Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Vai trò của vốn xã hội trong xây dựng nông thôn mới ( nghiên cứu trường hợp xã thượng mỗ, huyện đan phượng, thành phố hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------*--------------

ĐỖ THỊ NGÂN

VAI TRÕ CỦA VỐN XÃ HỘI
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
(Nghiên cứu trường hợp xã Thượng Mỗ,
huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội)

LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÀNH XÃ HỘI HỌC

H Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------*--------------

ĐỖ THỊ NGÂN

VAI TRÕ CỦA VỐN XÃ HỘI
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
(Nghiên cứu trường hợp xã Thượng Mỗ,
huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội)
CHUY£N NGµNH: X· HéI HäC
M· sè: 60 31 03 01

LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÀNH XÃ HỘI HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

PGS. TSKH Bùi Quang Dũng
Chủ tịch Hội đồng chấm luận văn:

PGS. TS Mai Quỳnh Nam

H Nội - 2014


Lời cảm ơn
Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến toàn thể các
Thầy giáo, Cô giáo trong khoa Xã hội học trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn - những người đã tận tình giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian
làm luận văn!
Đặc biệt, tác giả luận văn xin được gửi lời biết ơn sâu sắc nhất đến
Giáo viên hướng dẫn – PGS. TSKH. Bùi Quang Dũng, người đã tận tình chỉ
bảo và hướng dẫn cho tác giả để hoàn thành tốt luận văn này!
Tác giả luận văn xin được gửi tới các Thầy giáo, Cô giáo lời chúc sức
khỏe và hạnh phúc!
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng
Học viên

Đỗ Thị Ngân

năm 20


MỤC LỤC

PHẦN 1 - MỞ ĐẦU ..................................................................................... 5
1. Lý do lựa chọn đề tài ............................................................................... 5
2. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................. 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................... 6
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu .............................................. 7
5. Giả thuyết nghiên cứu ............................................................................. 7
6. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 7
7. Khung phân tích ...................................................................................... 9
PHẦN 2 ....................................................................................................... 10
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ....................................................................... 10
CHƢƠNG 1 ................................................................................................ 10
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ......................................................... 10
1. Cơ sở lý luận ......................................................................................... 10
1.1. Bối cảnh thực hiện Chương trình MTQG về xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2011 – 2020 ở Việt Nam ............................................................ 10
1.2. Các khái niệm cơ bản ......................................................................... 14
1.2.1. Vốn xã hội .................................................................................... 14
1.2.2. Nông thôn mới ............................................................................. 15
2. Lý thuyết áp dụng.................................................................................. 16
3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ................................................................ 19
3.1. Vấn đề vốn xã hội trong một số nghiên cứu quốc tế ........................ 19
3.2. Nghiên cứu VXH ở Việt Nam ......................................................... 26
4. Đặc điểm của địa bàn nghiên cứu ......................................................... 29
4.1. Đặc điểm về kinh tế, xã hội ............................................................. 29
4.2. Tình hình xây dựng Nông thôn mới ................................................. 31
CHƢƠNG 2 ................................................................................................ 37
VỐN XÃ HỘI VÀ VAI TRÕ CỦA VỐN XÃ HỘI TRONG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI TẠI XÃ THƢỢNG MỖ ........................................... 37

1



1. Nhận diện các kiểu, loại của VXH ở địa bàn nghiên cứu ....................... 37
2. Vai trò của VXH trong xây dựng cơ sở hạ tầng ..................................... 49
2.1. Nguồn vốn để thực hiện chương trình ............................................. 49
2.2. Vai trò của VXH trong xây dựng cơ sở hạ tầng ............................... 52
3. Vai trò của VXH trong phát triển kinh tế của địa phương ...................... 60
3.1. Vai trò của VXH trong phát triển sản xuất ....................................... 60
3.1.1. VXH trong hỗ trợ sản xuất nông nghiệp .................................... 60
3.1.2. VXH trong hỗ trợ các hoạt động phi nông nghiệp ..................... 65
3.2. Vai trò của VXH trong cung cấp tín dụng ....................................... 68
PHẦN 3: KẾT LUẬN................................................................................. 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 82
PHỤ LỤC.................................................................................................... 86
I. Bộ công cụ ............................................................................................... 86
II. Bộ tiêu chí Quốc gia về xây dựng Nông thôn mới ................................ 90

2


DANH MỤC VIẾT TẮT

MTQG

: Mục tiêu quốc gia

NTM

: Nông thôn mới


PVS

: Phỏng vấn sâu

VXH

: Vốn xã hội

UBND

: Ủy ban nhân dân

3


DANH MỤC BẢNG

Bảng 1: Nghề nghiệp của người trả lời ........................................................... 8
Bảng 2: Danh sách các loại hình tổ chức xã hội tự nguyện ở Thượng Mỗ .... 46
Bảng 3: Tổng hợp các nguồn vốn xây dựng nông thôn mới xã Thượng Mỗ . 50

DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1: Mạng lưới của các thành viên tham gia chơi “hụi”, “họ” ................ 76

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Sự thay đổi về giá trị cơ cấu kinh tế của xã Thượng Mỗ
giai đoạn 2010-2012 .................................................................... 30

4



PHẦN 1 - MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề t i
Nông thôn là nơi sinh sống của một bộ phận dân cư chủ yếu làm việc
trong lĩnh vực nông nghiệp. Nước ta hiện nay vẫn là một nước nông nghiệp
với hơn 70% dân cư đang sống ở nông thôn. Phát triển nông nghiệp nông thôn
đã, đang và sẽ còn có vai trò quan trọng đối với việc ổn định kinh tế xã hội
đất nước. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định
mục tiêu xây dựng nông thôn mới1 là: “Xây dựng nông thôn mới ngày càng
giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện
đại”. Chính vì vậy chiến lược phát triển nông thôn luôn luôn là một trong
những ưu tiên trong các chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà
nước. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, bắt đầu được
triển khai từ năm 2009 với 11 xã 2 thí điểm là sự tiếp nối những nỗ lực của
Đảng và Nhà nước về phát triển nông thôn.
Xây dựng nông thôn mới là chương trình phát triển nông thôn toàn diện
với nhiều nội dung và bao trùm nhiều lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội nông
thôn. Xây dựng nông thôn mới cần nguồn lực đầu tư lớn và chủ yếu được huy
động nguồn lực từ cộng đồng dân cư. Được hỗ trợ một phần từ nguồn vốn
ngân sách khi thực hiện, nhưng so với các xã điểm, những thay đổi về cơ chế
hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách khiến các xã triển khai sau này sẽ nhận được ít
hơn hỗ trợ từ ngân sách, do đó việc thực hiện sẽ chủ yếu dựa trên nguồn lực
1

Chương trình xây dựng NTM bao gồm 19 tiêu chí (quy hoạch và thực hiện quy hoạch; giao thông; thủy lợi;
điện; trường học; cơ sở vật chất văn hóa; chợ nông thôn; bưu điện; nhà ở dân cư; thu nhập; hộ nghèo; cơ cấu lao
động; hình thức tổ chức sản xuất; giáo dục; y tế; văn hóa; môi trường; hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững
mạnh; an ninh, trật tự xã hội - Trích Quyết định số 800/QD-TTg ngày 04 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng Chính
phủ), bao quát trên nhiều mặt của đời sống xã hội. Vùng nông thôn có thêm nguồn lực về cơ sở hạ tầng, vốn, cơ

hội đào tạo nghề, tiếp cận khoa học kỹ thuật … phục vụ cho việc nâng cao đời sống của người dân.
2
Chương trình NTM triển khai thí điểm tại 11 xã , với những điều kiện về kinh tế - văn hóa – xã hội khác nhau,
qua 2 năm thực hiện Đến nay có 01 xã (Tân Thông Hội – TP. HCM) hoàn thành 19 tiêu chí; 3 xã (Tam Phước Quảng Nam; Tân Hội - Lâm Đồng; Mỹ Long Nam - Trà Vinh) đạt 18 tiêu chí; 3 xã (Tân Thịnh - Bắc Giang;
Thụy Hương - TP. Hà Nội; Định Hòa - Kiên Giang) đạt 17 tiêu chí: 1 xã (Tân Lập - Bình Phước) đạt 16 tiêu
chí; 2 xã ( Hải Đường - Nam Định và Gia Phố - Hà Tĩnh) đạt 14 tiêu chí và xã Thanh Chăn - Điện Biên đạt 10
tiêu chí

5


huy động từ cộng đồng. Những khó khăn hiện tại của khu vực nông thôn
khiến việc triển khai cần phải có những lựa chọn mục tiêu, bước đi phù hợp
khi việc thực hiện chương trình, hướng tới hoàn thành là xã nông thôn mới
theo các tiêu chí về nông thôn mới.
Trong bối cảnh chính sách và thực tiễn nói trên, việc lựa chọn đề tài
“Vai trò của vốn xã hội trong xây dựng Nông thôn mới” có ý nghĩa cấp thiết
về mặt thực tiễn và lý luận. Về mặt thực tiễn, nghiên cứu vai trò vốn xã hội
trong xây dựng Nông thôn mới sẽ giúp chúng ta sẽ hiểu sâu hơn về các mối
quan hệ và các thể chế của địa phương, vai trò của chúng đối với phát triển
nông thôn, đặc biệt là xây dựng nông thôn mới. Về mặt lý luận, quá trình xây
dựng Nông thôn mới cũng là một “phòng thí nghiệm” cho phép nhận diện lại
những nguyên tắc lý luận và nội dung của vấn đề vốn xã hội.
2. Câu hỏi nghiên cứu
- Những kiểu VXH nào thực sự nổi bật tại địa bàn nghiên cứu?
- Vai trò của VXH đối với xây dựng Nông thôn mới ở địa bàn nghiên cứu như
thế nào?
3. Mục đích v nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm tìm hiểu vai trò của vốn xã hội trong Chương trình xây

dựng nông thôn mới tại xã Thượng Mỗ, huyện Đan Phượng, thành phố Hà
Nội ở các nội dung về xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế nông thôn.
Từ đó, đề xuất các giải pháp phù hợp để phát huy vai trò của vốn xã hội trong
việc triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới tại địa bàn nghiên cứu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích và làm rõ vai trò của VXH trong xây dựng Nông thôn mới;
- Đề xuất một số giải pháp để phát huy hơn nữa vai trò của VXH trong xây
dựng Nông thôn mới.

6


4. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của VXH trong việc xây dựng Nông
thôn mới
- Khách thể nghiên cứu: đại diện hộ gia đình, cán bộ quản lý thôn - xã, đại
diện các ban – ngành – đoàn thể, trưởng dòng họ, các tổ chức xã hội tự nguyện …
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu trường hợp xã Thượng Mỗ, huyện
Đan Phượng, thành phố Hà Nội từ khi triển khai thực hiện NTM đến thời
điểm nghiên cứu và giới hạn nội dung nghiên cứu vai trò của VXH trong việc
hoàn thiện các tiêu chí về cơ sở hạ tầng, trong phát triển kinh tế (tín dụng
nông thôn, phát triển sản xuất) của địa bàn nghiên cứu.
+ Thời gian nghiên cứu: 2010 - 2013
5. Giả thuyết nghiên cứu
- Vốn xã hội không chỉ tồn tại dưới hình thức các liên kết truyền thống
(họ hàng, gia đình …) mà còn cả những hình thức liên kết mới: các tổ chức và
đoàn thể tự nguyện …
- VXH có thể giữ vai trò năng động và tích cực trong xây dựng Nông
thôn mới
6. Phƣơng pháp nghiên cứu

Nghiên cứu chủ yếu sử dụng các phương pháp định tính:
- Phân tích tài liệu thứ cấp (báo cáo tổng kết của xã, BCTK của
Chương trình NTM cấp xã, BCTK của các hội, đoàn thể …).
- Phỏng vấn sâu: Tiến hành phỏng vấn sâu 30 trường hợp tại địa bàn
nghiên cứu, bao gồm đại diện hộ gia đình, đại diện một số tổ chức/ hội tự
nguyện, đại diện dòng họ và chính quyền.
Đặc điểm nhân khẩu của người được phỏng vấn
Trong tổng số 30 người được phỏng vấn, có 14 người là nam và 16
người là nữ. Đa số các trường hợp phỏng vấn đều nằm trong độ tuổi lao động,
chỉ có 4 người là nằm ngoài độ tuổi lao động.

7


Những người được lựa chọn phỏng vấn phần lớn có thời gian sinh sống
ổn định và lâu dài tại xã Thượng Mỗ. Có 02 trường hợp phỏng vấn là nữ ở địa
phương khác lấy chồng về xã thì cũng đã cư trú tại địa bàn từ 18 đến 26 năm.
Do vậy, những người được phỏng vấn đều có sự am hiểu về văn hóa, lối sống
của địa phương.
Về nghề nghiệp của người trả lời, do mục tiêu của đề tài là tìm hiểu vốn
xã hội của người dân trong bối cảnh xây dựng nông thôn mới nên nghiên cứu
đã lựa chọn các trường hợp phỏng vấn mang tính chất đại diện cho các hoạt
động nghề nghiệp đang diễn ra trên địa bàn nghiên cứu. Trong đó, số người
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao, bên cạnh đó là những
trường hợp làm công chức, viên chức Nhà nước và hoạt động sản xuất, buôn
bán nhỏ (Bảng 1).
Bảng 1: Nghề nghiệp của ngƣời trả lời
Nghề nghiệp

Trƣờng hợp


Công chức, viên chức

6

Buôn bán, sản xuất nhỏ

6

Nông dân

18

Tổng số

30

- Các dữ liệu thu thập được sẽ được tổng hợp, nhập, xử lý bằng phần
mềm chuyên dụng trong khoa học xã hội là NVIVO 8.0 theo quy trình sau:
nhập dữ liệu (là nội dung phỏng vấn sâu các trường hợp nghiên cứu) vào
chương trình NVIVO; tạo các trường hợp để tập hợp các dữ liệu vào một
nhóm và tạo các giá trị liên quan; xây dựng khung phân tích các thông tin thu
được từ thực địa, gắn với khung phân tích vấn đề của đề tài; tạo các và mã
hóa thông tin; xem lại các thông tin đã được mã hóa và biểu diễn các mối
quan hệ từ thông tin được mã hóa.

8


7. Khung phân tích


Điều kiện Kinh tế - xã hội

Chương trình xây dựng
nông thôn mới

Vai trò của Vốn xã hội
trong xây dựng nông thôn
mới

Xây dựng
hạ tầng
nông thôn

Phát
triển sản
xuất

9

Cung cấp
tín dụng
nông thôn


PHẦN 2
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận

1.1. Bối cảnh thực hiện Chƣơng trình MTQG về xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2011 – 2020 ở Việt Nam
Chương trình nông thôn mới được Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
và Ban Kinh tế Trung ương Đảng khởi xướng vào năm 2001 3 với ban đầu là
12 xã được lựa chọn làm điểm. Sau gần 10 năm thử nghiệm, từ một Chương
trình cấp bộ nay đã phát triển thành một chương trình của Chính phủ 4. Để cụ
thể hóa quá trình thực hiện chương trình, chính phủ đã ban hành bộ tiêu chí
quốc gia về nông thôn mới theo quyết định 491 ngày 16/4/2009 và quyết định
800 ngày 4/6/2010 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt chương trình mục tiêu
quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020.
Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X cũng đã ra
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05-8-2008 về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn. Ở nghị quyết này, vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân
lần đầu tiên được đề cập một cách cơ bản và toàn diện, hướng tới phát triển
nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững.
Để có cơ sở thực tiễn trước khi triển khai trên diện rộng, Ban Bí thư TW
Đảng (Khóa X) đã quyết định thành lập Ban Chỉ đạo thí điểm chương trình
xây dựng nông thôn mới. Đề án về chương trình thí điểm mô hình nông thôn
mới được xây dựng và thông qua, đề ra 5 quan điểm trong thực hiện Chương
3

Ban Kinh tế Trung ương Đảng, 2001, chỉ thị 49 về Xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới
Đỗ Kim Chung, Một số vấn đề cần hoàn thiện trong triển khai chương trình nông thôn mới ở Việt nam, Kỷ
yếu hội thảo “ Xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Đại học Nông
nghiệp Hà nội
4

10



trình xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới là: (1) Phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, các nội dung cụ thể của Chương trình trên địa bàn phải
được nhân dân địa phương dân chủ bàn bạc, quyết định; (2) Dựa vào nội lực
của cộng đồng là chính với sự hỗ trợ, giúp đỡ của chính quyền các cấp; (3)
Phối hợp, kế thừa, phát huy kết quả của các chương trình, dự án đã và đang
thực hiện trên địa bàn, những cơ sở hạ tầng đã được xây dựng; (4) Xây dựng
nông thôn mới là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị; (5) Trong triển khai xây
dựng thí điểm mô hình nông thôn mới được phép thực hiện một số cơ chế,
chính sách đặc thù do các cơ quan có thẩm quyền ban hành.
Đề án chọn ra 11 xã ở 11 tỉnh, thành phố để thực hiện thí điểm xây dựng
mô hình nông thôn mới, các xã được chọn là những xã đại diện cho cho các
vùng kinh tế- văn hóa khác nhau của cả nước với thời gian thực hiện đề án là
3 năm, từ năm 2009 đến năm 2011.
Nghị quyết số 26 - NQ/TW của BCH Trung ương Đảng đã đưa ra mục
tiêu: “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội hiện đại, cơ
cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với
phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông
thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân được nâng cao, môi trường
sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của
Đảng được tăng cường”.
Nội dung của xây dựng nông thôn mới được cụ thể hóa trong quyết định
800/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 4/6/2010. Chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng nông thôn mới sẽ được thực hiện trong giai đoạn 2010 –
2020 với 11 nội dung bao gồm: qui hoạch xây dựng nông thôn mới; phát triển
hạ tầng kinh tế xã hội; chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu
nhập; giảm nghèo và an sinh xã hội; đổi mới và phát triển các hình thức tổ
chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn; phát triển giáo dục – đào tạo ở nông

11



thôn; phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe cư dân nông thôn; xây dựng đời sống
văn hóa, thông tin và truyền thông nông thôn; cấp nước sạch và vệ sinh môi
trường nông thôn; nâng cao chất lượng tổ chức Đảng và chính quyền, đoàn
thể chính trị - xã hội trên địa bàn; giữ vững an ninh, trật tự xã hội nông thôn.
Ngày 16/4/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định 491/QĐ-TTg
về Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Theo quyết định này, xác định xã
nông thôn mới gồm 19 tiêu chí được chia thành 5 nhóm: qui hoạch xây dựng
nông thôn mới (1 tiêu chí); nhóm Xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước
hiện đại (8 tiêu chí); kinh tế và tổ chức sản xuất (4 tiêu chí); văn hóa, xã hội
môi trường (4 tiêu chí); hệ thống chính trị (2 tiêu chí). Trong quyết đinh này
cũng đưa ra tiêu chí để xác định huyện nông thôn mới và tỉnh nông thôn mới.
Huyện đạt tiêu chí huyện nông thôn mới khi 75% số xã trong huyện đạt xã
nông thôn mới; và tỉnh nông thôn mới khi 80% số huyện trong tỉnh đạt huyện
nông thôn mới.
Như vậy, có thể thấy chương trình mục tiêu quốc xây dựng nông thôn mới
hướng tới mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn một cách toàn diện.
Nguyên tắc xây dựng nông thôn mới: xây dựng nông thôn mới theo
phương châm phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư địa phương là
chính, Nhà nước đóng vai trò định hướng, ban hành các tiêu chí, quy chuẩn xã
đặt ra các chính sách, cơ chế hỗ trợ và hướng dẫn. Các hoạt động cụ thể do
chính cộng đồng người dân ở thôn, xã bàn bạc dân chủ để quyết định và tổ
chức thực hiện.
Xây dựng nông thôn mới được thực hiện theo phương châm thực hiện
bằng nội lực cộng đồng địa phương là chính, nhà nước hỗ trợ một phần trực
tiếp cho các xã điểm để phát huy sự đóng góp của người dân và cộng đồng.
Cho nên, nguyên tắc huy động vốn để thực hiện đề án xây dựng nông thôn
mới: huy động tối đa nguồn lực của địa phương để tổ chức triển khai thực
12



hiện đề án.
Tổng kết thực hiện chương trình tại 11 xã điểm cho thấy và kết quả khảo
sát tại 3 xã điểm của Viện Kinh tế Việt nam5 cho thấy: việc thực hiên chương
trình hướng tới mục tiêu hoàn thành 19 tiêu chí xã nông thôn mới trong thời
gian ngắn, trong khi nguồn lực người dân và cộng đồng hạn chế nên đã huy
động quá sức của người dân. Ở Tân Thịnh, từ năm 2012 đến nay chính quyền
xã đã không huy động vốn từ người dân để thực hiện thêm công trình nào nữa
với lý do: để khoan sức dân. Do đó, xây dựng nông thôn mới cần thời gian để
thực hiện cùng với sự lựa chọn bước thực hiện phù hợp điều kiện của mỗi địa
phương.
Với các tiêu chí đã hoàn thành vẫn cần được duy trì, và tiếp tục nâng cao;
đối với các hạng mục thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội khi đưa vào sử
dụng cũng cần vốn để vận hành, duy tu, bảo dưỡng, và vốn để thực hiện việc
này sẽ được huy động từ người dân. Khó khăn nhất là tiêu chí thu nhập, nhất
là đối với các xã thuần nông với đa số người dân có thu nhập chủ yếu từ sản
xuất nông nghiệp, những biến động về thời tiết, dịch bệnh, giá nông sản...
khiến thu nhập của nông dân luôn biến động. Biến động lớn trong sản xuất tác
động trực tiếp tới tiêu chí thu nhập, giảm nghèo và huy động nguồn lực ở khu
vực nông thôn.
Các tiêu chí thuộc “phần cứng” của chương trình như kết cấu hạ tầng dễ
thực hiện khi có vốn; tuy nhiên các tiêu chí “phần mềm” như trình độ kỹ năng
sản xuất, văn hóa, ý thức cộng đồng thì cần thời gian dài để thực hiện. Vì vậy,
cần xác định xây dựng nông thôn mới phải là quá trình lâu dài và liên tục, để
từ đó xây dựng kế hoạch thực hiện, lựa chọn hạng mục ưu tiên phù hợp với
điều kiện, năng lực và nhu cầu của người dân, đảm bảo tính liên tục của
chương trình.
5

TS Trần Minh Yến, Xây dựng nông thôn mới, khảo sát và đánh giá, nxb khoa học xã hội, 2013


13


1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Vốn xã hội
Vốn xã hội (social capital) được quan niệm là một loại vốn, bên cạnh
các loại vốn khác như vốn kinh tế, vốn văn hoá, vốn con người. Lyda Judson
Hanifan được coi là người đầu tiên đưa ra khái niệm vốn xã hội vào năm
1916. Ông dùng khái niệm vốn xã hội để chỉ tình thân hữu, sự thông cảm lẫn
nhau, cũng như tương tác giữa các cá nhân hay gia đình. Tuy nhiên, khái niệm
vốn xã hội chỉ thực sự trở thành khái niệm khoa học quan trọng trong tác
phẩm “Các hình thức của vốn” của chính Bourdieu năm 1986 (Smith &
Kulynch, 2002: 154-155; Portes, 1998: 3). Đến nay, đã có nhiều tác giả đưa ra
định nghĩa và cách giải thích khác nhau về vốn xã hội (Bourdieu, 1986;
Coleman, 1988; Fukuyama, 2001, 2002; Lin, 1999, , 2001; Portes, 1998;
Putnam, 1995, , 2000). Phân tích một cách khái quát các định nghĩa, cũng như
các cách giải thích này đã cho thấy giữa các tác giả vừa có sự thống nhất lại
vừa có cách hiểu khác nhau về vốn xã hội. Trước hết, các tác giả đều thống
nhất với nhau ở chỗ cho rằng vốn xã hội gắn liền với mạng lưới xã hội, quan
hệ xã hội, chẳng hạn, vốn xã hội kết nối với mạng lới xã hội tương đối bền
vững (Bourdieu, 1986: 248-249), vốn xã hội nằm trong quan hệ xã hội
(Coleman, 1988: 98-100), vốn xã hội ở trong mạng lưới xã hội Lin (2001:
24-25), mạng lưới xã hội là một thành tố của vốn xã hội (Putnam, 2000: 19),
cần quan sát vốn xã hội thông qua mạng lưới xã hội (Portes, 1998: 8).
Điểm gặp nhau thứ hai của nhiều tác giả khi bàn về vốn xã hội là việc
họ dùng khái niệm nguồn lực để định nghĩa vốn xã hội. Điểm thống nhất thứ
ba giữa các tác giả là ở chỗ họ đều quan niệm vốn xã hội được tạo ra thông
qua việc đầu tư vào các quan hệ xã hội, hoặc mạng lưới xã hội, và các cá nhân
có thể sử dụng vốn xã hội để tìm kiếm lợi ích. Điểm thống nhất thứ tư giữa

nhiều tác giả khi đề cập đến vốn xã hội là vấn đề sự tin cậy và quan hệ qua
lại/sự có đi-có lại (trust and recipocity). Bourdieu (1986: 248-249) định nghĩa
vốn xã hội là nguồn lực dựa trên mạng lưới được thừa nhận hoặc quen biết,

14


trong đó các thành viên tương tác qua lại với nhau. Coleman (1988: 101 -108)
khẳng định trách nhiệm, sự mong đợi và lòng tin là các hình thức của vốn xã
hội. Chính trách nhiệm và mong đợi lẫn nhau đã tạo nên sự tin cẩn giữa các cá
nhân. Fukuyama (2001: 7-8) quan niệm vốn xã hội gồm có chuẩn mực của sự
có đi có lại, và vốn xã hội biểu thị sự tin cậy. Portes (1998: 7-8) lại nói sự trao
đổi qua lại và lòng tin là những nguồn gốc của vốn xã hội.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng khái niệm VXH của R.
Putnam để làm cơ sở nghiên cứu và đánh giá về VXH tại địa bàn nghiên cứu.
VXH theo quan niệm của Putnam được coi là công cụ để hướng tới sự thịnh
vượng, đơn giản hóa sự hợp tác. Ông cho rằng VXH biểu thị cam kết công
dân và là công cụ hướng tới sự thịnh vượng. Theo Putnam, VXH tăng cường
các chuẩn mực phổ biến, VXH làm đơn giản hóa sự hợp tác, VXH cung cấp
khuôn mẫu văn hóa cho các giải pháp của hành động tập thể. Putnam (2000)
còn nhấn mạnh rằng VXH đưa đến hỗ trợ lẫn nhau, sự hợp tác và lòng tin.
1.2.2. Nông thôn mới
Thảo luận nhiều về nông dân và xã hội nông thôn, nhưng khái niệm
“nông thôn mới” mãi đến năm 1984 mới xuất hiện lần đầu tiên trong một bài
nói chuyện của một nhà lãnh đạo cao cấp về nông nghiệp của Đảng tại Viện
Xã hội học (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam). Nêu bật tầm quan trọng của
khu vực nông thôn đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung,
đồng chí Vũ Oanh (Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương và là tác giả bài
viết) nhấn mạnh: nếu không nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc xây
dựng nông thôn mới, chúng ta sẽ không thực hiện được đường lối xây dựng

chủ nghĩa xã hội của Đảng, rằng chúng ta có khuyết điểm là coi nhẹ các vấn
đề xã hội, và coi nhẹ vấn đề xã hội là chưa thấu suốt, chưa hiểu toàn diện mục
tiêu của Đảng (Dẫn lại Bùi Quang Dũng, 2013).
Khái niệm “nông thôn mới” lần đầu tiên được nhắc đến ở Nghị quyết
26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá X, về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nghị quyết 26 đưa
ra mục tiêu: "Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện
15


đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp
với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông
thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường
sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của
Đảng được tăng cường". 6
Xây dựng nông thôn mới dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường
nhằm tạo ra những giá trị mới của nông thôn Việt Nam: phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; một nông thôn hiện đại hàm chứa
những giá trị kinh tế mới, có văn hóa nông thôn văn minh, hiện đại nhưng vẫn
giữ gìn, bảo tồn được bản sắc văn hóa dân tộc, và ở đó những người nông dân
vừa là chủ thể sáng tạo, vừa được thụ hưởng những giá trị vật chất, tinh thần
do chính họ tạo ra. Ở nước ta hiện nay, xây dựng nông thôn mới là một cuộc
vận động lớn, một chương trình “khung” toàn diện nhất để cộng đồng chung
sức xây dựng một nông thôn mới hiện đại, phát triển toàn diện, không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân nông thôn.
2. Lý thuyết áp dụng
Lý thuyết Vốn xã hội
Sự phân tích VXH từ một quan điểm lý thuyết tập trung vào việc đo
lường VXH. Do rất khó khăn trong việc đo lường trực tiếp trong các nghiên
cứu thực nghiệm vì cấu trúc trừu tượng và hiệu ứng mạnh mẽ của VXH.

Nhiều học giả cho rằng nên đánh giá VXH bằng phương pháp định tính, do
6

Khái niệm “nông thôn mới” có nội hàm gần với Phong trào làng mới (Saemaul Undong) diễn ra ở Hàn
Quốc những năm cuối thập kỷ 60 của thế kỷ 20. Tuy nhiên, “làng” ở đây không đơn thuần là một ngôi làng
mà nó còn mang một ý nghĩa rộng hơn đó là không gian sống của cả khu vực đô thị và khu vực nông thôn,
nói cách khác nó là một cộng đồng xã hội. Phong trào làng mới là hướng tới một cộng đồng mới hơn, tốt đẹp
hơn. Đây là phong trào tổng động viên toàn thể cộng đồng cùng chung tay cải tổ, thay đổi và phát triển cộng
đồng mới hơn, tốt đẹp hơn.
Chính phủ Hàn Quốc hướng đến xây dựng một “cuộc sống thịnh vượng” thông qua phong trào. Đó chính là
sự thịnh vượng về vật chất và tinh thần cho cá nhân mỗi người và của cả cộng đồng, cho thế hệ hôm nay và
mai sau dựa trên bốn nguyên tắc: cuộc sống vật chất phải sung túc; đề cao sinh hoạt văn hóa có phẩm chất và
thoải mái; mọi người phải biết sống vì nhau; xây dựng một cuộc sống thịnh vượng không chỉ vì chùng ta hôm
nay mà còn vì con cháu mai sau. Tinh thần của phong trào làng mới được xác định bằng ba tiêu chí cơ bản là:
cần cù, tự lực và hợp tác (Phạm Thị Oanh, 2011).
Phong trào làng mới ở Hàn Quốc được coi là mô hình phát triển nông thôn thành công nhất trên thế giới, nó
đã làm biến đổi toàn diện nông thôn Hàn Quốc từ một khu vực nghèo đói, lạc hậu trở thành một khu vực phát
triển năng động, giàu đẹp.

16


“giá trị của nó nằm chủ yếu trong tính hữu ích cho phân tích định tính của hệ
thống xã hội và cho những phân tích định lượng sử dụng những chỉ số định
tính” (Coleman 1990, trích trong Lin, 2001). Putnam (1993), Lin (2001) và
một số tác giả (Anirudh Krishna and Elizabeth Shrader, 1999) đã đưa ra một
cách tính toán để có thể đo lường VXH … .
Các phê phán về mặt lý thuyết tập trung vào những thiên lệch của các
khái niệm. Với Bourdier, câu hỏi đặt ra cho lý thuyết của ông là: Phải chăng
chỉ có một số tối thiểu những cá nhân nào đó mới có được một nguồn VXH

hữu dụng trong khi đa số các cá nhân khác là không thể. Đối với Coleman,
phê phán tập trung vào khía cạnh ông đã quá chú trọng vào đầu tư giáo dục
của gia đình và dường như đã có sự thiên lệch và đồng nhất VXH với vốn con
người? Putnam bị chỉ trích là đã lẫn lộn nguyên nhân và kết quả. Trong lý
thuyết của ông đã cho thấy những điều tốt của xã hội là do nhiều VXH và
đương nhiên những điều xấu là do ít VXH, trong khi có khả năng là chính
những cái tốt lại tạo nên VXH và những cái xấu là tác nhân tiêu mòn nguồn
vốn ấy (Trần Hữu Dũng, 2006).
Sự phản bác đối với Fukuyama đã được thể hiện qua những bài viết của
Toshio Yamagishi cho rằng chính xã hội Nhật Bản lại không phải là xã hội có
lòng tin cẩn vào nhau vô điều kiện như là Fukuyama ám chỉ và thực sự họ
“chỉ có lòng tin vào nhau khi họ còn canh trừng được nhau và trừng phạt
nhau” (Yamagishi Toshio và Masako Kikuchi, 1999).
Những thảo luận về VXH còn tập trung vào việc ứng dụng VXH trong
mối tương quan với việc quản lý tài nguyên thiên nhiên hoặc khía cạnh quyền
lực đôi khi bị bỏ qua khi thảo luận về VXH. Trong việc tìm hiểu và nghiên
cứu về mối quan hệ của một nhóm, người ta nhận thấy mối quan hệ mạnh,
ràng buộc một nhóm có thể có những hiệu ứng tốt cho các cá nhân tham gia
nhóm nhưng cũng có thể gây ra những hậu quả tiêu cực cho các cá nhân này.
Hơn nữa, khi mạng lưới chặt chẽ trong một nhóm cũng có thể ngăn chặn các

17


cá nhân khác tiếp cận với nguồn lực hoặc tham gia nhóm. Và điều này có thể
đưa đến nạn phân biệt chủng tộc hoặc thái độ kỳ thị dân tộc, tôn giáo.
Bên cạnh mặt tích cực, VXH cũng có những tác động tiêu cực. Theo
Portes, VXH chứa đựng trong nó ít nhất là bốn hậu quả tiêu cực. Thứ nhất, đó
là sự loại trừ những người ngoài. VXH thường mang lại các cố kết bên trong
nhóm. Tuy nhiên, những cố kết như thế lại tạo ra khó khăn cho việc mở rộng

nhóm, đồng thời ngăn cản sự tham gia của những người bên ngoài. Thứ hai là
đòi hỏi thái quá đối với thành viên. Điều này có thể tốt nếu xét theo khía cạnh
tổ chức của nhóm. Nhưng mặt tiêu cực là ở chỗ nó hạn chế sang kiến của các
thành viên. Thứ ba là hạn chế tự do cá nhân. Thứ tư là việc hạ thấp chuẩn
mực của sự cách biệt trong nhóm. Vì VXH có xu hướng tạo ra cố kết, nó giữ
các cá nhân ở những vị thế ngang bằng nhau nên trong nhiều tình huống sự
thành công của một cá nhân làm xói mòn liên kết nhóm, và hơn nữa khi VXH
giữ các cá nhân ở những vị thế ngang bằng nhau, nó đã làm triệt tiêu tham
vọng và sự sang tạo của họ (Portes, Alejandro, 1998).
Fukuyama qua nghiên cứu của mình cũng đã chỉ ra tính hai mặt của
VXH. VXH trong các quan hệ họ hàng tạo ra sự trợ giúp hiệu quả cho doanh
nghiệp hoặc cho các cá nhân trong những thời điểm mà điều kiện kinh tế khó
khăn. Tuy nhiên, điều này cũng mang lại những hệ quả tiêu cực như thiếu tin
tưởng đối với người lạ, từ đó, gây khó khăn cho doanh nghiệp khi mà các
doanh nghiệp lớn mạnh, phát triển lên.
VXH với tư cách là mạng lưới xã hội của các cá nhân/ cộng đồng trong
cách họ ứng xử với nhau và với cả những tác động từ bên ngoài dựa trên các
chuẩn mực cư xử, các kỳ vọng thì cách tiếp cận nguồn vốn xã hội sẽ giúp giải
quyết những bài toán tập thể trong việc phối hợp sẽ giúp giải thích được sự
thất bại của các chiến lược phát triển.
Đối với các nước đang phát triển có chiều dày văn hóa và các hành vi của
cá nhân, tập thể bị ràng buộc bởi những định chế, quy ước hay những phong tục
tập quán thì việc có phản ứng mạnh với những dự án phát triển kinh tế được áp
đặt bởi những “người bên ngoài” thường sẽ dẫn đến những thất bại. Điều này đã
18


được kiểm chứng tại các nước châu Á, châu Phi. Và như vậy, với cấp độ vĩ mô,
chính phủ với các chính sách, thể chế của mình làm thế nào để có thể phát huy
được nội lực của từng cộng đồng, dân tộc hay cả nước vào việc thúc đẩy phát

triển kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Đề tài sẽ sử dụng lý thuyết VXH để tìm hiểu các vấn đề sau:
- Các cá nhân, là một thành viên của một gia đình, dòng họ hay một
cộng đồng, với tư cách là một sản phẩm có bối cảnh lịch sử cụ thể sẽ thừa
hưởng, gìn giữ và phát huy VXH của mình như thế nào?
- Cá nhân có tận dụng được lợi thế sẵn có trong các quan hệ của mình
để giải quyết những vấn đề của mình khi gặp khó khăn và sự chuyển đổi giữa
các loại vốn của cá nhân, gia đình, cộng đồng như thế nào?
- Cộng đồng phát huy nội lực của nhóm như thế nào? Sự tin cậy, chia
sẻ giá trị chung phải chăng là nhân tố cơ bản khiến cho người dân tham gia
tích cực vào chương trình xây dựng nông thôn mới, góp phần phát triển kinh
tế và kiện toàn cơ sở hạ tầng tại địa bàn nghiên cứu?
3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
3.1. Vấn đề vốn xã hội trong một số nghiên cứu quốc tế
Năm 1983, Pierre Bourdieu đã soạn thảo ra một lý thuyết riêng về vốn xã
hội. Bourdieu phân biệt ba loại vốn là: vốn kinh tế, vốn văn hóa và vốn xã hội.
Đối với kinh tế thì đó là tiền, những thứ được đổi thành tiền hoặc có thể chế
được, sở hữu được. Về vốn văn hóa, ông phân biệt qua ba trạng thái: Hàm chứa
trong bản than từng người, được khách quan hóa qua các sản phẩm văn hóa và
được thể chế hóa qua những chứng chỉ, bằng cấp. Vốn xã hội được ông định
nghĩa “Vốn xã hội là một thuộc tính của mỗi cá nhân trong xã hội và bất cứ ai
cũng có thể khai thác vốn xã hội nhằm đem lại các lợi ích kinh tế thông thường”
(Pierre Bourdieu, 1983). Như vậy hiểu theo một nghĩa thông thường thì vốn xã
hội của một cá nhân chính là mối quan hệ và vị thế của cá nhân đó trong xã hội
và thực chất nó là mạng lưới xã hội (social net) của cá nhân đó, trong các chiều
cạnh của quan hệ của một cá nhân. Theo nghĩa này, thì bất cứ một cá nhân có

19



mạng lưới quen biết (trực tiếp hay gián tiếp) lớn sẽ có nhiều cơ hội hơn trong
việc tìm kiếm và khẳng định vị trí/ vị thế của họ trong xã hội.
Bourdieu cho rằng mỗi cá nhân là sản phẩm của lịch sử, của giai cấp và
họ có những bất lợi, lợi thế mà mạng lưới cá nhân của họ mang lại. Cá nhân
có thể tạo thêm vốn xã hội cho mình bằng các hoạt động của bản thân và có
thể sử dụng vốn xã hội để chuyển hóa thành vốn kinh tế. Chính việc thiếu vốn
xã hội là nguyên nhân để một số cá nhân chịu sự chênh lệch trong xã hội.
Nhà xã hội học người Mỹ Jame Coleman (1926; dẫn lại Trần Hữu
Dũng, 2002) lại cho rằng vốn xã hội là một sự đóng góp tốt cho sự hình thành
của con người. Coleman cũng phân chia ra 3 loại vốn là vốn vật thể, vốn con
người và vốn xã hội. Theo ông, vốn con người được thể hiện qua việc cá nhân
được đào tạo những gì, các tri thức mà họ thu nhận được và những cái đó cấu
thành những tài nghệ, kỹ năng và khả năng thao tác của một các nhân. Theo
ông, vốn xã hội chính là sự tin cậy nhau của con người trong xã hội. Nó có giá
trị vì đã chứa đựng những liên hệ xã hội mang đặc tính của kênh truyền thống
và cuối cùng đó là những lề thói kèm theo trừng phạt. Theo Coleman (1988;
trong Trần Hữu Dũng, 2002) đã phân biệt vốn xã hội trong cộng đồng và gia
đình. Theo ông, vốn xã hội trong gia đình được biểu hiện dưới hình thức của
sự quan tâm, chia sẻ lẫn nhau của các thành viên trong gia đình và cũng tương
tự như vậy tại cộng đồng là mối liên hệ, quan tâm. Tin cậy chia sẻ giữa những
nhóm xã hội và các thiết chế xã hội. Trên thực tế, vốn xã hội trong gia đình và
xã hội cũng là những mạng lưới xã hội của cá nhân được đặt trên nền tảng của
sự tin cậy của con người trong xã hội. Như vậy, theo ông vốn xã hội trong gia
đình chỉ có thể có được và được tích lũy khi các thành viên trong gia đình
thực sự chia sẻ và quan tâm tới nhau. Theo quan điểm này thì có thể là một
gia đình rất giàu vốn tài chính nhưng có thể nghèo vốn xã hội nếu không có
sự quan tâm, chia sẻ và tin cậy lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình.
Cũng với quan điểm tương tự, việc các thành viên trong nhóm cũng như giữa
các nhóm xã hội với nhau có được sự tin tưởng và chia sẻ của cộng đồng mới
20



có thể phong phú lên. Coleman cũng có quan điểm giống Bourdieu là vốn xã
hội có thể là cụ thể hoặc tiềm ẩn, có thể chuyển hóa sang vốn kinh tế (có tính
chất hàng hóa công) và có thể được tăng thêm do sự nỗ lực của cá nhân.
Năm 1995 Nhà chính trị học người Mỹ Robert Putnam cũng đưa ra
cụm từ “vốn xã hội” trong một nghiên cứu của mình cảnh báo sự thay đổi của
xã hội thông qua tác phẩm nghiên cứu “Chơi bowlinh một mình”. Trong tác
phẩm này ông cũng dùng khái niệm về vốn xã hội đồng nhất như nhà xã hội
học Coleman, cho rằng vốn xã hội tức là mạng lưới xã hội và những liên hệ
qua lại trong xã hội cũng như những lề thói cho phép cá nhân hoặc tập thể giải
quyết các vấn đề, đạt mục tiêu, chia sẻ mà sự tham gia vào các hội, đoàn thể
là cần thiết để tạo sự tin cậy lẫn nhau giữa các thành viên trong xã hội.
Nhà chính trị học người Mỹ gốc Nhật, Francis Fukuyama đã có một số
tác phẩm bàn về vốn xã hội. Qua các tác phẩm “Điểm tận cùng của lịch sử”
(The end of History), “Tin cẩn” (Trust) và một số bài báo cũng về vấn đề này
ông đã phân tích “vốn xã hội” và dùng nó như một tiêu chí chủ chốt để so
sánh cơ cấu kinh tế và xã hội của các nước. Theo ông “Chất lượng đời sống,
cũng như khả năng cạnh tranh của một quốc gia, là tùy thuộc vào một đặc
tính văn hóa duy nhất và lan tỏa trong quốc gia ấy, đó là mức độ tin cẩn
trong xã hội” (Fukuyama, 1995). Theo ông, vốn xã hội xuất hiện một cách
ngẫu nhiên như là kết quả của một trò chơi có tên là “Người tù”. Cũng tương
tự như định luật Metcafe đã chỉ rõ khi các cá nhân tạo mạng lưới. Chỉ với một
người thì không có được bất kỳ một kết quả gì, chỉ khi có hai người cùng
tham gia và trò chơi đạt được một kết quả của sự hợp tác, hoặc như bạn chỉ có
một máy tính (hay máy điện thoại) thì sự tồn tại đó là vô nghĩa. Nhưng nó sẽ
trở thành một mạng lưới khi chúng ta có từ 2 máy tính (hoặc hai điện thoại trở
lên) mà những máy đó lại được nối mạng với nhau thì kết quả của nó là trở
nên một thế mạnh đủ để khả năng làm thay đổi một thực tế nào đó.
Như vậy có thể nói vốn xã hội – theo Fukuyama được phát sinh một

cách ngẫu nhiên và đó là kết quả của các mối tương tác được lặp đi lặp lại và
21


điều quan trọng mà ông nhấn mạnh rằng các mối tương tác đó chỉ hữu dụng
và có tác động tích cực khi các mối quan hệ đó được đặt trên một nền tảng tin
cậy lẫn nhau giữa các thành viên của cộng đồng cùng tham gia vào các mối
quan hệ này.
Những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 (thời kỳ Minh Trị), triết lý
phát triển của nước Nhật là “Công nghệ phương Tây – đạo lý Nhật Bản” và
nước Nhật hơn 100 năm nay đi theo con đường đó: hiện đại hóa theo phương
Tây nhưng trên nền tảng giá trị văn hóa của dân tộc. Fukuyama đã chứng
minh rằng nước Nhật phát triển được như ngày nay là do người Nhật có sự tin
cẩn cao đối với nhau. Trong một chừng mực nhất định, Fukuyama cũng đã có
những nhận xét rằng trong các tổ chức tôn giáo thì sự tin cậy được tuân thủ
một cách tuyệt đối và như những ví dụ điển hình cho lòng tin của người tham
gia vào nhóm tôn giáo nào đó. Ông cho rằng lòng tin trong tôn giáo còn được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác qua việc xã hội hóa liên quan đến phong
tục nhiều hơn là sự duy lý. Trong bài Vốn xã hội và xã hội dân sự, Fukuyama
đã đưa ra một sơ đồ biểu diễn cho phạm vi của lòng tin – một trong những
thành tố quan trọng mà theo ông từ đó tạo nên vốn xã hội trong một xã hội.
Theo ông “tất cả các nhóm tiêu biểu cho vốn xã hội đều có một phạm vi của
niềm tin, có nghĩa là chuẩn mực hợp tác của nhóm người đó rất có tác dụng”
(Fukuyama, 1999) và “Nếu vốn xã hội của một nhóm tạo ra ngoại ứng tích
cực thì các tín đoàn có thể rộng lớn hơn bản thân nhóm đó” (Fukuyama,
1999). Như vậy, niềm tin giữa những cá nhân, nhóm trong xã hội có thể có
những tác động lớn hơn đến các lĩnh vực mà bản thân cá nhân, nhóm cũng
không thể lường hết được. Fukuyama cho rằng vốn xã hội và vốn con người
có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Đây là một sự tiến bộ hơn so với Coleman và
các tác giả trước đó chỉ nói đến sự liên hệ một chiều từ vốn xã hội đến vốn

con người. Ông cũng đưa thêm nhận định là vốn xã hội có thể xấu hoặc tốt
cũng tương tự như vốn con người và vốn vật thể.

22


×