Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tiểu luận tốt nghiệp đại học môn Văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.29 KB, 29 trang )

LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian nghiên cứu miệt mài, nghiêm túc, cuốn tiểu luận của tôi đã hoàn
thành. Bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm,
giúp đỡ của mọi người. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu
sắc đến PGS.TS Đỗ Hải Phong, người thầy đã tận tình chỉ bảo, động viên, khích
lệ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo của trường Đại học
sư phạm Hà Nội.
Xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp đang giảng dạy tại trường
THCS Nam Cao đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình triển khai đề tài.
Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè đã dành cho tôi
sự quan tâm khích lệ và chia sẻ t r o n g s u ố t t h ờ i g i a n h ọ c t ậ p v à n g h i ê n cứ u .
Tuy nhiên, do điều kiện về thời gian và khả năng của bản thân có hạn nên
bài tiểu luận cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nam, ngày 10 tháng 03 năm 2020
Người viết

MỞ ĐẦU
1


1. Lý do chọn đề tài
Văn chương là một bộ môn nghệ thuật có đặc thù riêng không giống với
bất kỳ ngành khoa học nào. Văn chương có khả năng bồi dưỡng cho học sinh
những năng lực và năng khiếu thẩm mỹ, nhận thức thẩm mỹ góp phần xây dựng
nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa, bồi dưỡng tâm hồn tư tưởng, tình cảm
cho học sinh. Nhờ có văn chương mà đời sống tinh thần của con người trở nên
phong phú, tinh tế, bớt chai sạn, thờ ơ trước những số phận bất hạnh, cảnh đời éo
le đang sống xung quanh mình.


Tiếp nhận tác phẩm văn học trong thời đại ngày nay càng trở nên quan trọng,
khi các em học sinh ngày càng chán học văn, sợ học văn các em thích cái hiện
tại, cái mới nhưng lại không thích cái đã qua, không có những rung động trước
một bài thơ hay, một câu chuyện hấp dẫn hay một bi kịch của nhân vậtVăn
học sẽ bồi đắp cho học sinh lòng yêu nước, trân trọng những giá trị truyền thống, biết
yêu thương và chia sẻ như Macxim Gorki đã nói: "Văn học là nhân học".
Văn học ở mỗi một giai đoạn lại có những đặc điểm riêng. Văn học Trung
Đại là sản phẩm tinh thần của những con người thời đại ấy, in đậm tư tưởng, suy
nghĩ của họ. Cho nên để các em học sinh có thể học văn học Trung Đại là một
thách thức lớn.
Ở nước ta công cuộc đổi mới phương pháp dạy học đã và đang được tiến
hành. Việc dạy học Ngữ Văn cùng không nằm ngoài quy luật đó. Tuy nhiên làm
thế nào để đổi mới phương pháp dạy học Văn là một bài toán khó để giúp học
sinh có năng lực tiếp nhận một tác phẩm văn học một cách khoa học. Vì vậy đổi
mới phương pháp dạy và học Ngữ Văn phải nhằm giúp các em tìm ra kỹ năng tìm
hiểu, phân tích, phát hiện ra những giá trị của tác phẩm.
Mỗi tác phẩm văn học đều chịu sự ảnh hưởng của thi pháp tác giả và
tồn tại dưới một hình thức nhất định. Như vậy để đọc hiểu một tác phẩm cần phải
khám phá tầng nghĩa sâu của tác phẩm. Tuy nhiên, trong giảng dạy hiện nay việc
dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh đang được áp dụng rộng rãi
trong các trường phổ thông. Trong chương trình trung học cơ sở, số lượng tác
phẩm của Bà Huyện Thanh Quan ít nhưng các tác phẩm này có giá trị lớn trong
văn học trung đại. Nhắc đến nhà thơ tài danh này ta không thể không nhắc đến
tác phẩm: Qua Đèo Ngang. Tuy được đưa vào chương trình từ lâu nhưng việc
dạy học tác phẩm này vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt theo định hướng
phát triển năng lực học sinh, vấn đề dạy học bài đó cần phải đổi mới. Bản thân tôi
muốn khám phá cái hay, cái đẹp trong sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan qua
tác phẩm Qua Đèo Ngang trong chương trình Ngữ Văn lớp 7 tập. Tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: "Dạy học bài thơ "Qua Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh
Quan theo định hướng phát triển năng lực học sinh". Với đề tài này tôi muốn

2


tìm ra cách dạy thích hợp mang tính khoa học và nghệ thuật góp phần nâng cao
hiệu quả một giờ giảng dạy văn chương, hình thành khả năng cảm thụ văn chương
một cách toàn diện. Từ đó bồi dưỡng cho học sinh tình yêu đối với môn học này.
Tôi mong muốn đề tài sẽ góp một phần nhỏ vào công cuộc đổi mới phương
pháp dạy học hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Đề tài: "Dạy học bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan
theo định hướng phát triển năng lực học sinh " được tôi xem xét và nghiên cứu
lịch sử vấn đề theo hai hướng chính sau:
Thứ nhất: tìm hiểu những tài liệu liên quan dạy học định hướng phát
triển năng lực
Thứ hai: tìm hiểu các tài liệu liên quan đến con người và sự nghiệp sáng
tác của Bà Huyện Thanh Quan.
2.1. Dạy học định hướng phát triển năng lực
Việc dạy học định hướng phát triển năng lực được thể hiện ở trong các
thành tố quá trình dạy học như sau:
Về mục tiêu dạy học: Ngoài các yêu cầu về mức độ như nhận biết,
tái hiện kiến thức cần có những mức độ cao hơn như vận dụng kiến thức
trong các tình huống, các nhiệm vụ gắn với thực tế. Các mục tiêu này đạt
được thông qua các hoạt động trong và ngoài nhà trường.
Về phương pháp dạy học: Ngoài cách dạy học thuyết trình cung cấp
kiến thức cần tổ chức hoạt động dạy học thông qua trải nghiệm, giải quyết
những nhiệm vụ thực tiễn. Như vậy thông thường, qua một hoạt động học
tập, học sinh sẽ được hình thành và phát triển không phải một loại năng
lực mà là được hình thành đồng thời nhiều năng lực.
Về nội dung dạy học: Cần xây dựng các hoạt động, chủ đề, nhiệm
vụ đa dạng gắn với thực tiễn.

Về kiểm tra đánh giá: Về bản chất đánh giá năng lực cũng phải
thông qua đánh giá khả năng vận dụng kiến thức và kỹ năng thực hiện
nhiệm vụ của HS trong các loại tình huống phức tạp khác nhau. Trên cơ
sở này, các nhà nghiên cứu ở nhiều quốc gia khác nhau đề ra các chuẩn
năng lực trong giáo dục tuy có khác nhau về hình thức, nhưng khá tương
đồng về nội hàm. Trong chuẩn năng lực đều có những nhóm năng lực
chung. Nhóm năng lực chung này được xây dựng dựa trên yêu cầu của
nền kinh tế xã hội ở mỗi nước. Trên cơ sở năng lực chung, các nhà lí luận
dạy học bộ môn cụ thể hóa thành những năng lực chuyên biệt.
Nói cách khác: Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực
không chỉ chú ý tích cực hoá HS về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện
3


năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề
nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng
cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ GV- HS theo hướng cộng tác
có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập
những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các
chủ đề học tập phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức
hợp. Theo quan điểm phát triển năng lực, việc đánh giá kết quả học tập không
lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm của việc đánh
giá. Đánh giá kết quả học tập cần chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức
trong những tình huống ứng dụng khác nhau.
Vì vậy để áp dụng phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng
lực vào dạy học đã được các ngành nghiên cứu lý luận dạy học, các nhà giáo
chú ý quan tâm ở những mức độ khác nhau. Trong đó phải kể đến một số tác giả
nghiên cứu phương pháp dạy học Ngữ Văn:
Vấn đề giảng dạy tác phẩm theo loại thể (Trần Thanh Đạm- chủ biên),
Mấy vấn đề phương pháp giảng dạy- nghiên cứu Văn học dân gian (Hoàng Tiến

Tựu), Mấy vấn đề phương pháp dạy thơ văn cổ Việt Nam (Nguyễn Sĩ Cẩn), Tác
phẩm trữ tình và phương pháp giảng dạy (Nguyễn Thanh Hùng), Phân tích tác
phẩm văn học từ góc độ thi pháp (Nguyễn Thị Dư Khánh)Các công trình này đều
chủ yếu giới thiệu cách vận dụng đặc trưng thi pháp thể loại, thể tài vào phân tích
hình tượng, kết cấu, ngôn ngữ, để làm sáng tỏ tư tưởng chủ đề và giá trị nghệ
thuật của tác phẩm khi giảng văn. Các tác giả đều nêu lên những phương pháp,
giảng dạy cụ thể như: đọc, phân tích, giảng giải, rút ra các khâu, các bước trong
quá trình tìm hiểu, phân tích một tác phẩm thuộc thể loại nhất định.
2.2. Bà Huyện Thanh Quan.
Bà Huyện Thanh Quan nhà thơ nữ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch
sử văn học Việt Nam. Bà sáng tác không nhiều chỉ có sáu bài thơ: Qua Đèo
Ngang, Chùa Trấn Bắc, Thăng Long hoài cổ, Cảnh chiều hôm, Chiều hôm nhớ
nhà, Cảnh thu những sáng tác ấy đã thể hiện một phong cách thơ độc đáo. Qua
quá trình phân tích tổng hợp chúng tôi có thể kể đến những công trình nghiên
cứu về con người và sự nghiệp sáng tác của Bà.
GS Phạm Thế Ngũ trong cuốn Việt Nam Văn học sử giản ước tân biên
quyển hai (Quốc học Tùng thư xuất bản) đã nhận xét thơ của Bà thường hướng
về quá khứ nhưng có lẽ quá khứ ấy không phải Bà đã từng trải qua và biết tường
tận về nó nhưng đó là quá khứ của đất nước, gia đình. Thơ của Bà cũng giống
như bao thi sĩ thời bấy giờ không có tính cách chính trị mà có tính cách tâm tình.
Trong cuốn Từ điển văn học NXB Thế Giới, 2004, tr75 cũng nhận thấy thơ của
Bà không phải là cảnh mà là tình. Thơ Bà luôn nhìn về quá khứ vàng son một đi
4


không trở lại. Bà là một nhà thơ hoài cổ. GS Phạm Thế Ngũ đã khẳng định tài
năng thơ của Bà "Thơ Đường trước Bà đã làm vô số, sau Bà cũng làm vô số.
Nhưng trước cũng như sau, có lẽ không ai vượt được nữ sĩ Thanh Quan".
Nhìn chung các công trình nghiên cứu cũng như chuyên luận đều mang
tính khoa học và góp phần làm sáng lên giá trị nghệ thuật, giá trị nội dung trong

thơ Bà Huyện Thanh Quan. Ở đó con người và tác phẩm được khẳng định và
phân tích. Đó cũng là cơ sở để chúng tôi tham khảo tiếp tục triển khai đi sâu
nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra một hướng giảng dạy mới nâng cao chất lượng
dạy và học bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.
3.Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích của tiểu luận khoa học này là làm sáng tỏ vấn đề dạy học theo định
hướng phát triển năng lực học sinh. Trên cơ sở một số tiền đề lí luận để đề xuất
các biện pháp dạy học bài thơ Qua Đèo Ngang góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả giờ dạy học tác phẩm văn chương trong trường trung học cơ sở đồng thời
rèn cho học sinh kỹ năng đọc - hiểu các văn bản văn học. Để thực hiện mục đích
trên chúng tôi đề ra cho mình những nhiệm vụ cụ thể sau:
Xác lập cơ sở lí thuyết cho vấn đề
Xác lập cơ sở tư liệu cho bài học
Định hướng dạy học bài thơ: “ Qua Đèo Ngang”
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất: Nghiên cứu một số tiền đề lý luận về đổi mới phương pháp
dạy học bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan ở trường Trung học
cơ sở.
Thứ hai: Khảo sát tình hình dạy học bài thơ: Qua Đèo Ngang của Bà
Huyện Thanh Quan ở trường Trung học cở sở để làm cơ sở đề xuất cách dạy học
bài thơ này theo hướng phát triển năng lực học sinh.
Thứ ba: Đề xuất các biện pháp dạy học bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà
Huyện Thanh Quan theo hướng phát triển năng lực học sinh.
Thứ tư: Thực nghiệm tính khả thi của đề tài khi đưa vào giảng dạy.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: thi pháp tác giả, thi pháp tác phẩm,
thi pháp của Bà Huyện Thanh Quan.
- Định hướng đổi mới dạy bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh

Quan
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Dạy học bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan trong
5


chương trình sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 7- tập 1 theo hướng khai thác thi pháp.
Khảo sát học sinh lớp 7 tại trường trung học cơ sở An Ninh.
Quá trình nghiên cứu, khảo sát được tiến hành từ năm 2017 đến năm 2018.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Sưu tầm, đọc tài liệu, nghiên
cứu các tài liệu về thi pháp tác giả, thi pháp tác phẩm, các sáng tác của Bà
Huyện Thanh Quan, các bài viết phê bình về tác phẩm Qua Ðèo Ngang
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, điều tra - khảo sát
bằng phiếu hỏi, tổng kết kinh nghiệm, tham vấn chuyên gia.
- Nhóm phương pháp xử lý thông tin: Thống kê và phân tích thống kê.
6. Cấu trúc của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, tiểu luận dự kiến được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Chương 2: Cơ sở tư liệu
Chương 3: Định hướng dạy học

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIẾN
CỦA VIỆC VẬN DỤNG DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC VÀO DẠY HỌC BÀI THƠ "QUA ĐÈO NGANG" CỦA BÀ
HUYỆN THANH QUAN
1. Cơ sở lý luận
Dạy một tác phẩm theo hướng phát triển năng lực cần chú ý các bình diện sau:

6


Thơ Nôm Đường luật trung đại
Văn học trung đại Việt Nam tình từ thế ký X đến hết thế kỷ XIX đây là giai
đoạn lớn trong lịch sử văn học dân tộc. Văn học thời kỳ này phát triển rực rỡ hình
thành các truyền thống lớn về tư tưởng và nghệ thuật. Trong chương trình Ngữ
Văn THCS, Văn học trung đại chiếm một phần không nhỏ. Việc dạy học Văn học
trung đại để học sinh có thể cảm thụ được cái hay, cái đẹp của một tác phẩm
trung đại không dễ dàng. Chính vì vậy để hiểu tác phẩm văn học trung đại chúng ta
phải tiếp cận từ thi pháp văn học trung đại. Văn hoc trung đại có thi pháp riêng
của nó. Việc nắm vững những đặc điểm của văn học trung đại sẽ giúp chúng ta
chiếm lĩnh tác phẩm mà còn giúp ta sáng tỏ được đặc điểm của văn học cổ đại và
hiện đại trong thế so sánh.
2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.1 Vận dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực để dạy học tác
phẩm văn chương ở trường THCS hiện nay.
Khi tìm hiểu một tác phẩm văn học chủ thể tiếp nhận phải nắm vững mối
quan hệ biện chứng giữa hình thức và nội dung bởi: "Trong tác phẩm nghệ thuật
tư tưởng và hình thức phải hòa hợp với nhau một cách hữu cơ như tâm hồn và
thể xác..." (Belinxki). [11/256]. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy văn học hiện
nay không ít cách dạy vi phạm phương pháp này. Người dạy thường tách nội
dung ra khỏi hình thức. Học tác phẩm văn học, hiểu ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm
nằm ngoài văn bản. Trong Trường THCS việc giảng dạy mới chỉ qua loa chủ yếu
là tìm ý. Khi dạy văn học trung đại trong trường phổ thông giáo viên và học sinh
gặp rất nhiều khó khăn. Vì để tiếp nhận văn học trung đại chúng ta phải có sự
hiểu biết sâu sắc những kiến thức về tác giả, thể loại văn học mà còn đòi hỏi
những kiến thức nhất định về những vấn đề trên. Trong giai đoạn hiện nay
những yêu cầu đó rất khó thực hiện vì vậy mà giáo viên chỉ truyền thụ kiến thức
một chiều thiên về nội dung hoặc tìm ra những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc rồi

truyền thụ cho học sinh mà không chú ý đến tâm lý của các em. Một thực trạng
nữa trong việc dạy học văn là một số bộ phận giáo viên chưa thực sự tâm huyết,
say mê với nghề nghiệp, lên lớp theo phướng pháp cũ, không sáng tạo. Chúng tôi
nhận thấy giáo viên thường chỉ dựa vào những điều có sẵn trong sách giáo khoa
để trình bày vì thế giờ học rơi vào tình trạng hình thức.
2.2. Nhận xét về dạy học bài thơ "Qua Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh
Quan ở THCS.
* Ưu điểm:
- Đội ngũ giáo viên của trường đều có trình độ chuyên môn vững vàng, hầu hết
đều đạt trình độ trên chuẩn. Giáo viên có thái độ nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm
7


với công việc cao. Hàng năm, giáo viên được bồi dưỡng chuyên môn không ngừng
tìm tòi, đổi mới phương pháp để phù hợp với yêu cầu
dạy học hiện đại góp phần tạo hứng thú cho các em khi học Ngữ Văn.
- Các tổ nhóm chuyên môn giữa các trường thường xuyên tổ chức cac buổi
chuyên đề, hội giảng, những tiết dạy tốt để cùng học hỏi, rút kinh nghiệm trong giờ
dạy của mình.
- Trên thị trường hiện nay có rất nhiều loại sách tham khảo giúp giáo viên giảng
dạy bài thơ: Qua Đèo Ngang.
* Hạn chế:
- Bài thơ Qua Đèo Ngang là bài thơ Nôm Đường luật được giảng dạy ở
chương trình Ngữ Văn lớp 7 là chưa phù hợp với trình độ nhận thức của các em.
Các em khó có thể hiểu hết giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- Học sinh không thích học bài thơ Qua Đèo Ngang một tác phẩm văn học
Trung đại. Các em thường chỉ chú ý đến phần ghi nhớ chứ chưa tự nhận thức được
giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Các em chưa có những kiến thức cần
thiết về hoàn cảnh ra đời, những tác phẩm liên quan. Nhiều học sinh học xong
vẫn không hiểu được ý nghĩa của tác phẩm mình học. Chính từ những yếu tố trên

khiến học sinh không có hứng thú để tiếp nhận tác phẩm.
- Phần lớn những phương pháp hiện nay được áp dụng để giảng dạy bài thơ
Qua Đèo Ngang là phương pháp thuyết trình, hỏi đáp, đọc chép.
- Trên cơ sở thực tế, chúng tôi nhận thấy giáo án giảng dạy bài thơ Qua Đèo
Ngang hệ thống câu hỏi vụn vặt, đơn điệu không nêu bật được giá trị của tác
phẩm, lượng kiến thức đưa vào giảng dạy còn hạn chế.
- Giáo viên có tâm lý ngại đổi mới phương pháp đặc biệt là đưa việc giảng dạy
gắn với thi pháp của tác phẩm là vấn đề phức tạp cần nhiều thời gian và công sức.
- Những tư liệu về Bà Huyện Thanh Quan và các tác phẩm của Bà rất ít khiến
giáo viên ngại tìm hiểu.
* Nguyên nhân
- Thời đại tác phẩm ra đời không giống với cuộc sống hiện tại của các em. Vì vậy
học sinh không hiểu được quan điểm thẩm mỹ của ông cha ta.
- Học sinh có vốn sống, tầm hiểu biết, tầm văn hóa còn hạn chế trong khi đó
bài thơ Qua Đèo Ngang sử dụng điển tích, điển cố học sinh sẽ không hiểu
được.
- Giáo viên chưa có biện pháp thích hợp trong giảng dạy chủ yếu vẫn là
thuyết giảng chưa quan tâm đến khả năng lĩnh hội của học sinh. Nhiều câu hỏi
cần được chia sẻ, khám phá nội dung, nghệ thuật vẫn chưa được phát huy.
3. Kết luận về thực trạng
Từ những cơ sở trên, chúng tôi nhận thấy việc giảng dạy bài thơ Qua
8


Đèo
Ngang - Bà Huyện Thanh Quan còn gặp nhiều lung túng. Vì vậy, muốn giảng dạy
tốt bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan người giáo viên phải lấy
học sinh làm trung tâm, nó là cơ sở để học sinh hiểu quan niệm nghệ thuật, các
sử dụng ngôn ngữ, kết cấu, các biện pháp nghệ thuật và quan niệm nhân sinh của
tác giả.

CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC DẠY HỌC BÀI THƠ "QUA ĐÈO NGANG"
CỦA BÀ HUYỆN THANH QUAN
1. Những yêu cầu đối với người dạy khi dạy bài thơ "Qua Đèo Ngang"
1.1. Giúp học sinh rút ngắn những khoảng cách tiếp nhận và bồi dưỡng
thêm cho học sinh lớp 7 khi dạy học bài thơ "Qua Đèo Ngang" của Bà
Huyện Thanh Quan.
Mỗi tác phẩm văn chương đều ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định.
Các tác phẩm ấy mang trong mình dấu ấn của thời đại. Chính vì vậy mỗi tác phẩm
văn chương không chỉ giúp người đọc hình dung được xã hội đương thời mà người
đọc còn thấy giá trị nhân văn tồn tại bên trong những tác phẩm. Trong nền văn học
Việt Nam không thể không nhắc đến văn học trung đại với số lượng tác phẩm đồ sộ
và giá trị nhân văn cao cả trong những tác phẩm ấy.
Trong chương trình Ngữ Văn hiện nay, những tác phẩm văn học trung đại
chứa nhiều giá trị giáo dục về truyền thống tốt đẹp của dân tộc như tinh thần đoàn
kết, tinh thần yêu nước. Qua những tác phẩm ấy các em học sinh có thể hiểu và
tiếp tục giữ gìn, phát huy truyền thống quý báu của dân tộc một cách dễ dàng
không gượng ép. Các tác phẩm thời kì này thường chứa đựng tình yêu quê hương
đất nước tình yêu thương con người.Thơ Hồ Xuân Hương là sự cảm thông với
những cuộc đời bất hạnh của người phụ nữ. Thơ của Nguyễn Khuyến là tình bạn
đẹp Bạn đến chơi nhà. Đặc biệt là bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh
Quan trong chương trình Ngữ Văn lớp 7 với giá trị nhân văn trường tồn cùng thời
gian thể hiện nỗi buồn nhân thế , thời thế "nhớ nước , thương nhà" qua cách cảm
nhận của một người phụ nữ gắn nỗi buồn của đất nước và nỗi buồn của cá nhân
hòa chung làm môt nhưng nỗi buồn ấy không bi lụy. Nỗi buồn của bài thơ xuất
phát từ tình yêu quê hương đất nước chân thành.
Bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan là một bài thơ đậm
chất nhân văn mang đậm dấu ấn lịch sử. Nhưng bài thơ này được giảng dạy ở
chương trình Ngữ Văn lớp 7 khi học sinh còn rất non nớt trong nhận thức, kiến
thức về lịch sử của các em còn hạn chế. Chính khoảng cách về thời gian của tác
phẩm với học sinh là quá lớn khiến các em trở nên thụ động, không chiếm lĩnh

được giá trị tư tưởng của tác phẩm dễ dàng.
9


Bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan cũng như bất kì tác
phẩm văn chương nào bao giờ cũng là sản phẩm gắn liền với một thời đại nhất
định. Chính vì vậy để hiểu tác phẩm thì người giáo viên cần giúp học sinh hiểu
được hoàn cảnh lịch sử sản sinh ra tác phẩm ấy. Bài thơ Qua Đèo Ngang- Bà
Huyện Thanh Quan sáng tác trong hoàn cảnh Nguyễn Ánh lên ngôi lấy hiệu là Gia
Long, định đô ở Huế. Bà Huyện Thanh Quan cũng như bao thi sĩ đương thời mang
trong mình tâm trạng hoài cổ, nhớ tiếc một thời vàng son hào hùng. Khi Bà trên
đường vào kinh nhận chức, đi qua Đèo Ngang nơi đánh dấu sự chia cắt giữa
Đàng Trong và Đàng Ngoài, hoàn cảnh ấy Bà đã thể hiện nỗi lòng của mình qua
bài thơ Qua Đèo Ngang. Giáo viên nên tạo một tiết học có khả năng tái hiện lại
hoàn cảnh sáng tác, không gian , thời gian cổ kính để bước đầu học sinh có
những cảm nhận chung về tác phẩm. Bài thơ Qua Đèo Ngang thuộc thể loại thơ
Nôm Đường luật với đặc trưng ngắn gọn, ngôn ngữ hàm xúc, giàu tính nhạc
giáo viên cần lựa chọn cách đọc phù hợp để tạo nên không khí của tác phẩm.
Đọc tác phẩm phải làm cho "vang nhạc, sáng hình" là việc làm đòi hỏi phải có
những kỹ năng cơ bản. Người đọc phải đọc chính xác không được bỏ xót từ nào,
ngắt nghỉ giữa các vế, dòng.
Bước tới Đèo Ngang,/ bóng xế tà
Cỏ cây chen đá,/ lá chen hoa.
Lom khom dưới núi/ tiều vài chú
Lác đác bên sông/ chợ mấy nhà.
Nếu chỉ dừng lại ở đọc chính xác thì học sinh không thể cảm nhận được
tâm trạng của nhân vật trữ tình chính vì vậy người giáo viên cần hướng dẫn các
em đọc diễn cảm. Đọc diễn cảm giúp người đọc bắt đầu hòa nhịp cảm xúc của
mình với những ngôn ngữ thơ tạo nên sự đồng điệu về tâm trạng với nhân vật
trữ tình. Khi đọc bài thơ Qua Đèo Ngang người đọc cần đọc chậm, nhẹ nhàng

diễn tả cảm xúc buồn của nhân vật "ta".
Đặc điểm của thơ Nôm Đường luật là sử dụng điển cố, điển tích. Điều quan
trọng để hiểu nội dung bài thơ học sinh cần phải hiểu ý nghĩa của những điến cố,
điển tích đó. Điển cố là lấy xưa để nói nay, nhắc lại việc xưa bằng một vài chữ
mà gợi lên sâu sắc các tầng ý nghĩa , khiến lời văn thêm sinh động. Khi dùng điển
cố trong thơ câu văn trở nên hàm súc, "lời ít, ý nhiều". Hiểu được điển cố, ý
nghĩa của nó trong câu thơ, bài thơ là một điều rất khó đặc biệt là đối với các em
học sinh lớp 7 vì vậy chú giải điển cố: điều quan trọng khi dạy bài thơ này.
- Con cuốc cuốc: chim cuốc cuốc hay gọi là chim đỗ quyên, đỗ vũ là loài
chim nhỏ, sống ở bờ bụi gần nước, có tiếng kêu "cuốc cuốc". Theo truyền thuyết
Trung Quốc, Thục Đế mất nước, hồn biến thành chim cuốc kêu nhớ nước đến nhỏ
máu mà chết. Bà Huyện Thanh Quan đã mượn câu chuyện xưa để bày tỏ niềm hoài
10


1.2. Giúp học sinh phát hiện ra những yếu tố sáng tạo trong bài thơ "Qua
Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan.
Khi vận dụng thơ Nôm Đường luật vào phân tích bài thơ "Qua Đèo
Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan không chỉ phân tích lớp nghĩa đơn thuần mà
phải giúp các em cảm thụ và say mê để tìm ra những cái mới của tác giả về nội
dung, ngôn từ tác phẩm với các tác phẩm cùng thời và các tác phẩm trước và sau nó.
Thơ là sự thổ lộ tình cảm một cách mãnh liệt đã được ý thức của tác giả.
Cảm xúc của mỗi người là khác nhau trước những hiện tượng của cuộc sống.
Dòng văn học chữ Nôm có ba nữ sĩ tài ba: Hồ Xuân Hương, Đoàn thị
Điểm, và Bà Huyện Thanh Quan; mỗi người một vẻ, đã tô điểm cho văn học Việt
nam những nét tuyệt vời. Hồ Xuân Hương, với nét trẻ trung tươi mát, hóm hỉnh,
tinh nghịch nhưng sâu cay, tạo thêm tính lạc quan yêu đời; Đoàn Thị Điểm, với
lòng chung thủy thắm thiết, đã nêu cao truyền thống của người phụ nữ Việt Nam
nghĩa tình sâu đậm ; và bà Huyện Thanh Quan, với sự đoan trang, kiên nghị, hoài
cổ, đã tạo thêm nghị lực trung trinh, lòng yêu mến trân trọng quá khứ của tiền

nhân và gia đình. Tương lai nằm trong quá khứ, chúng ta thêm thấu hiểu và kính
trọng Nữ sĩ khi đọc lại những dòng thơ chứa đầy tâm sự của bà. Bao thế hệ yêu
thơ sau này, đã như giới thi sĩ của đất Thăng Long xưa, sẽ mãi mãi bày tỏ lòng
ngưỡng mộ với tài năng kiệt xuất của Bà một Nữ Sĩ đoan trang đầy tài năng và
đức hạnh trong dòng văn học Việt nam đã góp phần tạo nên một nền Văn học phát
triển rực rỡ.
2. Đề xuất
2.1. Vận dụng kỹ năng đọc chính xác ngôn từ nghệ thuật của bài thơ
GS.TS Nguyễn Thanh Hùng viết trong Kỹ năng đọc hiểu văn "Đọc là tiền
đề để hiểu. Đọc và hiểu có quan hệ phụ thuộc vào nhau và phối hợp với nhau để
hiểu trọn vẹn tác phẩm trong quá trình đọc.". Đọc chính xác là bước đầu tiên trong
quá trình nhận thức về tác phẩm.
Bài thơ Qua Đèo Ngang- Bà Huyện Thanh Quan người đọc cần đọc chính
xác bài thơ. Đặc biệt là cách ngắt nhịp ở câu thơ cuối:
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Toàn bộ bài thơ đọc với nhịp 4/3 song đến khổ thơ cuối người đọc không thể
giữ nguyên các đọc cũ mà nên đọc 4/1/1/1 thì mới có thể thể hiện đúng tâm trạng
của nhân vật trữ tình và nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Khi giáo viên hướng dẫn các em đọc chính xác bài thơ sẽ tạo cho các em
tâm thể để cảm nhận và tìm hiểu giá trị của bài thơ.
Bài thơ Qua Đèo Ngang với hình ảnh Đèo Ngang khi bóng xế tà trong
cảnh thiên nhiên hoang vu "Cỏ cây chen đá, lá chen hoa" cùng với thiên nhiên có
11


bong dáng của con người nhưng sự sống ấy thật xa vời :
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Hình ảnh con người và thiên nhiên của Đèo Ngang toát lên một nỗi buồn, cô

đơn của nhân vật trữ tình trong buổi chiều tà ở nơi đất khách.
Ngôn ngữ thơ phải được gắn với câu thơ để thể hiện ý tứ của bài thơ. Thơ
chữ Nôm rất khó viết bởi nó được quy định rất chặt chẽ về số chữ, số câu.
Nhưng khi đọc thơ Bà Huyện Thanh Quan người đọc không thấy chữ nào thừa,
không có chữ nào thiếu, mỗi từ ngữ đều gợi lên cho người đọc những hình ảnh,
màu sắc, thật rõ nét.
Ngôn ngữ thơ đặc biệt của bà khiến người đọc bao thế hệ phải trầm trồ
ngưỡng mộ. Một nữ sĩ tài hoa một phong cách thơ riêng trong lịch sử văn học
Trung đại Việt Nam, phong cách Đường thi chuẩn mực nhưng vẫn đậm đà phong
vị dân tộc.
Bà Huyện Thanh Quan là người Đàng Ngoài thuộc Lê Trịnh nay đã là Đàng
Trong của triều Nguyễn. Khi Bà phải xa quê hương đến một vùng đất xa lạ. Tình
yêu quê hương, nỗi nhớ nhà là một cảm xúc luôn thường trực, giờ đây Bà lại đứng
trước khung cảnh của Đèo Ngang hoang sơ, tiêu điều thì cảm xúc ấy trào dâng
mãnh liệt. Thanh Quan nhìn hiện tại mà luôn nhớ đến quá khứ. Sự hoài niệm đã
xáo trộn thời gian biến quá khứ thành hiện tại. Đây là một nét đậm một nhịp mạnh
trong thơ . Nó tạo ra cảm hứng thế sự, mà còn tạo ra cái nhìn thế giới và cái nhìn
nghệ thuật trong thơ Bà.
Nhà thơ không trực tiếp nói về nỗi buồn, nỗi cô đơn mà cảm xúc ấy được
thấm đẫm vào từng câu, từng chữ của bài thơ. Khi ðứng trước thiên nhiên con
người như muốn trải lòng cùng với đất trời. Nhưng tác giả với tâm trạng của người
xa quê, buồn bã nhớ thương thì thiên nhiên trước mắt càng trở nên rợn ngợp còn
con người trở nên nhỏ bé. Nhân vật trữ tình mở lòng để cảm nhận âm thanh của
đất trời, tưởng rằng âm thanh xuất hiện thì con người sẽ quên đi cảnh hoang vu
nhưng âm thanh mà nhân vật trữ tình lắng nghe là tiếng con cuốc cuốc. Niềm hoài
cổ luôn chờ chực sẵn, còn sự đồng âm (cuốc là chim và quốc là nước, đa đa là chim
và gia là nhà) chỉ là một cái cớ.Tác giả đã sử dụng biện pháp đảo ngữ "nhớ nước,
thương nhà" lên đầu câu để nhấn mạnh tâm trang. Âm thanh "cuốc cuốc, gia
gia" không phải là âm thanh của con cuốc hay con chim gia gia mà đó là âm thanh
khắc khoải, da diết trong tâm hồn người nữ sĩ.

Thiên nhiên vốn chen chúc tạo thành một hợp thể ở chân đèo, rã ra thành
những yếu tố riêng lẻ. Nhân vật trữ tình nhìn lại xung quanh mình vẫn chỉ có
"Trời, non, nước" cảm xúc cô đơn như trào dâng vì con người trở thành một yếu
tố đơn lẻ ngậm ngùi với "Một mảnh tình riêng ta với ta". Nỗi cô đơn của Bà khác
12


hẳn với Nguyễn Khuyến, ngay khi cô đơn như sư cụ Chùa Đọi thì còn có khói
mây:
Sư cụ nằm chung với khói mây.
Hoặc Tản Đà thì vẫn có trăng:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi.
Hay như Hồ Xuân Hương còn có "non" và "nước"
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan có lúc nhân vật trữ tình như được bộc
bạch, tâm sự với người tri kỉ nhưng nhìn lại thực tại chỉ có "ta" cái ta tập trung cả
thể xác và tâm hồn để suy nghĩ về "một mảnh tình riêng". Bà Huyện Thanh Quan
đứng ở Đèo Ngang đã vượt qua danh giới về địa lý nhưng không thể vượt qua
Đèo
Ngang tâm lý của người lữ thứ mà mỗi khi chiều về trên con đường thiên lý:
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn.
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương xa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.

Tâm trạng hoài cổ sẽ luôn đè nặng trong suốt hành trình của Bà. Giá trị
nhân văn của cái tôi trữ tình sẽ giúp cho học sinh cảm nhận về tình yêu quê
hương đất nước một cách tự nhiên nhất bới tình yêu, vẻ đẹp tâm hồn của Bà Huyện
Thanh Quan cũng chính là giá trị nhân văn bao đời nay của dân tộc.
Cảm xúc trong bài thơ là sự hóa thân của cái tôi trữ tình. Hình ảnh của người
phụ nữ bước trên con đường xa như một thước phim quay chậm: "bước, dừng
chân, đứng lại" để cảm nhận và dãi bày tâm sự. Hình ảnh ấy chúng ta có thể gặp
trong những bài thơ khác của Bà như: "khách, người lữ thứ, ta, kẻ".
Đọc bài thơ người đọc có thể cảm nhận được sự ấm áp đầy nữ tính của nhà
thõ với đại từ "ta với ta" trong thiên nhiên Đèo Ngang heo hút người phụ nữ ấy
muốn vơi bớt đi nỗi cô đơn, nỗi buồn của người xa quê song nỗi buồn ấy lại tăng
thêm nhưng nó dịu dàng không đau đớn.
Đọc các tác phẩm của Bà Huyện Thanh Quan người đọc như cảm nhận được
lời tâm sự của một người phụ nữ đa tình, đa cảm. Một con người luôn đặt tình yêu
gia đình, tình cảm vợ chồng, con cái lên hàng đầu. Chúng ta hãy cùng quan sát câu
13


thơ:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Các cặp từ "Nhớ - thương, nước- nhà, con- cái". Bài thơ Qua Đèo
Ngang của Bà Huyện Thanh Quan toát lên tâm trạng buồn của nhân vật trữ tình.
Điều đặc biệt là những từ chỉ tâm trạng: niềm cố quốc, nhớ nước, thương nhà,
nỗi hàn ôn, mảnh tình riêng, kẻ chung tình được Bà Huyện Thanh Quan sử dụng
với tần số cao. Căn cốt của nỗi buồn đó là sự cuốn hút của thi nhân. Nỗi buồn trở
thành sự ám ảnh trong thi phẩm của Bà. Nỗi buồn mà nhân vật trữ tình mang trong
mình cũng không phải nỗi buồn của một trang nam tử với những hoài bão, chí
khí làm trai phải lo việc lớn. "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ".
Trong thơ Bà ta không chỉ nhận thấy nỗi niềm hoài Lê, những thay đổi

của đất nước. Đây là đặc điểm chỉ có thể xuất hiện ở tâm trạng của một người phụ
nữ giàu cảm xúc.

CHƯƠNG 3 THỰC NGHIỆM DẠY BÀI THƠ
"QUA ĐÈO NGANG" CỦA BÀ HUYỆN THANH QUAN
THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
Hoạt động của giáo viên và học sinh trong một giờ dạy được thể hiện chi tiết
trong giáo án. Phương pháp dạy học mới phải hướng vào đối tượng học sinh là
chủ thể tích cực, chủ động chiếm lĩnh kiến thức trong bài dạy vì vậy giáo án phải
là sự kết hợp hài hòa giữa hoạt động cảu giáo viên và học sinh vận dụng nhiều
phương pháp dạy học thích hợp với từng bài dạy và từng đối tượng học sinh.
Từ những hạn chế trong việc giảng dạy bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà
Huyện Thanh Quan và những vấn đề lý luận về phương pháp dạy học theo
hướng tiếp cận thi pháp tác giả và thi pháp tác phẩm. Chúng tôi cố gắng thiết kế
giáo án dựa vào thi pháp nhằm phát huy tính sáng tạo và vai trò chủ động tiếp
nhận văn chương của học sinh lớp 7.
3.1. Mục đích thực nghiệm:
Việc dạy thực nghiệm bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh
Quan theo hướng phát triển năng lực nhằm những mục đích:
- Kiểm chứng, xác nhận tính đúng đắn của giả thuyết khoa học đã đề
xuất: Nếu dạy học bài thơ Qua Đèo Ngang theo hướng phát triển năng lực trong
chương trình Ngữ Văn lớp 7 sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy học.
- Tiếp thu ý kiến phản hồi từ phía giáo viên và học sinh trong quá trình
thực nghiệm để điêu chỉnh, sửa chữa bổ sung hoàn thiện những đề xuất đổi mới
14


cách khai thác tác phẩm, cách tổ chức hoạt động dạy cho học sinh.
- Từ đó có những kết luận về kết quả nghiên cứu, gợi ý để người nghiên
cứu tiếp tục suy nghĩ về phương pháp dạy học tác phẩm theo hướng phát triển

năng lực
3.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm
3.2.1. Đối tượng thực nghiệm
Đối tượng chúng tôi sử dụng để thể nghiệm các thiết kế giáo án này là học
sinh lớp 7 ở trường THCS. Chúng tôi đã cố gắng lựa chọn trình độ học sinh
tương đương nhau để tìm hiểu sâu hơn tác dụng của các biện pháp đối với các
đối tượng học sinh cụ thể.
3.2.2. Thời gian thực nghiệm
Giáo án thực nghiệm được chúng tôi tiến hành trong năm học 2017- 2018.
3.3. Bài dạy thực nghiệm
Ngµy so¹n: 6 / 10 / 2017
Ngµy gi¶ng: /10 / 2017
TiÕt 29: V¨n b¶n : QUA ĐÈO NGANG
( Bµ HuyÖn Thanh
Quan )
I. Mục tiêu bài học:
1. Kiến thức:
- Học sinh hiểu biết về phong cách và đặc điểm thi pháp thơ của bà qua bài thơ:
"Qua Đèo Ngang".
- Hiểu được tâm trạng của nhân vật trữ tình- tác giả được thể hiện trong cảnh
và người của bài thơ.
- Học sinh nhận ra sự sáng tạo độc đáo của bài thơ trong thơ Nôm Đường
luật.
2. Kỹ năng:
- Rèn kỹ năng đọc hiểu văn bản thơ Nôm viết theo thể Thất ngôn bát cú Đường
luật.
- Rèn kỹ năng phân tích một số chi tiết nghệ thuật độc đáo trong bài thơ. - Kỹ
năng vận dụng thi pháp vào phân tích tác phẩm.
3. Thái độ:
- Thái độ trân trọng và yêu quý tác phẩm ưu tú của văn học dân tộc.

- Bồi dưỡng lòng yêu thiên nhiên, và tâm sự yêu nước sâu sắc thầm kín.
4. Định hướng phát triển học sinh
Hình thành năng lực sáng tạo(nói, viết), năng lực hợp tác, năng lực giải quyết
vấn đề, năng lực cảm thụ văn học.năng lực tự quản bản thân
II. Chuẩn bị:
15


- Giỏo viờn: Nghiờn cu bi th, ti liu tham kho, tranh nh v ốo Ngang,
lc dy hc .S dng cụng ngh thụng tin.
- Hc sinh: hc bi c, c trc bi, tr li cõu hi sỏch giỏo khoa kt hp
vi cõu hi hng phỏt trin nng lc.
III.Cỏc hot ng dy hc:
1. Hot ng khi ng
GV chiu cnh ốo Ngang gii thiu :Đèo Ngang là một địa danh
nổi tiếng trên đất nớc ta. Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã từng viết
1 câu thơ rất dí dỏm và bất ngờ:
Bao nhiêu ngời làm thơ về Đèo Ngang
Mà không biết con đèo chạy dọc.
Đúng là có biết bao ngời làm thơ về Đèo Ngang nh Cao Bá
Quát có bài Lên núi Hoành Sơn, Nguyễn Khuyến có bài Qua
núi Hoành Sơn, Nguyễn Thợng Hiền có bài Mùa xuân trông
núi Hoành Sơn... Nhng tựu trung đợc nhiều ngời biết và yêu
thích nhất vẫn là bài Qua đèo Ngang của Bà huyện Thanh
Quan. Bài thơ nh một bút kí thơ đậm chất trữ tình. Hôm nay
cô trò chúng ta sẽ cùng tìm hiểu bài thơ.
2. Hot ng hỡnh thnh kin thc
I-Giới thiệu tác giả,
Hot ng 1. Giới thiệu tác giả ,văn bản
? Dựa vào phần chú thích trong sgk , em văn bản

hãy nêu 1 vài nét về tác giả bài thơ Qua Đèo 1- Tác giả: Tên thật
là Nguyễn Thị Hinh
Ngang?
GV: Bà huyện Thanh Quan là ngời học rộng, (TK 19).- Bút danh là
huyện
Thanh
tài cao; bà cùng Đoàn thị Điểm và Hồ Xuân Bà
Hơng là 3 nhà thơ nữ có tiếng nhất ở TK Quan.
18-19. Thơ của bà còn lu lại 6 bài nh: Thăng - Đề tài thờng viết về
Long thành hoài cổ, Chiều hôm nhớ nhà, thiên nhiên vào lúc
Chùa Trấn Bắc. Đó là những bài thơ Nôm trời chiều.
đặc sắc và nổi tiếng của bà sau bài Qua
- Là một nhà thơ
Đèo Ngang.
Thơ bà thờng viết nhiều về thiên nhiên vào hoài cổ - hoài thơng
lúc trời chiều, gợi lên cảm giác vắng lặng, rất điển hình .
buồn buồn.
Đối với bà, cái đẹp là dĩ vãng. Hiện tại vắng
vẻ hiu quạnh chỉ là cái bóng mờ mờ của dĩ 2- Văn bản:
vãng mà thôi. Chính vì vậy mà ngời ta gọi:
? Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh nào?
16


GV: Nh chúng ta đã biết Bà huyện Thanh
Quan quê ở Thăng Long, bà là ngời Đàng
ngoài thuộc chúa Trịnh. Nhng mệnh trời đã
chuyển về họ Nguyễn. Lúc đó bà đợc chúa
Nguyễn mời vào cung Phú Xuân - Huế làm
chức cung chung giáo tập để dạy công chúa

và cung phi. Trên đờng vào kinh đô phò
vua mới, khi qua Đèo Ngang bà đã dừng
chân ngắm cảnh và sáng tác bài thơ Qua
đèo Ngang. Bài thơ in trong Hợp tuyển thơ
văn Việt Nam tập III (1963 )
Hot ng 2. Đọc ,tìm hiểu chung
* GV:Hớng dẫn đọc: Bài thơ thể hiện tâm
trạng buồn, cô đơn. Khi đọc các em cần
đọc chậm, buồn, ngắt đúng nhịp 4/3 và
2/2/3. Càng về cuối giọng đọc càng chậm,
nhỏ hơn. Đến 3 tiếng: trời, non, nớc, đọc
tách ra từng tiếng. 3 tiếng ta với ta đọc nh
tiếng thầm thì mình nói với mình.
GV đọc - 2 hs đọc - Gv nhận xét.
Giải thích từ khó:Hs đọc chú thích:1,2(102
),4, 5(103 ).
? Dựa vào số câu, số tiếng trong bài thơ,
em hãy cho biết bài thơ đợc sáng tác theo
thể thơ nào?
?Thế nào là thơ thất ngôn bát cú Đờng luật?
Hs đọc sgk (102 ).
? GV: Giới thiệu bố cục bài thơ thất ngôn bát
cú.
Bây giờ chúng ta đi tìm hiểu bài thơ theo
bố cục đã chia.
Hot ng 3. Tỡm hiu chi tit
Hs đọc 2 câu đề.
?Câu thơ đầu miêu tả cảnh ở đâu?
?Bớc tới là từ loại gì? Nó chỉ hành động của
ai? (Bớc tới là ĐT chỉ hành động của nhân

vật trữ tình tức nhà thơ khi thấy con đèo
và tiếp cận con đèo).

Bài thơ đợc sáng tác
trên đờng vào kinh
đô Huế nhận chức.

II-Đọc ,tìm
chung:
1-Đọc:

hiểu

2-Tìm hiểu chú
thích:
3- Thể thơ: Thất
ngôn bát cú Đờng
luật: sgk (102 ).
4-Bố cục: 4 phần
III-Tỡm hiu chi tit

1-Hai câu đề

-

Thời

gian:

Buổi

17


? Nhà thơ tiếp cận con đèo vào thời điểm
bóng xế tà, đó là thời điểm nào trong
ngày? (Đây là lúc trời đã về chiều, là lúc
chuyển giao giữa ngày và đêm. Đó là thời
khắc của ngày tàn, lúc này chỉ còn những
tia nắng yếu ớt và màn đêm đang dần
buông xuống).
? Thời điểm đó đã gợi tả đợc tâm trạng gì
của tác giả? Gv: Thời điểm ấy không còn là
thời điểm của vui tơi, rạng rỡ mà đã xiêu
xiêu về phía hoài niệm mơ màng. Thời
điểm ấy rất phù hợp với tâm trạng của ngời
lữ khách xa nhà. Thời gian, không gian đợc
miêu tả ở đây nh là 1 yếu tố nghệ thuật
bộc lộ tâm trạng. Điều này đã đựơc thể
hiện rất rõ trong ca dao:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
? Câu thơ nào miêu tả cảnh thiên nhiên của
đèo Ngang?
Thiên nhiên Đèo Ngang đợc gợi tả qua những
từ ngữ nào? (Cỏ, cây, đá, lá, hoa) Đây là
phép liệt kê gây ấn tợng về số lợng bề bộn,
dày đặc của cảnh vật.
? Từ chen thuộc từ loại gì, nó đợc dùng ở
đây với nghĩa nh thế nào? (ĐT - Chen:
chen chúc nhau, lẫn vào nhau, không có

hàng lối, không có trật tự )
Điệp từ chen đợc lặp lại 2 lần cùng với phép
liệt kê có sức gợi tả 1 cảnh tợng thiên nhiên
cằn cỗi, tha thớt, thiếu sức sống hay cảnh tợng thiên nhiên xanh tơi, rậm rạp, đầy sức
sống
? Vậy cảm nhận đầu tiên của nhà thơ về
cảnh đèo Ngang là cảm nhận về 1 khung
cảnh ngút ngàn, hoang sơ, vắng vẻ hay là
cảm nhận về 1 khung cảnh sơ xác tiêu
điều?

chiều
-> gợi buồn, gợi nhớ,
gợi sự cô đơn.

-Cảnh
vật:
cây ,đá ,lá...
-> Phép liệt kê,

Cỏ,

-Điệp từ chengợi
cảnh tợng thiên nhiên
xanh tơi, rậm rạp,
đầy sức sống.

=> Khung cảnh ngút
ngàn,
hoang

sơ,
vắng vẻ.

2- Hai câu thực:

- Từ láy (gợi hình):
lom khom ,lác đác

18


GV.Thiên nhiên là vậy, còn sự sống của con
ngời nơi đây thì sao . Ta cùng tìm hiểu
tiếp:
* HS đọc 2 câu thực.
? Bức tranh Đèo Ngang ở 2 câu thực có thêm
nét gì mới? (Đã xuất hiện hình ảnh con ngời và sự sống của con ngời)
2 từ: lom khom, lác đác là từ ghép hay
từ láy? 2 từ láy này có sức gợi tả nh thế nào?
(Từ láy Lom khom gợi hình dáng vất vả
của ngời tiều phu. Lác đác gợi sự tha thớt,
ít ỏi của những quán chợ ).
? Em có nhận xét gì về cấu trúc của 2 câu
thơ này? (VN đợc đảo lên trớc CN và phụ
ngữ sau của cụm DT đợc đảo lên trớc)
? Đảo ngữ đợc sử dụng ở 2 câu thơ này có
tác dụng gì? (nhấn mạnh thêm cái ấn tợng
về hình dáng vất vả của ngời tiều phu và
sự tha thớt, hiu quạnh của lều chợ )
? ở câu 3, 4 có sử dụng phép đối, vậy em

hãy chỉ ra những biểu hiện của phép đối
và tác dụng của nó? (đối thanh, đối từ loại
và đối cấu trúc câu-Tạo nhịp điệu cân
đối cho câu thơ.)
?Hai câu thực đã tả về sự sống của con ngời ở đèo ngang, đó là sự sống nh thế nào
(Đông vui, tấp nập hay tha thớt, vắng vẻ)?
GV: Bốn câu thơ đầu là bức tranh phong
cảnh thiên nhiên ở Đèo Ngang : núi đèo bát
ngát xanh tơi và đâu đó thấp thoáng sự
sống của con ngời nhng còn tha thớt hoang
sơ. Cảnh đợc nhìn vào lúc chiều tà, tác giả
đang trong cảnh ngộ phải xa nhà, mang
tâm trạng cô đơn nên cảnh vật cũng buồn
và hoang vắng. Đây là cảnh hiện thực
khách quan hay là cảnh tâm trạng ? Lời giải
đáp cho câu hỏi này nằm ở 2 câu luận.
*Đọc 2 câu luận:

- Đảo ngữ -> nhấn
mạnh sự nhỏ bé, hiu
quạnh
nơI
đèo
Ngang.
- Phép đối : đối
thanh,
đối
nhịp
điệu, đối cấu trúc.


-> Sự sống của con
ngời đã xuất hiện nhng còn tha thớt, vắng
vẻ.

3- Hai câu luận

Tiếng
chim
quốc,chim đa đa
kêu
19


? Trong buổi chiều tà hoang vắng đó nhà
thơ đã nghe thấy âm thanh gì? (âm
thanh của tiếng chim quốc và chim đB)
Gv: ở đây các em cần lu ý 2 điển tích:
Chim quốc đợc lu truyền là hồn vua Thục Đế
mất nớc nêu đau lòng kêu khóc đến nhỏ
máu ra mà chết biến thành con chim quốc.
Chim đa đa là nhắc tới tích: Bá Di, Thúc
Tề - là 2 bề tôi của nhà Thơng, thà chết
đói chứ không chịu sống với nhà Chu,
không ăn thóc nhà Chu nên đã chết hoá
thành chim đa đa. Hai điển tích này
không xa lạ đối với các nhà thơ trung đại.
Tiếng chim ở đây cũng là yếu tố nghệ
thuật có tác dụng gợi tả tâm trạng và nỗi
lòng nhân vật trữ tình.
? Nhà thơ đã mợn tiếng chim để bày tỏ

lòng mình, đây là hình thức biểu đạt
trực tiếp hay gián tiếp?
? Cách biểu đạt gián tiếp thông qua âm
thanh của tiếng chim, là sử dụng biện pháp
tu từ gì? Tác dụng của biện pháp tu từ đó?
(ẩn dụ tợng trng - để bộc lộ chiều sâu
tình cảm)
? Vậy theo em tiếng chim quốc và chim đa
đa kêu trên đèo vắng, lúc chiều tà gợi cảm
giác vui tơi, phấn khỏi hay gợi nỗi buồn
khổ?
GV: Hai từ: quốc2, gia ngoài nghĩa chỉ chim
quốc và chim đa đa, còn có nghĩa: quốc nớc, gia - nhà, đây là 2 từ Hán Việt đa
nghĩa và đồng nghĩa. Cách dùng từ đa
nghĩa và đồng nghĩa trong thơ văn chính
là phép tu từ chơi chữ.
? Theo em chơi chữ có tác dụng gì? (Chơi
chữ tạo cách hiểu bất ngờ và tạo sự hấp dẫn
thú vị cho câu thơ )
? 2 câu luận còn sử dụng phép đối, em hãy

Là hình ảnh ẩn dụ tợng trng
-> Gợi nỗi buồn khổ,
khắc khoải, triền
miên không dứt.

- Chơi
(thanh,
nghĩa)


chữ
từ

,

Đối
loại,

=> Bộc lộ rõ trạng
thái cảm xúc nhớ nớc
và thơng nhà da
diết.
- Hoài cổ, hoài thơng của bà
- Nỗi nhớ thơng có
tính chất lịch sử.

4- Hai câu kết:
- Cảnh :trời,non,nớc
-> Gợi không gian bao
la rộng lớn.

-Con ngời nhỏ bé,
yếu đuối, cô đơn.

20


chỉ ra phép đối và tác dụng của nó ? (Đối:
thanh, từ loại, nghĩa - Làm cho câu thơ
cân đối, nhịp nhàng).

? Những biện pháp nghệ thuật trên đã góp
phần bộc lộ trạng thái cảm xúc gì của nhà
thơ ?
? Vì sao Bà huyện Thanh Quan lại có tâm
trạng buồn nh vậy?
Gv: Nh đã giới thiệu ở phần đầu, Bà huyện
Thanh Quan là ngời Đàng Ngoài thuộc Lê
Trịnh, nhng nay lại thuộc triều Nguyễn ở
Đàng Trong. Vì vậy trong tâm t của bà
không khỏi không ngầm lắng sự thơng nhớ
và nối tiếc triều Lê, một triều đại vàng son
đã qua và là sự phủ định chính quyền nhà
Nguyễn bấy giờ. Từ cảnh trớc mắt quay về
cảnh đã qua, từ hiện thực trở về quá khứ.
Đó là hiện thân tiếng lòng ngời lữ khách đi
đờng lẻ loi, nhiều tự sự. Đó chính là đặc
điểm:Nỗi nhớ thơng này không chỉ riêng
bà mà nó còn là nỗi nhớ thơng của những
ngời dân xứ Đàng Ngoài.
Gv: các em ạ! Từ cảm nhận nhà thơ trực
tiếp bộc lộ nỗi niềm qua 2 câu kết. Bây
giờ chúng ta đi tìm hiểu:
*Hs đọc 2 câu kết.
? Câu trên tả cảnh gì ? Cảnh trời, non, nớc
gợi cho ta ấn tợng về 1 không gian nh thế
nào?
? Câu dới tả gì? Tình riêng là gì? (Tình
riêng là chỉ tình cảm sâu kín, đó không
phải là tình yêu đôi lứa mà là tình yêu quê
hơng, đất nớc của tác giả)

? Tại sao tác giả lại dùng từ mảnh? (Mảnh:
nhỏ bé, yếu ớt, mỏng manh)
- Ta với ta là chỉ ai với ai? nó thuộc từ
loại gì? (Đại từ - chỉ mình với mình, chỉ có
1 mình ta biết, 1 mình ta hay)

->Hình ảnh đối lập.

Diễn tả sự cô
đơn tuyệt đối
của con ngời trớc thiên nhiên
hoang
vắng,
rộng
IV :Tổng kết:
1-Nghệ thuật:
- Miêu tả để biểu
cảm
-ẩndụ,phép
đối
,chơi chữ,đảo ngữ
2-Nội dung:
-Tả cảnh Đèo Ngang
và tâm trạng của bà
huyện Thanh quan
- Bà huyện Thanh
Quan là ngời nặng
lòng với gia đình và
đất nớc, yêu thiên
nhiên, yêu đất nớc.

V- Luyện tập:

21


? Câu trên tả cảnh rộng lớn, bao la còn câu
dới lại nói về con ngời nhỏ bé, yếu đuối, cô
đơn. Hai hình ảnh này nh thế nào với
nhau? Nó có tác dụng gì? (Hình ảnh đối
lập làm nổi rõ tâm trạng buồn, lẻ loi, cô
đơn, không có ngời sẻ chia)
Gv: Nếu ở 2 câu đề là bớc tới, thì 2 câu
kết là sự dừng chân. Đây là cách kết cấu
đầu cuối tơng ứng.
?Theo em, 2 câu kết đã diễn tả đợc tâm
trạng gì của nhà thơ?
Gv: Từ chỗ cảm nhận vẻ đẹp hoang vắng
của thiên nhiên, nhà thơ quay trở về thực tại
của cõi lòng. Đứng trớc trời, nớc mênh mông,
trớc cảnh bể dâu của cuộc đời, con ngời
thấy nhỏ bé, cô đơn, quay lại chỉ có mình
với mình, với mảnh tình riêng đơn lẻ, nhỏ
nhoi, trống vắng mênh mông.
Hot ng 4. Tổng kết? Đây là bài thơ tả
cảnh ngụ tình? Đó là cảnh gì, tình gì ?
(Ghi nhớ )
? Bài thơ đợc biểu đạt bằng phơng thức
nào? thông qua những biện pháp tu từ gì?
(Miêu tả để biểu cảm: tả cảnh ngụ tình,
sử dụng phép đối, đảo ngữ, điệp ngữ, ẩn

dụ, chơi chữ)
Gv: Các biện pháp tu từ này chúng ta sẽ đợc
học ở các bài sau.? Em học tập đợc gì về
cách viết văn của tác giả? Chúng ta hãy học
tập và vận dụng cách viết này vào bài viết
tập làm văn số 2.
? Bài thơ đã cho em hiểu gì về bà huyện
Thanh Quan?3. Hot ng luyn tpHàm nghĩa
của cụm từ ta với ta: Đọc 2 câu cuối, ta thấy
nhà thơ nh muốn đối lập giữa trời, non ,nớc
và ta với ta. Một mình tác giả cô đơn,
quạnh quẽ giữa trời đất bao la, núi non trùng
điệp và sóng nớc mênh mông, bát ngát. Ba
22


chữ ấy đọc lên nh 1 khối cô đơn lạnh lùng,
nh có thể cảm giác đợc sự cô đơn đến
lạnh ngời. Đó là 1 mảnh tình riêng trong 1
không gian chiều tà.
4. Hot ng vn dng:Đọc diễn cảm bài thơ.Tìm hàm nghĩa của
cụm từ ta với ta ?
5.Hot ng tỡm tũi, m rng : Phỏt biu cm ngh ca em v bi th ?
*ỏnh giỏ kt qu thc nghim
Sau khi tin hnh cỏc tit dy cỏc lp i chng v cỏc tit dy lp
thc
nghim thit k giỏo ỏn trờn, chỳng tụi u kim tra kt qu tip nhn ca hc sinh
theo phiu yờu cu ó c phỏt ra vi cỏc ni dung sau:
1) Cnh thiờn nhiờn ốo Ngang hin lờn nh th no qua cm nhn ca
B

Huyn Thanh Quan?
2) Ch ra cỏc bin phỏp ngh thut c s dng trong bi th v nờu tỏc
dng ca cỏc bin phỏp ngh thut ú trong vic th hin ni dung bi th?
3) Em cm nhn c iu gỡ trong tõm trng ca b Huyn Thanh Quan
khi
qua ốo Ngang?
4) Theo em, sc hp dn ca bi th ny l gỡ?
5) Em cú nhn xột gỡ v phong cỏch th ca B Huyn Thanh
Quan?
6) n tng sõu sc nht ca em sau khi hc xong bi th?
Nhn xột: Trong tng s 80 phiu kho sỏt c phỏt ra cho 2 lp (1 lp
thc nghim v 1lp i chng) kt qu cho thy sau khi c hc vi giỏo ỏn
thc nghim, nhn thc ca hc sinh ó cú s thay i rừ rt. C th:
Cõu s 1: S hc sinh tr li ỳng, cỏc lp thc nghim cao hn lp i
chng l 17 em.
Cõu s 2: S hc sinh tr li ỳng, cỏc lp thc nghim cao hn lp i
chng l 22 em.
Cõu s 3: S hc sinh tr li ỳng, cỏc lp thc nghim cao hn lp i
chng l 22 em.
Cõu s 4: S hc sinh tr li ỳng, cỏc lp thc nghim cao hn lp i
chng l 17em.
23


Câu số 5: Số học sinh trả lời đúng, đủ ở các lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối
chứng là 24 em.
Câu số 6: Số học sinh trả lời đúng, đủ ở các lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối
chứng là 15 em.
Căn cứ vào thực tế giảng dạy giáo án thực nghiệm cũng như kết quả thống
kê nhận thức của học sinh sau khi học xong bài Qua đèo Ngang theo giáo án

thực nghiệm, chúng tôi nhận thấy học sinh ở các lớp thực nghiệm nhìn chung có
khả năng phân tích tác phẩm khá tốt, học sinh có cái nhìn khái quát về phong cách
thơ của tác giả. Hầu hết các em đều nắm được những kiến thức cơ bản mà mục
tiêu bài học đã đề ra. Điều đó cho thấy những đề xuất của tiếu luận là phù hợp
với đối tượng học sinh THCS, cụ thể là học sinh lớp 7 hiện nay.
Qua tiếp xúc, trao đổi với giáo viên đang giảng dạy Ngữ Văn lớp 7 THCS
về cách thức thiết kế giáo án theo đề xuất của tiểu luận, chúng tôi nhận được
khá nhiều sự đồng tình. Bài thiết kế thể nghiệm đã cung cấp đủ kiến thức cơ bản
cho học sinh về tác phẩm cũng như tác giả, đã rèn được cho học sinh kĩ năng cơ
bản khi đọc bài thơ, giúp các em nắm được các bước phân tích, bình giá một tác
phẩm
thơ dựa vào thi pháp tác giả và thi pháp tác phẩm. Trong quá trình hướng dẫn
học sinh phân tích tác phẩm, bài thiết kế thực nghiệm đã chú ý làm nổi bật tâm sự
yêu nước thầm kín của tác giả, hạt nhân nhân văn góp phần làm nên giá trị bền
vững muôn đời của thơ Bà Huyện Thanh Quan trong lịch sử văn học dân tộc.
Hầu hết các giáo viên đều cho rằng hệ thống câu hỏi khá phong phú, từ câu hỏi
phát hiện, tái hiện, so sánhđến câu hỏi nêu vấn đề, từ câu hỏi đơn giản đến nâng cao,
phù hợp với lứa tuổi học sinh lớp 7 THCS, bởi lẽ ở lứa tuổi này, khả năng cũng
như tư duy phân tích, tổng hợp, khái quát các vấn đề chưa cao. Không những
vậy, giáo án thực nghiệm đã hướng vào việc phát huy tối đa tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh trong quá trình chiếm lĩnh tác phẩm. Qua đó, có thể
thấy những biện pháp mà tiểu luận đề ra không chỉ có cơ sở về mặt lí thuyết mà
được kiểm nghiệm trên thực tế dạy học bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện
Thanh Quan cho học sinh THCS hiện nay.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Bà Huyện Thanh Quan một tài năng kiệt xuất trong nền Văn học Việt Nam.
Tuy những sáng tác của Bà không nhiều nhưng đã thể hiện một phong cách thơ
độc đáo. Trong chương trình Ngữ Văn lớp 7 bài thơ Qua Đèo Ngang được đưa
vào giảng dạy. Đây là một lựa chọn đúng đắn tuy nhiên bài thơ là tác phẩm viết

theo thể thơ Nôm Đường luật. Tác phẩm viết cách thế hệ tiếp nhận hàng trăm năm
24


thể hiện những tư tưởng, tình cảm, cách hiểu của con người thời xưa. Trong khi
đó trình độ nhận thức của học sinh còn hạn chế, học sinh có vốn ngôn ngữ ít ỏi,
kiến thức văn hóa xã hội hạn hẹp khiến cho việc tiếp thu văn bản càng trở nên khó
khăn.
Muốn giúp các em có thể dễ dàng tiếp nhận tác phẩm thì người giáo viên phải
hướng dẫn các em chiếm lĩnh tác phẩm thông qua biện pháp gắn tác phẩm với lịch sử
hình thành, đọc tác phẩm, phân tích kết cấu, phát hiện, phân tích, cắt nghĩa, bình giá
yếu tố thi pháp, không gian thời gian nghệ thuật gắn với tác phẩm, tìm ra ý nghĩa
của ngôn từ nghệ thuật, tâm trạng của nhân vật trữ tình, giá trị nhân văn của tác
phẩm, so sánh đối chiếu với các tác phẩm khácCác biện pháp này sẽ đóng vai
trò quan trọng trong việc xây dựng hệ thống câu hỏi giúp các em cảm
nhận sâu sắc tác phẩm. Học sinh có thể phân tích, bình giá tác phẩm một cách khoa
học.
Trên cơ sở lý luận và kết quả thực nghiệm đã chứng minh bước đầu tính khả
thi của luận văn.
2. Kiến nghị
2.1. Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo
- Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn cho giáo viên về đổi mới phương
pháp dạy học .
- Xây dựng những tiêu chí đánh giá một giờ dạy văn bản nghệ thuật hiệu quả.
2.2 . Đối với nhà trường:
- Khuyến khích giáo viên nghiên cứu, tìm tòi, vận dụng những kiến thức
trong tiếp nhận, phân tích, cắt nghĩa tác phẩm vào giảng dạy.
- Tổ chức các cuộc hội thảo, chuyên đề để giáo viên có thể học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau từ đó rút ra những ưu điểm và hạn chế trong quá trình giảng
dạy.

2.3. Đối với giáo viên
Giáo viên cần học hỏi và nắm chắc đặc trưng thể loại của thơ Nôm
Đường luật và hiểu rõ những sáng tạo của tác giả trong từng tác phẩm thì mới
có thể nâng cao được hiệu quả dạy học Ngữ Văn .
Các tổ, nhóm chuyên môn cần thường xuyên tổ chức những chuyên đề
bồi dưỡng kiến thức về thể loại, hướng dẫn giáo viên phương pháp giảng dạy
theo thể loại để giáo viên có cái nhìn cụ thể hơn với một giờ dạy học tác phẩm văn
chương đúng đặc trưng thể loại dần thay đổi cách dạy mà lâu nay giáo viên vẫn áp
dụng.
Trong quá trình giảng dạy, có rất nhiều phương pháp được áp dụng mỗi
25


×