thực tiễn, Đảng ta đã nhận thấy rõ
những sai lầm do áp đặt chủ quan gây ra.
Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế. Cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp trong
những năm trước đây (trước Đại hội VI) đã không tạo được động lực
phát triển, làm suy yếu nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử
dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm
giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn phân phối lưu
thông và làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Chính
vì vậy mà Đảng ta tiếp tục chủ trương việc triển khai thực hiện một
cách triệt để việc đổi mới cơ chế quản lý đã được đề ra tại Đại hội V.
Cơ chế mới về quản lý kinh tế mới chính là "cơ chế kế hoạch hoá
theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ".
Tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế, ngay
từ buổi đầu của thời kỳ quá độ, Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý
nền kinh tế quốc dân theo một kế hoạch thống nhất. Để tăng cường
vai trò của tính kế hoạch trong nền kinh tế quốc dân, Đảng chủ
trương đổi mới kế hoạch hoá: "kế hoạch kinh tế quốc dân trong
những năm tới phải bảo đảm thực hiện phương hướng sắp xếp lại
nền kinh tế, bố trí đúng cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư theo chương
trình mục tiêu. Các cân đối kế hoạch được xây dựng từ cơ sở và tổng
hợp từ dưới lên với sự hướng dẫn và điều hoà của Trung ương. Kết
hợp kế hoạch hoá theo ngành và kế hoạch hoá trên địa bàn lãnh thổ".

Các đơn vị kinh tế cơ sở với quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, chủ
động tiếp cận nhu cầu thị trường, khai thác mọi khả năng để phát
21


triển sản xuất, kinh doanh nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của kế
hoạch Nhà nước.
Trong 5 năm đầu tiên thực hiện đường lối đổi mới, công tác kế hoạch
hoá đã có những bước tiến lớn có tác dụng tích cực đến quá trình sản
xuất của các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Công tác
kế hoạch hoá đã chuyển từ kế hoạch pháp lệnh sang kế hoạch định
hướng là chủ yếu. Do đó, đã tạo được tính độc lập, tự chủ của các cơ
sở sản xuất, kinh doanh.
Khác với cơ chế quản lý hành chính tập trung quan liêu bao cấp, cơ
chế quản lý mới này đặc biệt chú ý và sử dụng đúng đắn quan hệ
hàng hoá - tiền tệ: "Việc sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ đòi hỏi
sản xuất phải gắn với thị trường, mọi hoạt động kinh tế phải so sánh
chi phí với hiệu quả, các tổ chức và đơn vị kinh tế tự bù đắp chi phí
và có lãi để tái sản xuất mở rộng".
Cơ cế quản lý mới này có tác dụng rất lớn đối với quá trình sản xuất
và lưu thông hàng hoá. Cuộc cải cách giá, chuyển từ hệ thống định
giá hành chính sang cơ chế thị trường đã góp phần không nhỏ vào
việc điều hoà cung cầu và giảm bớt chênh lệch về giá hàng hoá giữa
các vùng trong nước nhờ giá cả phản ánh đúng giá trị và quan hệ
cung cầu, do đó đã thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển. Sau 5
năm thực hiện cơ chế mới, "hàng hoá trên thị trường, nhất là hàng
tiêu dùng dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối thuận lợi".
Sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã thu được
những thành tựu quan trọng, tình hình lương thực, thực phẩm có
chuyển biến tốt. Từ chỗ thiếu ăn triền miên, năm 1989 còn phải nhập

hơn 45 vạn tấn gạo, nay chúng ta đã vươn lên đáp ứng nhu cầu trong
nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống
nhân dân và cải thiện cán cân xuất nhập khẩu; hàng hoá thị trường,
nhất là hàng tiêu dùng, dồi dào, đa dạng, lưu thông thuận lợi.
Tuy còn có những hạn chế nhất định tồn tại trong các lĩnh vực khác
nhau, nhưng những thành tựu bước đầu này chính là những tiêu
chuẩn để Đảng ta đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật khách
22


quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng nhận định:
công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan
trọng, chứng tỏ đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra là đúng đắn,
bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản là phù hợp.
Đại hội VI đã vạch ra là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa
Mác – lênin vào thực tiễn đất nước.
Từ khi Đảng ta ra đời đến nay chủ nghĩa Mác – Lênin luôn là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam và đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
 Thứ nhất: Đảng phải tiếp tục vận dụng nguyên tắc xây dựng Đảng
kiểu mới của chủ nghĩa Mác – Lenin vào củng cố chính trị tư
tưởng tổ chức một cách sát thực.
 Thứ hai: tiếp tục vận dụng chủ nghĩa Mác – Lenin vào xây dựng
Đảng và đổi mới đất nước hiện nay.
Tại Đại hội VII năm 1991, Đảng chủ trương tiếp tục đổi mới toàn
diện và đồng bộ, đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu với bước
đi vững chắc. Đại hội đã chỉ ra những tồn tại lớn nhất cần giải
quyết, đặc biệt về mặt kinh tế đó là: lạm phát còn ở mức cao, nhiều
cơ sở sản xuất đình đốn kéo dài, lao động thiếu việc làm tăng lên,
đồng thời cũng tự phê bình về việc chậm xác định rõ yêu cầu và

nội dung đổi mới, còn nhiều lúng túng và nhiều sơ hở trong điều
hành, quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường... Đặc biệt, đại hội cũng
xác định: “về quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải tập
trùn sức đổi mới kinh tế, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của nhân dân về
đời sông và làm việc, các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật
chất của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến
hành đổi mới trong lĩnh vực chính trị”.
Đảng ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
và đối mới quản lý kinh tế; Đổi mới, bổ sung và đồng bộ hóa hệ
thống pháp luật; Nâng cao chất lượng kế hoạch hóa, lấy thị trường

23


làm đối tượng và căn cứ quan trọng nhất; Xây dựng chính sách tài
chính quốc gia; Thực hiện cải cách cơ bản tài chính nhà nước;...
Như vậy, rõ ràng Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày càng vận dụng
đúng đắn quan niệm chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức vào
công cuộc đổi mới, tiến hành đổi mới kinh tế trước để tạo điều
kiện đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đại hội VII, sau khi đã phân
tích sâu sắc đặc điểm tình hình quốc tế và trong nước đã đề ra mục
tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể, những phương châm chỉ đạo
trong 5 năm 1991 – 1995, đặc biệt đáng chú ý là phương châm kết
hợp động lực kinh tế và động lực chính trị tinh thần, phương châm
tiếp tục đổi mới toàn diện và đồng bộ đa công tác đổi mới vào
chiều sâu với bước đi vững chắc, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm
đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ việc đổi mới lĩnh vực khác.
Với những chủ trương, đường lối đúng đắn công cuộc đổi mới ở
nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ: khắc phục được
một bước rất quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội,

khắc phục được nhiều mặt đình đốn, suy thoái, tốc độ tăng trưởng
khá và liên tục trong ba năm qua. Lạm phát được đẩy lùi từ 67%
năm 1991 xuống 17,5% năm 1992 và còn 5,2% năm 1993. Tổng
lương thực năm năm qua đã tăng 26 so với năm năm trước, tạo
điều kiện cơ bản để ổn định đời sống nhân dân, phát triển ngành
nghề chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, vấn đề
lương thực được giải quyết tốt. Quan hệ kinh tế đối ngoại mở rộng
theo hướng đa dạng hóa và đa phương hóa, thị trường xuất khẩu
được củng cố và mở rộng đầu tư vốn từ nước ngoài tăng
mạnh...Khoa học công nghệ có bước phát triển, đã tập trung
nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới
và phát triển của nước ta, phục vụ cho việc xây dựng đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, lĩnh vực văn hóa – xã hội có
nhiều chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân được cải thiện một
bước. Quốc phòng an ninh được giữ vững. Đời sống của nhân dân
ngày càng được ổn định và nâng cao.

24


Sau gần 30 năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986, nền kinh
tế Việt Nam từ là một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất không đủ
cho tiêu dùng trong nước đã đi nhanh chóng đạt tới trình độ của một
nước đang phát triển nhờ đẩy mạnh sự công nghiệp hoá một cách
toàn diện và sâu sắc.Và đặc biệt ở các kì đại hội tiếp theo chúng ta đã
không ngừng đẩy mạnh công nghiệp hoá một cách quyết liệt hơn, cải
tiến hơn,cùng với sự góp sức không hề nhỏ của các nước bạn như
Liên Xô để
phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.

Gần 30 năm qua, nét nổi bật của Việt Nam là từ một nước trì trệ, tăng
trưởng thấp, tích luỹ phần lớn nhờ vào vay mượn bên ngoài, đến nay
đã trở thành một nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực. Việt
Nam đã tạo được khả năng tích luỹ để đầu tư cho phát triển và cải
thiện đời sống của người dân. Tổng tích luỹ tăng từ 9,5 – 11,3%/năm
tuỳ giai đoạn. Nhưng cơ bản, Việt Nam đã đổi mới được cơ chế quản
lý, nhờ đổi mới mà Việt Nam từng bước xây dựng được vai trò của
mình trong hội nhập khu vực và quốc tế.
Một số nét nổi bật trong hơn gần 30 năm đổi mới như sau :
- Hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối
đồng bộ. Từng bước phát triển đồngbộ và quản lý sự vận hành các
loại thị trường cơ bản, theo cơ chế mới. Thị trường hàng hoá phát
triển với quy mô lớn, tốc độ nhanh. Các thị trường dịch vụ, lao
động, khoa học và công nghệ, bất động sản hình thành và phát triển
mạnh mẽ.
- Các cân đối vĩ mô của nền kinh tế cơ bản được giữ ổn định, tạo
môi trường và điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Tiềm
lực tài chính ngày càng được tăng cường, thu ngân sách tăng trên
18%/năm; chi cho đầu tư phát triển bình quân chiếm khoảng 30%
tổng chi ngân sách.
- Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 200 USD năm 1990
lên khoảng 640 USD năm 2005, tính đến năm 2012 thu nhập bình
quân đầu người đạt gần 24 triệu đồng (1.150 USD).
25


×