Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Thu hoạch chuyên đề công tác phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực giáo dục được xem là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.36 KB, 19 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, tích cực, chủ động hội nhập
quốc tế sâu rộng hơn để đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại đặt ra cho giáo dục, đào tạo nước nhà những yêu cầu, nhiệm
vụ, thách thức mới. Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế tri thức đang là áp lực của ngành giáo dục nói riêng và của
toàn Đảng, toàn dân nói chung. Điều này đòi hỏi phải có định hướng phát triển,
có tầm nhìn chiến lược, ổn định lâu dài cùng những phương pháp, hình thức, tổ
chức, quản lý giáo dục và đào tạo cho phù hợp.
Sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới sẽ tạo ra nhiều cơ hội,
đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với sự nghiệp phát triển
giáo dục, đào tạo của nước ta. Bối cảnh mới tạo cơ hội thuận lợi để giáo dục,
đào tạo nước ta tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, những mô hình giáo
dục hiện đại, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, tạo thời cơ để phát triển giáo
dục, đào tạo; tạo điều kiện để đổi mới căn bản, toàn diện nội dung, phương pháp
và hình thức tổ chức giáo dục, đổi mới quản lý giáo dục, đào tạo, tiến tới một
nền giáo dục, đào tạo tiên tiến, hiện đại đáp ứng nhu cầu của xã hội và từng cá
nhân người học. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020 với yêu cầu
tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng, cùng với Chiến lược phát
triển nhân lực giai đoạn 2011- 2020 và Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam
trong thời kỳ dân số vàng là tiền đề cơ bản để chúng ta thực hiện đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Tuy nhiên, bối cảnh mới cũng đặt ra nhiều thách thức mới đối với sự
nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo, như: khoảng cách phát triển kinh tế, khoảng
cách về giáo dục, đào tạo giữa nước ta và các nước ngày càng mở rộng; hội nhập
quốc tế và phát triển kinh tế thị trường làm nảy sinh những vấn đề mới, như
nguy cơ xâm nhập của văn hóa và lối sống không lành mạnh làm xói mòn dần


bản sắc văn hóa dân tộc, sự thâm nhập của các loại dịch vụ giáo dục, đào tạo


kém chất lượng từ bên ngoài có thể gây rủi ro lớn đối với giáo dục, đào tạo, sự
gia tăng khoảng cách giàu - nghèo giữa các nhóm dân cư, khoảng cách phát triển
giữa các vùng miền có nguy cơ dẫn đến tình trạng thiếu bình đẳng trong tiếp cận
giáo dục của người dân... Những vấn đề đó đang đặt ra yêu cầu cấp bách phải
đổi mới cả về triết lý, lý luận cũng như những giải pháp thực tiễn để phát triển
giáo dục, đào tạo. Nhu cầu phát triển nhanh giáo dục, đào tạo đáp ứng đòi hỏi
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức
và hội nhập quốc tế đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với phát triển giáo
dục, đào tạo, trong khi nguồn lực đầu tư cho giáo dục, đào tạo có hạn, tạo sức ép
lớn cho sự phát triển giáo dục, đào tạo.
Nghị quyết Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nguồn nhân
lực là yếu tố cấu thành quan trọng nhất của lực lượng sản xuất xã hội, quyết định
tiềm lực kinh tế, an ninh quốc phòng của một quốc gia. Trong các nguồn lực,
nguồn nhân lực được coi là nguồn lực chính chi phối quá trình phát triển kinh tế
- xã hội. Chính vì lẽ đó, công tác phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân
lực giáo dục được xem là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay.

2


PHẦN LÝ LUẬN
I. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG CÁC NĂM QUA:
1. Thực trạng:
Chất lượng nguồn nhân lực được tạo ra bằng cách nào? Lý luận và thực
tiễn đều khẳng định giáo dục, đào tạo là những nhân tố cơ bản nhất tạo nên chất
lượng nguồn nhân lực. Như vậy, giáo dục, đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực gắn bó chặt chẽ với nhau. Có thể nói giáo dục, đào tạo là một trong
những biện pháp cơ bản nhất để tạo chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời chất
lượng nguồn nhân lực cũng trở thành mục tiêu hàng đầu của giáo dục, đào tạo.
Không thể có một nguồn nhân lực chất lượng tốt nếu không thông qua giáo dục,

đào tạo và cũng không thể có sự nghiệp giáo dục, đào tạo mà lại không nhằm
vào việc giáo dục lòng yêu nước, phẩm chất đạo đức, trình độ học vấn, chuyên
môn nghiệp vụ và kỹ năng ứng dụng tri thức vào hoạt động thực tiễn... Đó chính
là những nhân tố tạo nên chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, đất nước ta
đang đứng trước một nghịch cảnh: Kinh tế phát triển mạnh và cơ hội đang đến
với đất nước rất lớn, nhưng giáo dục, đào tạo và vấn đề phát triển nguồn nhân
lực nói chung sau thời kỳ đạt được một số thành tựu ban đầu theo xu hướng phát
triển đại trà, hiện đang đi tới một “điểm nóng”, với nhiều hệ quả trầm trọng.
Trong phát triển con người và nguồn nhân lực, nhiều yếu kém và tiêu cực tích tụ
lâu năm đang dồn nén lại thành nguy cơ có thể làm cho đất nước bỏ lỡ cơ hội
lớn. Bản thân ngành giáo dục, đào tạo và nhìn chung là toàn hệ thống phát triển
nguồn nhân lực đang có nguy cơ rơi vào khủng hoảng: đào tạo nhiều mà dùng
được ít, số người được đào tạo thất nghiệp cao, chi phí của toàn xã hội quá lớn
so với những gì gặt hái được, có nhiều hậu quả lớn phải xử lý tiếp (ví dụ vấn đề
đào tạo lại, việc bố trí người không đúng việc, không chuẩn bị kịp cho các bước
phát triển tiếp theo của đất nước, phát sinh bộ máy cồng kềnh dẫn đến quan liêu,
tham nhũng...). Đất nước đứng trước tình hình: không đẩy nhanh phát triển giáo
dục, đào tạo thì thiếu nguồn nhân lực, đẩy nhanh theo hướng mà chúng ta đang
làm có nguy cơ dẫn tới đổ vỡ lớn hơn, hướng đúng là gì chưa rõ, ý kiến đang
còn rất khác nhau.
3


Kết quả điều tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2010 cho thấy cả nước
có tới 63% số sinh viên ra trường không có việc làm, 37% số còn lại có việc làm
thì hầu hết phải đào tạo lại và nhiều người không làm đúng ngành nghề được
đào tạo, trong khi đó nhiều doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp có FDI và
nhiều dự án kinh tế quan trọng khác rất thiếu nguồn nhân lực chuyên nghiệp.
Khoảng 2/3 số người có học vị tiến sĩ trong cả nước không làm khoa học mà
đang làm công tác quản lý; số bài báo khoa học được công bố hằng năm chỉ

bằng khoảng 1/4 của Thái Lan và bằng 0,00043% của thế giới, mặc dù số tiến sĩ
của ta hằng năm nhận bằng thường nhiều hơn Thái Lan, có năm cao gấp đôi…
Nguồn nhân lực nước ta đứng trước tình hình: trẻ (tính theo tuổi đời trung
bình - một ưu thế lớn), đông (một ưu thế khác, nước có dân số đứng thứ 13 trên
thế giới), nhưng tỷ lệ tính trên triệu dân của số người có nghề và có trình độ
chuyên môn rất thấp so với tất cả các nước trong ASEAN và so với Trung Quốc;
số cán bộ kỹ trị và trình độ quản lý cao rất ít so với dân số cũng như so với quy
mô nền kinh tế:
- Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học thì có 1,16 cán bộ tốt nghiệp
trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 4 và
10.
- Ở Việt Nam cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi con số đó
của thế giới là 100, của Trung Quốc là 140, mặc dù mức thu nhập quốc dân tính
theo đầu người của Trung Quốc khoảng gấp đôi của nước ta.
Tác động sâu xa và lâu dài về mặt văn hóa của những tiêu cực trong lĩnh
vực giáo dục là nhiều giá trị cao quý bị mai một, với nhiều di chứng khó sửa;
suy nghĩ lệch lạc về “cái học” trở thành hiện tượng xã hội phổ biến; tư tưởng
bằng cấp, tình trạng chạy trường chạy điểm, bằng thật học giả, gian lận trong thi
cử... tràn lan; bệnh hình thức và thành tích chủ nghĩa để lại nhiều hậu quả trầm
trọng; giác ngộ ý thức làm chủ bản thân và vai trò chủ nhân của đất nước bị hạn
chế; tình trạng dạy và học “nhồi sọ” cản trở đáng kể sự phát triển của mỗi cá
nhân cũng như của đất nước, chẳng những không khuyến khích tự do tư duy
sáng tạo mà còn ảnh hưởng đến khả năng đề kháng sự nô dịch sùng ngoại; trong
4


xã hội không hiếm tư tưởng “ăn đong” và tư tưởng làm thuê, không hiếm hiện
tượng vùi dập và bỏ phí người tài... Tất cả những yếu kém này vừa đang cản trở
khả năng phấn đấu của từng cá nhân, vừa tiếp tục khoét sâu các mặt yếu kém
của xã hội, của đất nước.

2. Nguyên nhân:
Nguyên nhân chính của tình trạng nêu trên có thể như sau:
Một là, không quan tâm và không kế thừa, phát huy những thành tựu giáo
dục của nước ta đã tích lũy được trước đổi mới cũng như những thành tựu của
thế giới.
Hai là, tiêu cực và chủ nghĩa cơ hội đã làm sai lệch những ý tưởng, những
mong muốn tốt đẹp dành cho phát triển con người và nguồn nhân lực. Sự ra đời
của phạm trù “xã hội hóa” với nội dung bị bóp méo theo khuynh hướng đẩy việc
phát triển con người và nguồn nhân lực ngày càng đi vào con đường thương mại
hóa, nhiều công việc thuộc lĩnh vực giáo dục và đào tạo trở thành hàng hóa và
dịch vụ kiếm lợi nhuận.
Ba là, không dự liệu được những khó khăn, mâu thuẫn gay gắt giữa một
bên là khả năng rất giới hạn của nguồn lực và một bên là đòi hỏi lớn của sự phát
triển. Đặc biệt là yêu cầu phát triển nguồn nhân lực ở một nước nghèo, đông dân
trước đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bốn là, đội ngũ không ít những người làm công tác lãnh đạo, quản lý giáo
dục, đào tạo các cấp, những người trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực giáo dục
đào tạo còn thiếu tri thức và tầm nhìn còn hạn chế, cộng với đạo đức nghề
nghiệp xuống cấp cho nên việc lãnh đạo và quản lý lĩnh vực phát triển giáo dục
và nguồn lực con người, nhìn chung còn dưới tầm so với đòi hỏi của nhiệm vụ.
Năm là, tác động của những yếu kém nằm trong những nguyên nhân tổng
hợp của thực trạng kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa của đất nước.
Việt Nam là một quốc gia rất chú ý đến các chính sách phát triển giáo dục
và có nhiều thành công hơn so với các nước trong khu vực về việc thiết lập hệ
thống giáo dục trên phạm vi cả nước. Quy mô giáo dục ngày càng mở rộng, hệ
5


thống giáo dục ngày càng đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, từ khi chuyển sang
kinh tế thị trường, giáo dục Việt Nam đang gặp phải những vấn đề rất đáng lo

ngại: Một là, quy mô mở rộng nhưng chất lượng lại không kiểm soát được; hai
là, mất cân đối nghiêm trọng trong các ngành học ở bậc đại học, giữa sinh viên
đại học, cao đẳng với học sinh học nghề; ba là, xu hướng thương mại hóa giáo
dục đã len lỏi vào các nhà trường, nhiều hiện tượng tiêu cực ở nhiều nơi, nhiều
cấp học đã xảy ra.
II. TÌNH HÌNH ĐỔI MỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC Ở NƯỚC TA NHỮNG
NĂM QUA:
Hơn 25 năm qua, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đạt được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Cùng với sự phát triển chung của
mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, lĩnh vực giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển
mạnh mẽ trên cả ba mặt: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Đầu tư cho giáo dục, đào tạo ngày càng tăng, trang thiết bị trường học được tăng
cường. Quy mô đào tạo không ngừng được mở rộng, trình độ dân trí được nâng
lên. Số học sinh trung cấp chuyên nghiệp, học nghề dài hạn và sinh viên đại học
tăng liên tục với mức trung bình 10%/năm. Chất lượng dạy nghề có nhiều
chuyển biến tích cực. Đổi mới giáo dục, đào tạo đang được tích cực triển khai ở
mọi cấp học, từ giáo dục mầm non, phổ thông, dạy nghề đến cao đẳng, đại học.
Việc xã hội hoá giáo dục và xây dựng xã hội học tập đã thu được kết quả bước
đầu. Nhiều trường dân lập, tư thục bậc đại học, trung cấp chuyên nghiệp, dạy
nghề, phổ thông và mầm non đã được thành lập và hoạt động bước đầu có hiệu
quả. Về thành tựu của phát triển giáo dục, đào tạo, Đại hội XI của Đảng đánh giá
"Đổi mới giáo dục đạt được một số kết quả bước đầu. Chi ngân sách nhà nước
cho giáo dục đào tạo trên 20% tổng chi ngân sách; việc huy động các nguồn lực
xã hội cho giáo dục, đào tạo, phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu vùng xa,
vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm. Quy mô giáo
dục tiếp tục được phát triển. Đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt
chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng, năm
2010 đạt 40% tổng số lao động đang làm việc"(1). Sự ổn định chính trị và những
6



thành quả phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã cải thiện đời sống nhân dân,
tạo điều kiện cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo phát triển. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự quan tâm của Quốc hội và sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và
chính quyền các cấp, đặc biệt là sự quan tâm, tham gia đóng góp của các đoàn
thể, tổ chức xã hội trong và ngoài nước, cùng với lòng yêu nước, yêu người, yêu
nghề, ý thức trách nhiệm, sự nỗ lực của đội ngũ nhà giáo và quyết tâm đổi mới
của ngành giáo dục đã phát huy mạnh mẽ truyền thống hiếu học của dân tộc để
tạo nên những thành quả giáo dục to lớn, góp phần nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững an
ninh, chính trị của đất nước.
Bên cạnh những thành tích và tiến bộ đã đạt được, giáo dục và đào tạo
nước ta những năm qua vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập kéo dài, rất chậm được
khắc phục. Trong đó, đáng quan tâm nhất là chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào
tạo thấp và công tác quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo còn nhiều yếu kém,
chưa theo kịp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất
nước. Văn kiện Đại hội XI của Đảng đánh giá "Chất lượng giáo dục và đào tạo
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao còn
hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải
quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa
dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu,
đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào
tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quản lý nhà nước về giáo dục còn bất
cập. Xu hướng thương mại hoá và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn
chậm, hiệu quả thấp đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội"(2).
Nguyên nhân của những yếu kém, bất cập kéo dài nêu trên có nhiều, trong
đó phải kể đến: trên thực tế chưa thực sự thấm nhuần và thể hiện đầy đủ quan
điểm “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”; tư duy về giáo dục, đào tạo
còn chậm đổi mới, chưa thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; chưa nhận thức đúng vai trò quyết định của đội
7


ngũ nhà giáo và sự cần thiết phải tập trung đổi mới quản lý nhà nước về giáo
dục, đào tạo. Mặt khác, trong quá trình hội nhập quốc tế, giáo dục và đào tạo
phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, bị chi phối bởi tâm lý khoa cử, sính bằng
cấp và chịu nhiều tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường, cũng như sức
ép khi nhu cầu học tập của nhân dân và đòi hỏi nâng cao chất lượng giáo dục,
đào tạo ngày càng cao, trong khi khả năng đáp ứng của ngành và trình độ phát
triển kinh tế của đất nước còn hạn chế. Không có quy hoạch phát triển nhân lực
của cả nước, của các ngành và địa phương làm căn cứ thực tiễn của việc xác
định mục tiêu, kế hoạch, quy mô, cơ cấu và chất lượng giáo dục, đào tạo.
Những yếu kém của giáo dục, đào tạo trên đây của nước ta, nếu không
sớm được khắc phục, không những sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền
vững của giáo dục, đào tạo, mà còn góp phần làm gia tăng nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
III. QUAN ĐIỂM VÀ CƠ SỞ ĐỂ TIẾN HÀNH ĐỔI MỚI CĂN BẢN,
TOÀN DIỆN GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO THEO NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI
CỦA ĐẢNG:
Đại hội XI của Đảng xác định "Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện
đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế
quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then
chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo
đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi
mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo
ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ
giữa nhà trường với gia đình và xã hội".
Những quan điểm chỉ đạo trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục,

đào tạo ở nước ta hiện nay: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo ở
nước ta hiện nay cần triển khai theo những quan điểm chỉ đạo chủ yếu sau:

8


Thứ nhất, phát triển giáo dục, đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và
của toàn dân, là quốc sách hàng đầu. Do vậy, phải tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, huy động cả hệ thống chính trị, phát huy đóng góp của mọi tầng lớp nhân
dân chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo;
Thứ hai, đổi mới giáo dục, đào tạo phải nhằm mục tiêu xây dựng nền giáo
dục có tính dân tộc, hiện đại, quán triệt nguyên lý học đi đôi với hành, lý luận
gắn liền với thực tiễn, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội;
đáp ứng nhu cầu nhân lực phát triển đất nước, nhất là nhân lực chất lượng cao,
góp phần xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội bình đẳng để mọi người dân đều
có thể đi học và học tập suốt đời;
Thứ ba, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển; đa dạng hóa các nguồn
lực đầu tư cho giáo dục, đào tạo; ưu tiên ngân sách nhà nước dành cho phát triển
giáo dục, đào tạo ở vùng khó khăn, cho giáo dục phổ cập và đào tạo nhân lực
chất lượng cao. Phát triển giáo dục, đào tạo phải gắn với phát triển kinh tế - xã
hội, củng cố quốc phòng và an ninh, với tiến bộ khoa học - công nghệ và hội
nhập quốc tế;
Thứ tư, mở rộng hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo phải trên cơ sở giữ
gìn và phát huy bản sắc dân tộc, giữ vững độc lập, chủ quyền, định hướng xã hội
chủ nghĩa. Khuyến khích các cơ sở giáo dục, đào tạo trong nước hợp tác với các
đối tác nước ngoài trong đào tạo nhân lực và nghiên cứu khoa học, chuyển giao
công nghệ, nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản
lý giáo dục, đào tạo.
Những cơ sở để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo ở nước ta
hiện nay:

Quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục, đào tạo; về
sự nghiệp trồng người là căn cứ, là cơ sở hàng đầu cho việc đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết XI của Đảng. Triết
lý, tư tưởng giáo dục, đào tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh chứa đựng tinh hoa của
giáo dục thế giới, như triết học giáo dục đạo làm người của Khổng tử, triết học
xã hội (giáo dục tinh thần công dân) từ thời cổ đại, giáo dục nhân văn-từ thời
9


Phục hưng, thời phương Tây bắt đầu tiến hành công nghiệp hoá (từ thế kỷ
XVIII), giáo dục tự nhiên, giáo dục kỹ thuật tổng hợp, giáo dục thực hành.
Trong triết lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể chỉ ra những nội dung
cơ bản sau: chống chính sách ngu dân; một dân tộc dốt là một dân tộc yếu; xây
dựng nền giáo dục của một nước độc lập; đào tạo những công dân hữu ích cho
nước nhà; phát triển các năng lực sẵn có của trẻ em; trọng dụng nhân tài; giáo
dục, dạy làm người; dạy tốt, học tốt; học đi đôi với hành. Những quan điểm, tư
tưởng nêu trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục, đào tạo là cơ sở, kim chỉ
nam cho việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển giáo dục, đào tạo của
Đảng và Nhà nước ta, có ý nghĩa thời sự đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục, đào
tạo ở nước ta hiện nay.
Yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội là cơ sở quan trọng để tiến hành
đổi mới giáo dục, đào tạo. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo phải
gắn chặt với quá trình chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế. Mục đích trực tiếp
của giáo dục, đào tạo là tạo ra nguồn lực lao động và quản lý phù hợp với quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Giáo dục là nhân tố quan trọng
nhất bảo đảm để một quốc gia phát triển kinh tế theo con đường “phát triển rút
ngắn”. Chất lượng giáo dục, đào tạo phải đặt bên cạnh yêu cầu nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực và phát triển khoa học công nghệ trong thời đại kinh tế tri
thức đang diễn ra trên phạm vi toàn thế giới.
Xu thế phát triển của thời đại, nhu cầu học tập của nhân dân, truyền thống

giáo dục, đào tạo của đất nước là cơ sở không thể bỏ qua khi tiến hành đổi mới
giáo dục, đào tạo của nước ta hiện nay. Do vậy, đổi mới giáo dục, đào tạo ở nước
ta cần phải nắm bắt được xu thế phát triển của thời đại, yêu cầu của đất nước,
nhu cầu của nhân dân, truyền thống hiếu học, trọng học của dân tộc; phải tiếp
biến và phát huy được truyền thống lịch sử giáo dục Việt Nam, nhất là những
thành tựu của nền giáo dục, đào tạo cách mạng từ năm 1945 đến nay.
Các giải pháp đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục được hiểu là đổi mới hệ thống giáo
dục (cả về hệ thống cơ cấu mục tiêu giáo dục, hệ thống mạng lưới trường lớp,
10


quy mô của hệ thống giáo dục, chất lượng của hệ thống giáo dục, các chủ trương
của giáo dục Việt Nam); đổi mới về mục tiêu, nội dung, chương trình, sách giáo
khoa, phương pháp; đổi mới các cấp bậc học và các loại hình giáo dục; đổi mới
cơ sở vật chất-kỹ thuật của hoạt động giáo dục, đào tạo; đổi mới quá trình giáo
dục; đổi mới nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và đội ngũ cán bộ
quản lý giáo dục.
Trên thực tế đây là một cuộc cách mạng giáo dục trong tất cả hệ thống
giáo dục quốc dân và tất cả các bộ phận cấu thành của hệ thống ấy. Khâu then
chốt của tiến trình đổi mới ấy, được Đại hội XI của Đảng xác định là đổi mới cơ
chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý…
Để thực hiện thành công đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo
nước ta theo tinh thần Đại hội XI của Đảng, cần thực hiện một số giải pháp chủ
yếu sau:
Thứ nhất, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học theo định hướng
"coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học của học sinh” ở tất cả các cấp. Đối với
bậc đại học là tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát huy tư duy sáng
tạo, rèn kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng. Trong
quá trình giáo dục phải kiên trì nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm. Việc thay

đổi phương pháp dạy và học là một công việc to lớn, khó khăn, phức tạp, tác
động đến tất cả các khâu từ nội dung, chương trình, sách giáo khoa, trình độ đào
tạo, thi cử, đến đánh giá, kiểm định chất lượng. Đây là công việc liên quan tới
tất cả các bộ phận cấu thành của giáo dục nên cần có sự đổi mới đồng bộ từ nội
dung đến phương pháp để đạt được mục đích đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục, đào tạo.
Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Giáo viên-người thày
đóng vai trò quyết định đối với thành bại của sự nghiệp giáo dục, đào tạo ở mọi
thời đại. Vì vậy, cần nhanh chóng khắc phục các yếu kém trong bố trí, sắp xếp
và sử dụng để sớm xây dựng được đội ngũ nhà giáo đủ về số lượng, đồng bộ về
cơ cấu và bảo đảm các yêu cầu về phẩm chất, đạo đức, năng lực chuyên môn
phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục. Mặt khác, phải có chế độ chính sách, đặc
11


biệt là chính sách về lương, thưởng, thăng tiến, phát triển chuyên môn, đánh giá
đãi ngộ phù hợp để tạo động lực và hiệu quả làm việc của đội ngũ giáo viên.
Mặc dù, Đảng và Nhà nước đã cải tiến rất nhiều chế độ chính sách cho giáo
viên, nhưng các chính sách, chế độ hiện hành đối với giáo viên vẫn còn nhiều
bất cập, dẫn đến hệ quả là nhiều giáo viên không thể toàn tâm, toàn ý cho sự
nghiệp giáo dục, đào tạo, sự nghiệp trồng người của đất nước được.
Thứ ba, về đổi mới quản lý giáo dục cả về cán bộ quản lý và cơ chế quản
lý. Cần tổ chức lại hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo;
nâng cao hiệu lực chỉ đạo tập trung thống nhất của Chính phủ trong việc thực
hiện chiến lược, chính sách phát triển giáo dục; tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu hệ
thống giáo dục quốc dân và phát triển mạng lưới trường lớp, cơ sở giáo dục theo
mô hình giáo dục mở, mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào
tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học và ngành học; đổi mới căn bản về tư
duy, về cơ chế và phương thức quản lý giáo dục theo hướng phân cấp một cách
hợp lý nhằm giải phóng và phát huy tối đa tiềm năng, sức sáng tạo, tính chủ

động cùng tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp và mỗi cơ sở giáo dục, giải quyết
một cách có hiệu quả những bất cập của toàn hệ thống trong quá trình phát triển.
Đổi mới căn bản chính sách đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ quản lý giáo dục
theo hướng coi trọng phẩm chất và năng lực hoạt động thực tiễn.
Thứ tư, hoàn thiện và tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật về giáo dục, đặc
biệt là việc xây dựng luật về giáo dục đại học. Thừa nhận, đối xử bình đẳng với
loại hình cơ sở giáo dục là công lập và tư thục, xây dựng mạng lưới giáo dục
theo hướng phân tầng để thích ứng với đòi hỏi thực tiễn hiện nay của phát triển
kinh tế - xã hội trong cả nước, cũng như từng địa phương, từng khu kinh tế, đặc
biệt phân tầng trong giáo dục đại học.
Thứ năm, đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, huy động mọi nguồn lực để phát
triển sự nghiệp giáo dục và xây dựng xã hội học tập. Chuyển từ chủ trương
“giáo dục cho mọi người sang chủ trương mọi người phải học tập suốt đời”. Xã
hội hoá giáo dục vừa là mục tiêu vừa là một trong những giải pháp chủ yếu để
phát triển giáo dục, đào tạo. Để làm được việc này trước hết cần mở rộng cơ hội
12


học tập cho mọi người thông qua việc phát triển hình thức giáo dục thường
xuyên. Mở rộng và hoàn thiện các hình thức huy động cộng đồng tham gia quản
lý nhà trường và giải quyết những vấn đề quan trọng của giáo dục... tạo điều
kiện để các nhà giáo, nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội đóng góp công sức, trí
tuệ vào quá trình ra quyết sách và xây dựng chính sách, xây dựng chương trình
sách giáo khoa, đánh giá chất lượng giáo dục, giảng dạy, nghiên cứu tại các nhà
trường và cơ sở giáo dục. Tiếp tục mở rộng các trường ngoài công lập, thực hiện
chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng, tạo điều kiện cho loại hình các
trường này phát triển. Cùng với việc huy động sự đóng góp của nhân dân chủ
yếu là đối với các gia đình có điều kiện và ở các khu vực thuận lợi, cần bổ sung
hoàn chỉnh các chính sách hỗ trợ đối với học sinh nghèo và con em gia đình
chính sách, con em gia đình nghèo học giỏi. Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư ngân

sách cho giáo dục, đào tạo, điều chỉnh cơ cấu phân bổ theo hướng không dàn trải
và dành ưu tiên cho đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng khó khăn.
Thứ sáu, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp giáo dục giữa
nhà trường, gia đình và xã hội nhằm bảo đảm chất lượng và hiệu quả cả về dạy
chữ, dạy nghề, dạy người. Ngăn chặn và chống lại sự xâm nhập của các tệ nạn
xã hội, hiện tượng tiêu cực vào nhà trường. Khắc phục tình trạng chúng ta mới
chỉ quan tâm đến dạy chữ, mà chưa quan tâm đến dạy người. Giáo dục gia đình
không nên khoán hết cho xã hội và nhà trường. Thực sự coi trọng giáo dục chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách của Nhà nước nhằm đào tạo những con người mới xã hội chủ nghĩa, vừa
hồng vừa chuyên.
Thứ bảy, đẩy mạnh công tác nghiên cứu đổi mới giáo dục, đào tạo; giải
quyết tốt những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong quá trình đổi mới giáo
dục, đào tạo. Phải thực hiện lộ trình đổi mới hệ thống giáo dục từ việc có kế
hoạch tổ chức nghiên cứu, sau đó đưa ra Quốc hội quyết định và Bộ Giáo dục và
Đào tạo thực thi. Thực hiện được lộ trình đó mới có thể tiếp tục xây dựng và
phát triển lý luận về nền giáo dục Việt Nam giàu tính nhân dân, khoa học, dân
tộc, hiện đại trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên
13


cứu bổ sung hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách giáo dục, đào tạo của
Đảng và Nhà nước, đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục. Thường xuyên
đánh giá tác động của các chủ trương, chính sách, các giải pháp đổi mới giáo
dục, đào tạo. Làm sao để giáo dục tiến kịp với yêu cầu của thời đại và không lạc
hậu so với tiến trình đổi mới kinh tế, văn hoá, xã hội.
Thứ tám, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự
giám sát của các đoàn thể nhân dân đối với tiến trình đổi mới giáo dục, đào tạo.
Các cấp uỷ Đảng từ Trung ương đến địa phương tăng cường lãnh đạo công tác
đổi mới giáo dục, đào tạo; quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo hướng dẫn giúp đỡ các cơ

quan giáo dục trong quá trình đổi mới giáo dục, đào tạo. Quốc hội, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể tăng cường công tác lập pháp, giám sát và phản
biện về giáo dục, nhằm thúc đẩy việc đổi mới giáo dục đi đúng hướng.
Như vậy, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo đóng một vai trò
quan trọng trong việc vận động và phát triển của đất nước, là một trong những
nhân tố cơ bản quyết định tương lai của dân tộc, là chìa khoá để mở ra tiềm năng
cho sự phát triển bền vững của đất nước. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục
để đào tạo những người lao động có tri thức, có tư duy độc lập, kết hợp tri thức
khoa học kỹ thuật, công nghệ với tri thức khoa học xã hội nhân văn, phát triển tự
do và toàn diện, tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới thành công và hoàn
thành từng bước mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
IV. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC VÀ NGUỒN NHÂN LỰC GIÁO DỤC HIỆN NAY:
Để giải quyết những vấn đề này, những năm tới chúng ta cần thực hiện tốt
một số giải pháp sau đây:
Thứ nhất, tăng cường đầu tư ngân sách nhà nước cho phát triển giáo dục.
Với quan điểm giáo dục và đào tạo là một trong những quốc sách hàng đầu,
những năm qua Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào
tạo. Quyết định số 579/QĐ-TTg, ngày 19/4/2011, của Thủ tướng Chính phủ về
14


phê duyệt chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 đã chỉ
rõ: giải pháp cho phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020 là tăng đầu tư phát
triển để hiện đại hóa có trọng tâm, trọng điểm cho hệ thống đào tạo nhân lực,
xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung chi để
thực hiện các nhiệm vụ, chương trình, dự án đào tạo nhân lực theo mục tiêu trên.
Đẩy mạnh xã hội hóa để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển
nhân lực cũng là một trong những giải pháp nhằm phát triển nhân lực trong giai

đoạn sắp tới.
Đối với việc huy động vốn từ người dân, Nhà nước có cơ chế, chính sách
mạnh để huy động tối đa các nguồn vốn của người dân đầu tư và đóng góp cho
phát triển nguồn nhân lực bằng các hình thức: trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất, kỹ thuật phát triển đào tạo nhân lực, góp vốn, mua công trái, hình thành
các loại quỹ khuyến học của cộng đồng. Bên cạnh đó, tạo điều kiện và có cơ
chế, chính sách mạnh để khuyến khích các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành
phần kinh tế tăng đầu tư kinh phí để xây dựng, phát triển hệ thống đào tạo ngay
tại doanh nghiệp, tiến tới doanh nghiệp phải trở thành lực lượng chủ đạo về đào
tạo nghề.
Ngoài ra, với việc huy động các nguồn vốn nước ngoài, cần tăng cường
thu hút các nguồn vốn nước ngoài và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ODA,
viện trợ của các tổ chức, cá nhân nước ngoài để phát triển nhân lực.
Căn cứ vào nhu cầu phát triển nhân lực nói chung, quy mô đào tạo nghề
nói riêng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự báo tổng vốn đầu tư cho phát triển nhân
lực cả giai đoạn 2011 - 2020 ước tính khoảng 2.135 nghìn tỉ đồng, chiếm 12%
tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong đó, giai đoạn 2011 - 2015 là 800 nghìn tỉ
đồng, chiếm gần 13% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội và giai đoạn 2016 - 2020 là
1.335 nghìn tỉ đồng, chiếm khoảng 12% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội. Tổng
vốn đầu tư trực tiếp cho giáo dục, đào tạo và dạy nghề giai đoạn 2011 - 2020 dự
kiến khoảng 1.225 nghìn - 1.300 nghìn tỉ đồng; trong đó giai đoạn 2011 - 2015
là 475 nghìn - 500 nghìn tỉ đồng và giai đoạn 2016 - 2020 là 750 nghìn - 800
nghìn tỉ đồng.
15


Tăng cường đầu tư đi đôi với phân bổ và sử dụng ngân sách đầu tư hợp lý.
Các nước Nhật Bản, Hàn Quốc... chú ý đầu tư cao cho giáo dục phổ thông,
ngược lại Việt Nam lại đầu tư nhiều hơn cho giáo dục đại học. Sự mất cân đối
trong đầu tư còn thể hiện rõ cả ở các vùng, miền, đặc biệt là ở nông thôn, vùng

sâu, vùng xa mức đầu tư còn rất thấp, dẫn đến tình trạng tái mù chữ và trẻ em
tiểu học bỏ học tăng. Chủ trương phấn đấu nâng cao mức đầu tư cho giáo dục là
rất đúng đắn, vì đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho phát triển. Nhiều nhà
khoa học đã chứng minh rằng, không có hình thức đầu tư nào mang lại nguồn lợi
lớn như đầu tư cho giáo dục. Bởi lẽ, lực lượng lao động có chuyên môn cao sẽ
tạo ra năng suất lao động cao hơn, chất lượng hàng hóa và hàm lượng chất xám
trong hàng hóa tăng cao, tạo ra giá trị gia tăng xuất khẩu.
Thứ hai, nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp học. Tiềm năng
của người Việt Nam là rất lớn, nhưng chất lượng giáo dục từ khi chuyển sang
kinh tế thị trường có sự giảm sút. Đặc biệt là giáo dục đại học và cao đẳng đã
không còn là động lực để tạo cơ hội có việc làm, không thích ứng với đòi hỏi
ngày càng khắt khe của thị trường lao động. Tỷ lệ sinh viên Việt Nam tốt nghiệp
không có việc làm khá cao, khoảng 63%. Trong số sinh viên tìm được việc làm
sau khi ra trường thì cũng chỉ gần 1/3 là làm đúng ngành nghề được đào tạo.
Chất lượng giáo dục thấp do đội ngũ giáo viên các cấp vừa thiếu, vừa yếu. Theo
số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tỷ lệ giáo viên phổ thông khá chỉ đạt 15%,
còn lại là trung bình và kém. Tỷ lệ giáo viên có học vị tiến sĩ ở các trường đại
học và cao đẳng chỉ khoảng hơn 15%, thấp hơn các nước trong khu vực (tỷ lệ
này ở các nước trong khu vực là 30%). Mặt khác, chất lượng giáo dục thấp còn
do thiếu giáo trình, sách giáo khoa, thiếu trang thiết bị phục vụ học tập, thiếu các
phòng thí nghiệm và các cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết khác. Hiện nay, công
nghệ giáo dục trên thế giới luôn phát triển và đổi mới. Nếu những điều kiện cơ
sở vật chất kỹ thuật, máy móc và thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập ở nước ta
được tăng cường thì chắc chắn chất lượng giáo dục, đào tạo sẽ được nâng cao
hơn nhiều. Vì vậy, quan tâm và có chính sách động viên thích đáng đối với đội
ngũ giáo viên, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, tăng cường
16


trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật... là biện pháp quan trọng để nâng cao chất

lượng giáo dục.
Thứ ba, điều chỉnh cơ cấu giáo dục đào tạo, từng bước xác lập sự cân đối
giữa các ngành nghề đào tạo. Sự mất cân đối trong cơ cấu đào tạo, trước hết, thể
hiện ở quy mô đào tạo đại học, cao đẳng thì mở rộng, trong khi đó đào tạo nghề
lại thu hẹp. Hai là, có sự khác biệt lớn giữa số lượng sinh viên theo học các
ngành nghề: văn hóa, nghệ thuật chiếm 1,3%, khoa học, công nghệ và kỹ thuật
15,2%, kinh tế và luật lên tới 42,78%. Trong khi cử nhân kinh tế, luật đang thừa
thì một loạt trường đại học vẫn tiếp tục thành lập các khoa quản trị kinh doanh
làm cho tình trạng mất cân đối càng nghiêm trọng hơn. Hiện tại, nước ta đang
thiếu rất nhiều kỹ sư khoa học, kỹ thuật, cán bộ khoa học cơ bản - lực lượng trực
tiếp ảnh hưởng đến quá trình tiếp thu công nghệ. Điều đó gây khó khăn cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực tế của các nước ASEAN
cho thấy, do thiếu đội ngũ kỹ sư, nhiều nhà đầu tư nước ngoài từ Nhật Bản, Hàn
Quốc đã rút vốn hoặc đình chỉ các dự án đầu tư. Điều chỉnh cơ cấu giáo dục, đào
tạo là việc cần làm ngay. Nếu không, áp lực về việc làm của lao động qua đào
tạo vốn đã gay gắt sẽ càng trở nên gay gắt hơn dẫn đến tình trạng đầu tư ngân
sách cho giáo dục thì cứ tăng, nhưng chất lượng giáo dục lại kém hiệu quả.
Thứ tư, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài là một khâu quan trọng trong chiến
lược phát triển giáo dục. Chính sách của Đảng và Nhà nước ta vẫn coi người tài
là nguyên khí quốc gia, nhưng từ chính sách đến việc làm cụ thể trên thực tế vẫn
còn một khoảng cách xa. Một số nhà khoa học sau khi có học vị cao đã tìm đến
một vị trí khác trong xã hội, sau đó rời bỏ khoa học, rời bỏ chuyên môn được
đào tạo. Cần có sự thay đổi trong cơ chế, chính sách để phát hiện người tài, đào
tạo, bồi dưỡng họ, tạo điều kiện để họ cống hiến cho đất nước. Các nước như
Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc gần đây do biết sử dụng nhân tài nên đã có
được vị thế của những nền kinh tế hùng mạnh trên thế giới. Giáo dục, đào tạo
chính là một trong những cơ chế quan trọng góp phần chọn ra người tài, đào tạo
bồi dưỡng họ từ đó mà sử dụng nhân tài phát triển đất nước.

17



KẾT LUẬN
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra yêu cầu
bức thiết đối với việc nâng cao chất lượng và số lượng nguồn nhân lực. Trên
thực tế, những giải pháp phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia có thể có
những điểm khác nhau. Song, vấn đề cơ bản nhất mà hầu như tất cả các nước
đều dành sự quan tâm đặc biệt trong chính sách phát triển nguồn nhân lực là
phát triển giáo dục, đào tạo.
Nguồn nhân lực là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với
phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước. Nói đến nguồn nhân lực, người ta
thường quan tâm đồng thời đến cả hai yếu tố chất lượng và số lượng, trong đó
đặc biệt quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực. Những yếu tố nào tạo nên
chất lượng nguồn nhân lực đang là vấn đề rất được quan tâm hiện nay ? Trên
thực tế có nhiều cách tiếp cận và phân tích nội dung chất lượng nguồn nhân lực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: con người nếu chỉ có phẩm chất đạo đức
tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, mà thiếu tri thức, kiến thức khoa học, tức là có
đức mà không có tài, thì cũng chẳng khác gì ông Bụt ngồi trên tòa sen, không
làm điều gì xấu nhưng cũng chẳng làm được việc gì có ích cho đời. Tri thức, trí
tuệ thực sự là yếu tố thiết yếu của mỗi con người, bởi vì, tất cả những gì thúc
đẩy con người hành động đều phải thông qua trí tuệ của họ. Sự yếu kém về trí
tuệ sẽ là lực cản dẫn đến sự thất bại trong hoạt động của con người.
Nguồn nhân lực chất lượng cao của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
phải là “những con người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao
động, về tính tích cực chính trị - xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng”. Việc
xác lập các chuẩn mực, định hướng các giá trị xã hội để xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước là hết sức cần thiết. Chìa khóa vạn năng để phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao chính là nâng cao giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ
chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại

hóa, xã hội hóa”, chấn hưng nền giáo dục quốc dân.
18


19



×