Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

(Khóa luận tốt nghiệp) Nghiên cứu tuyển chọn cây đầu dòng loài Tre Mai (Dendrocalamus yunnanicusHsueh et D. Z. Li) ở tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Bắc Kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 80 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

TRIỆU ĐÌNH HOÀNG

NGHIÊN CỨU TUYỂN CHỌN CÂY ĐẦU DÒNG
LOÀI TRE MAI (Dendrocalamus yunnanicus
Hsueh et D. Z. Li) Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
VÀ TỈNH BẮC KẠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LÂM HỌC

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

TRIỆU ĐÌNH HOÀNG

NGHIÊN CỨU TUYỂN CHỌN CÂY ĐẦU DÒNG
LOÀI TRE MAI (Dendrocalamus yunnanicus
Hsueh et D. Z. Li) Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
VÀ TỈNH BẮC KẠN
Ngành: Lâm học
Mã số: 8.62.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LÂM HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thị Thu Hà


THÁI NGUYÊN - 2018


i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số liệu và kết
luận nghiên cứu trình bày trong luận văn chưa từng được công bố ở các nghiên cứu khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2018
Tác giả

Triệu Đình Hoàng


ii
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thành luận văn, ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi đã
nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình của các Thầy giáo, Cô giáo, các tổ
chức, cá nhân.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS.TS. Trần Thị Thu Hà đã bồi
dưỡng, khuyến khích và hướng dẫn tôi đi sâu nghiên cứu về lĩnh vực hết sức thú vị và có
ý nghĩa qua luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy giáo, cô giáo trong phòng Quản lý đào
tạo sau đại học, khoa Lâm nghiệp đã luôn động viên, giúp đỡ tôi nhiệt tình và chỉ
dẫn nhiều ý kiến chuyên môn quan trọng.
Mặc dù bản thân có nhiều cố gắng nhưng trong quá trình thực hiện đề tài
không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý
báu để bản luận văn được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, tôi xin cam đoan các kết quả, số liệu được trình bày trong luận văn

là trung thực, khách quan.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2018
Tác giả

Triệu Đình Hoàng


iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................ii
MỤC LỤC ................................................................................................................. iii
DANH MỤC BẢNG BIỂU ........................................................................................ v
DANH MỤC HÌNH ẢNH ......................................................................................... vi
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ............................................................................... 2
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ...................................................................... 4
1.1.

Cơ sở khoa học ................................................................................................. 4

1.1.1. Khái quát về cây Tre Mai ................................................................................. 4
1.1.2. Đặc điểm phân bố ............................................................................................. 4
1.1.3. Đặc điểm hình thái ........................................................................................... 4
1.1.4. Đặc điểm sinh thái ............................................................................................ 5
1.1.5. Giá trị kinh tế.................................................................................................... 6
1.1.6. Cơ sở khoa học về cây đầu dòng ...................................................................... 7
1.2.


Tình hình nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam ............................................. 7

1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới liên quan về loài ....................................... 7
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam liên quan đến loài .................................... 15
1.2.3. Tổng quan về khu vực nghiên cứu ................................................................. 24
1.2.4. Đặc điểm tự nhiên của khu vực nghiên cứu tại Bắc Kạn ............................... 26
1.2.5. Nhận xét và đánh giá chung điều kiện khu vực nghiên cứu .......................... 30
Chương 2.NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............................ 33
2.1.

Đối tượng và phạmvi nghiên cứu ................................................................... 33

2.2.

Địa điểm và thời gian tiến hành ..................................................................... 33

2.3.

Nội dung nghiên cứu ...................................................................................... 33

2.4.

Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 33

2.4.1. Ngoại nghiệp .................................................................................................. 34
2.4.2. Nội nghiệp ...................................................................................................... 36


iv
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .................................. 38

3.1.

Đặc điểm sinh học cây Tre Mai ..................................................................... 38

3.1.1. Đặc điểm hình thái cây Tre Mai .................................................................... 38
3.2. Đánh giá thực trạng phát triển cây Tre Mai ở hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc
Kạn.................................................................................................................. 44
3.2.1. Đặc điểm sinh trưởng câyTre Mai theo vùng sinh thái ................................. 45
3.2.2. Đặc điểm địa hình nơi gây trồng cây Tre Mai .............................................. 46
3.2.3. Hiện trạng rừng cây Tre Mai phân theo tuổi cây .......................................... 48
3.3.

Đánh giá các lâm phần cây Tre Mai tuyển chọn cây đầu dòng .................... 48

3.3.1. Tuyển chọn cây đầu dòng theo phương pháp điều tra thống kê .................... 51
3.3.2. Tuyển chọn cây đầu dòng theo phương pháp 5 cây so sánh .......................... 52
3.3.3. Các tiêu chí lựa chọn cây đầu dòng................................................................ 57
3.4.

Biện pháp kỹ thuật lâm sinh và quản lý cây đầu dòng để phục vụ công
tác xây dựng rừng giống, vườn giống ............................................................ 57

3.4.1. Biện pháp kỹ thuật lâm sinh ........................................................................... 57
3.4.2. Biện pháp quản lý cây đầu dòng .................................................................... 58
Chương 4.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .............................................................. 59
4.1.

Kết luận .......................................................................................................... 59

4.1.1. Đặc điểm sinh học của loài cây Tre Mai ....................................................... 59

4.1.2. Thực trạng phát triển cây Tre Mai tại hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kan ..... 59
4.1.3. Đánh giá các lâm phần cây Tre Mai tuyển chọn cây đầu dòng chọn lọc
các khóm cây vượt trội về đường kính và chiều cao…………………59
4.1.4. Đề xuất các biện pháp kỹ thuật lâm sinh và quản lý cây đầu dòng để
phục vụ cho công tác xây dựng rừng giống và vườn giống ........................... 60
4.2. Kiến nghị ............................................................................................................ 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 61
PHỤ LỤC


v
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1.

Đường kính và độ dài lóng cây Tre Mai .............................................. 40

Bảng 3.2.

Bề dày vách thân khí sinh của cây Tre Mai ......................................... 40

Bảng 3.3.

Đặc điểm lá của cây Tre Mai................................................................. 42

Bảng 3.4.

Đặc điểm của mo thân cây Tre Mai ...................................................... 43

Bảng 3.5.


Sinh trưởng của cây Tre Mai theo vùng sinh thái ................................. 45

Bảng 3.6.

Đặc điểm địa hình và sinh trưởng cây Tre Mai tại 2 tỉnh Thái
Nguyên, Bắc Kạn................................................................................... 46

Bảng 3.7.

Hiện trạng cây Tre Mai phân bố theo tuổi tại tỉnh Thái Nguyên, Bắc
Kạn ......................................................................................................... 48

Bảng 3.8.

Kết quả điều tra tình hình sinh trưởng các lâm phần cây đầu dòng
loài cây Tre Mai..................................................................................... 50

Bảng 3.9.

Kết quả điều tra độ vượt của các cây đầu dòng ..................................... 51

Bảng 3.10. Kết quả tính độ vượt của cây đầu dòng loài cây Tre Mai ..................... 52
Bảng 3.11. Kết quả xếp loại cây đầu dòng tại Thái Nguyên ................................... 54
Bảng 3.12. Kết quả xếp loại cây đầu dòng dự tuyển tại tỉnh Bắc Kạn .................... 56


vi
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 3.1.


Các loại rễ của cây Tre Mai................................................................... 38

Hình 3.2.

Thân khí sinh và bụi cây Tre Mai.......................................................... 39

Hình 3.3.

Mắt mầm Tre Mai và thân cây Tre Mai non ......................................... 40

Hình 3.4.

Đo bề dày vách thân khí sinh cây Tre Mai ............................................ 41

Hình 3.5.

Cành chét cây Tre Mai .......................................................................... 41

Hình 3.6.

Cành và lá cây Tre Mai ........................................................................ 42

Hình 3.7.

Hình thái Mo cây Tre Mai ..................................................................... 43


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Cải thiện giống cây rừng được xem là một lĩnh vực khoa học đóng vai trò hết
sức quan trọng trong việc nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng. Một chương
trình cải thiện giống muốn đạt được kết quả tốt không chỉ dừng lại ở chỗ có những
nguồn giống được cải thiện mà điều quan trọng tiếp theo là cần phải sản xuất được
những giống đó trên quy mô lớn để phục vụ lâu dài cho các chương trình trồng rừng
nhằm đáp ứng được các giá trị xã hội, cho năng suất và giá trị kinh tế cao. Vì vậy
các nhà chọn tạo giống cây trồng một mặt vừa áp dụng các biện pháp chọn lọc, một
mặt vừa nghiên cứu gây tạo giống mới, nhất là đối với các giống cây được trồng
rộng rãi hiện nay có giá trị kinh tế cao. Áp dụng các phương pháp chọn lọc đã có
được nhiều giống cây trồng mới có năng suất, chất lượng cao, có khả năng thích
ứng với những vùng sinh thái có điều kiện hoàn cảnh khắc nghiệt và nhiều đặc tính
mới khác. Việc xây dựng rừng giống và vườn giống vẫn là một biện pháp quan
trọng trong các chương trình cải thiện giống cây rừng và vẫn được áp dụng phổbiến
ngay cả khi đã sản xuất được giống này bằng con đường sinh dưỡng.
Trong chương trình cải thiện giống cây rừng, việc thu hái hạt giống cây đầu
dòngđể thiết lập làm rừng giống từ hạt được coi là hướng đi chủ yếu trong giai đoạn
đầu của quá trình cải thiện giống. Các rừng giống sau khi được tỉa thưa di truyền sẽ là
nơi cung cấp hạt giống được cải thiện cho sản xuất và tạo lập được quần thể chọn
giống có mức độ di truyền cao phục vụ cho công tác cải thiện giống ở các mức độ cao
hơn. Đồng thời tiến hành xây dựng các khảo nghiệm tăng thu di truyền sử dụng
nguồn hạt giống dùng trong sản xuất đại trà và chọn được những giống có giá trị cao
phục vụ cho công tác trồng rừng trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài.
Trong các phương pháp chọn lọc tạo ra giống mới hiện nay thì phương pháp
chọn lọc cây đầu dòng được áp dụng rộng rãi. Nguồn giống thu nhận được từ
phương pháp chọn lọc cây đầu dòng đã khẳng định được chất lượng giống và đã
được thực nghiệm trong các chương trình trồng rừng hiện nay. Phương pháp chọn
lọc cây đầu dòng là phương pháp chọn ra những cây có sức sống cao, sinh trưởng
tốt và các giống này đòi hỏi phải là những giống có độ vượt hơn hẳn so với giống



2
đại trà. Công tác chọn giống là rất quan trọng, tạo ra những dòng tốt nhất và tạo ra
cá thể ở thế hệ sau là tốt nhất.
Cây Tre Mai (Dendrocalamus yunnanicus Hsueh et D. Z. Li) có khả năng
phòng hộ đầu nguồn, hấp thụ CO2 và có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là măng làm
thực phẩm như một loại rau sạch. Ngoài ra được sử dụng để làm vật liệu xây dựng
(làm nhà), đồ gia dụng và nguyên liệu giấy.
Cây Tre Mai có khả năng phát triển rộng ở các tỉnh trung du và miền núi với
các loại đất đồi thấp, ven khe suối, thung lũng, đất có độ dốc, đất thịt pha cát, tầng
dày trên 80cm, đất ẩm và hơi chua. Ở Việt Nam phân bố ở các tỉnh miền Bắc như
Phú Thọ, Tuyên Quang, Bắc Kạn và Thái Nguyên, Hòa Bình phân bố ở độ cao từ
vài chục mét đến khoảng 200 m so với mực nước biển, trên nhiều dạng lập địa khác
nhau. Tuy nhiên, nhân dân địa phương thường trồng quảng canh, năng xuất thấp,
mỗi hộ trồng một số búi nên khối lượng sản phẩm thấp, chủ yếu sử dụng trong gia
đình, nhiều người chưa biết đến sản phẩm của loài măng giá trị này. Mai có khả
năng cung cấp cây làm nguyên liệu, làm nhà, đan lát và măng làm thực phẩm, mà
còn có khả năng phòng hộ, đặc biệt đối với rừng đầu nguồn ở các tỉnh miền núi phía
Bắc. Do đó, để phát triển rừng trồng Mai lấy măng và lấy thân theo hướng thâm
canh, tăng năng xuất để tạo ra sản phẩm hàng hóa lớn cung cấp cho thị trường thì
việc tuyển chọn, sử dụng và phát triển nguồn gen các giống Mai ưu trội về năng
suất và chất lượng cả về lấy măng và làm nguyên vật liệu trong xây dựngvới các
biện pháp kỹ thuật thâm canh là việc làm rất cần thiết để góp phần nâng cao độ che
phủ đặc biệt rừng phòng hộ lưu vực các tỉnh miền núi phía Bắc và cải thiện đời
sống người dân địa phương.Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của địa phương, tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu tuyển chọn cây đầu dòng loài Tre Mai
(Dendrocalamus yunnanicusHsueh et D. Z. Li) ở tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Bắc Kạn”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu tổng quát
Tuyển chọn được cây đầu dòng tốt nhằm phục vụ bảo tồn khai thác và phát
triển nguồn gen cây Tre Mai có năng suất, chất lượng cao phục vụ cho trồng rừng

và phát triển sản xuất.


3
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định được các đặc điểm sinh học của loài cây Tre Mai.
- Đánh giá thực trạng phát triển loài cây Tre Mai tại Thái Nguyên và Bắc
Kạn.
- Đánh giá các đặc điểm lâm phần loài Tre Mai đưa ra các tiêu chí lựa chọn
cây đầu dòng.
- Đưa ra được các biện pháp kỹ thuật quản lý cây đầu dòng.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài đã xác định được một số khóm đầu dòng làm cơ sở cho việc nhân
giống và phát triển cây Tre Mai của các đề tài nghiên cứu tiếp theo.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển, nhân rộng cây Tre Mai
(Dendrocalamus yunnanicus Hsueh et D. Z. Li). Xác định được khóm cây Tre Mai
đầu dòng để nhân giống, cải thiện nguồn giống cho người dân, góp phần tăng thu
nhập, nâng cao đời sống của người dân.


4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Khái quát về cây Tre Mai
Tên khoa học: Dendrocalamus yunnanicus Hsueh et D. Z. Li.
Phân họ Tre (Bambusoideae).
Họ Cỏ (Poaceae).

Cây Tre Mai có tên khoa học Dendrocalamus yunnanicus Hsueh & D.Z.Li
và tên thường gọi là cây Mai thuộc phân họ tre trúc (Bambusoideae), được gây
trồng khá rộng rãi ở miền Bắc. Vì vậy cây Mai có nhiều tên gọi khác Mai ống, Mạy
ngừu, Mai Định Hoá, Cây mai, Mai, Mạy puốc, Mạy mươi (Thái, Tày, Nùng), Lủng
chủ (H'mông).
Loài này được phát hiện và công bố ở tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) năm
1988 bởi 2 tác giả Hsueh và D.Z. Li ở độ cao 1500 m so với mực nước biển. Có
phân bố ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam thuộc phía Nam và Tây
Nam của Trung Quốc. Đây là một loài Tre đa tác dụng, khả năng phòng hộ đầu
nguồn, hấp thụ CO2 và có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là măng làm thực phẩm như
một loại rau sạch.
1.1.2. Đặc điểm phân bố
Ở Việt Nam phân bố ở các tỉnh miền Bắc như Phú Thọ, Tuyên Quang, Bắc
Kạn và Thái Nguyên, Hòa Bình phân bố ở độ cao từ vài chục mét đến khoảng 200
m so với mực nước biển (Phạm Thành Trang & Trần Đình Hợi, 2009)[33]. Cây Mai
có khả năng phát triển rộng ở các tỉnh trung du và miền núi với các loại đất đồi
thấp, ven khe suối, thung lũng, đất có độ dốc, đất thịt pha cát, tầng dày trên 80 cm,
đất ẩm và hơi chua. Như vậy, đây là loài Tre có biên độ sinh thái rộng.
1.1.3. Đặc điểm hình thái
Là loài tre to, thân ngầm dạng củ, thân tre mọc khóm thưa, ngọn rủ, cao 1525cm, đường kính phổ biến 12-15cm, cá biệt có cây 18-22cm. Lóng có đốt không
nổi, chiều dài lóng 30-45cm, bề dày vách thân 1-3cm, lúc non bề mặt có phủ lớp sáp
trắng; thường phân cành cao ở 1/3-1/2 thân, mỗi đốt chia nhiều cành, thường có 01


5
cành chính. Cành nhỏ mang 5-15 lá thông thường mang 7 - 10 lá, bẹ lá không lông,
không có tai lá, lưỡi lá nổi lên, cao 1-3mm, mép xẻ răng không đều; phiến lá hình
lưỡi mác dài, biến đổi nhiều, lá dài nhất có thể tới 45cm, rộng 10cm, đầu có mũi
nhọn, gốc hìnhnêm, lúc non mặt dưới có lông nhỏ, gân cấp hai 8-18 đôi, gân ngang
nhỏ, rõ, mép lá có răng cưa nhỏ, rất ráp; cuống lá dài 5-10mm. Cụm hoa trên các

cành không lá, dạng chùy; mỗi đốt có 4-12(25) bông nhỏ mọc cụm, chiều dài lóng
cụm hoa cấp cuối 1,2 -1,5cm; phía dưới đốt phủ phấn trắng, phần còn lại có lông
mềm màu rỉ sắt; bông nhỏ dài 1- 1,5cm, rộng 3-4mm, lúc khô màu tím, đầu có mũi
nhọn, gốc mang 1-2 lá bắc, bông nhỏ chứa 5-8 hoa, hoa trên cùng bất thụ, sau khi
chín giữa các hoa không cách rời nhau; lá bắc 2, dài 3-4mm; mày ngoài hình trứng
rộng, dài khoảng 1cm, rộng lớn hơn chiều dài, có nhiều gân (khoảng 25 chiếc), mặt
lưng và mép đều có lông nhỏ, đầu có mũi nhọn nhỏ; mày trong dài bằng mày ngoài,
lông có 2 gờ, khoảng cách giữa 2 gờ 2,5mm, có hai gân; trên gờ mọc dày lông
mảnh, đầu tù hay hơi lõm (ở hoa tận cùng không gờ, không lông); không có mày
cực nhỏ, chỉ nhị dài khoảng 1cm, bao phấn dài 6,5mm; đầu có trung đới thò ra và có
mũi nhọn; nhuỵ dài 1cm, toàn bộ phủ lông mềm ngắn, bầu hình trứng, vòi rất dài,
đầu nhuỵ 1, cong, màu tím. Quả hình tròn dài, dài 7-8mm, đầu tù, có lông nhung.
1.1.4. Đặc điểm sinh thái
Cây Tre Mai được trồng ở độ cao từ 200-1000m trên mặt biển. Đây là loài
tre thuộc nhóm mọc cụm có thể trồng ở độ cao lớn nhất. Cây chịu được nhiệt độ
thấp trong mùa đông, có khi nhiệt độ xuống đến 00C. Cây ưa đất feralite mùn trên
núi hoặc đất feralite phát triển trên các đá sa thạch, phiến thạch hoặc đá vôi. Cây
cũng ưa đất bồi tụ ven sông suối, độ mùn từ trung bình đến giàu, kết cấu hạt viên, ít
đá lẫn, thành phần cơ giới thịt hoặc thịt nhẹ. Sau khi trồng, cây đẻ măng ngay từ
năm thứ nhất. Kích thước và chiều cao của thân tăng dần hàng năm. Năm thứ 7,
thân tre định hình, không tăng về kích thước nữa. Giai đoạn cây măng, mai tăng
trưởng rất nhanh, có thể đạt trên 20- 30cm/ngày. Sau 3-4 tháng, cây măng đạt chiều
cao tối đa. Mức độ tăng trưởng của cây non phụ thuộc vào độ ẩm và độ chiếu sáng.
Nếu đất khô, cây tăng trưởng chậm hơn ở đất ẩm. Chưa gặp hiện tượng cây Tre Mai
khuy hàng loạt. Thường chỉ gặp cây Tre Mai ra hoa ở từng khóm hoặc từng cây.


6
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Cao Bằng cho biết đã có hiện
tượng Tre Mai tái sinh bằng hạt ở Bảo Lạc (Cao Bằng), năm 1972.

1.1.5. Giá trị kinh tế
Thân Tre Mai được dùng nhiều để làm cột nhà, dui mè, đòn tay. Cột nhà làm
bằng thân mai rất bền nếu được ngâm trong nước một năm. Do lóng có đường kính
lớn nên mai còn được dùng làm bè mảng, ống đựng nước và máng nước, dát
giường, chế biến hàng mỹ nghệ xuất khẩu. Hàm lượng cellulose trong thân Mai
chiếm hơn 50%; sợi dài 1,4-1,6mm (trung bình 2,7mm), đường kính 26µm nên mai
được dùng trong công nghiệp giấy. Ở độ ẩm 19%, thân có tỷ trọng khoảng
900kg/m3. So với cây Luồng cùng chi với Cây Mai này thì các chỉ tiêu về hàm
lượng cenlulo thấp hơn không đáng kể, trong khi sợi dài vàđộ ẩm cao hơn Luồng,
cụ thể thân luồng chứa cellulose (54%). sợi luồng thường có chiều dài trung bình
2,944mm, đường kính 17,84 µm,độ ẩm thí nghiệm có tỷ trọng 838 kg/m3.
Nguyễn Danh Minh và Lê Văn Bình (2005)[23], măng mai tươi gồm các
thành phần: hàm lượng nước 92,4%; protein 1,81; đường tổng 2,14; gluxit 2,71;
cellulose 0,51; lipid 0,18. Về giá trị măng: Theo Nguyễn Danh Minh và Lê Văn
Bình (2005)[23] khi nghiên cứu kiến thức bản địa kinh doanh Tre lấy măng, bằng
phương pháp cho điểm đã chọn ra 5 loài tre triển vọng nhất trong kinh doanh tre lấy
măng, trong đó có loài Tre Mai. Mùa măng chính từ tháng 7 đến tháng 9. Măng Mai
là loại thực phẩm quí, đặc biệt chế biến thành loại măng "lưỡi lợn". Đó là loại măng
sau khi luộc, được thái thành miếng lớn và phơi hoặc sấy khô. Giá bán của loại
măng này vào dịp tết khoảng 100000- 120.000đ/kg.
Đặc biệt loài măng cây Tre Mai có hàm lượng dinh dưỡng cao nên có thể phát
triển loài này để lấy măng phục vụ nhu cầu trong nước cũng như xuất khẩu. Nơi trồng
Tre Mai thích hợp nhất là đồi thấp, ven khe suối, thung lũng, đất có độ dốc, đất thịt
pha cát, tầng dày trên 80 cm, đất ẩm và hơi chua. Ngoài khu vực Đinh Hóa, loài Cây
mai được phân bố rải rác ở một số nơi như Tuyên Quang, Phú Thọ, Bắc Kạn.
Thân của loài này được sử dụng để làm nguyên liệu giấy, nguyên liệu xây
dựng, đồ gia dụng, đồ thủ công. Còn măng được sử dụng làm thực phẩm như một
loại rau.



7
1.1.6. Cơ sở khoa học về cây đầu dòng
Cây đầu dòng: là cây có năng suất, chất lượng cao và ổn định, tính chống
chịu tốt hơn hẳn các cây khác trong quần thể một giống (giống địa phương, giống
mới chọn tạo, giống nhập nội) được cơ quan có thẩm quyền bình tuyển và công
nhận để làm nguồn vật liệu nhân giống.
Vườn cây đầu dòng: là vườn cây được nhân bằng phương pháp vô tính từ cây
đầu dòng; được cơ quan có thẩm quyền thẩm định và công nhận để làm nguồn vật
liệu nhân giống.
1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới liên quan về loài
1.2.1.1. Các nghiên cứu tre trúc
Tre trúc bao gồm những loài thuộc phân họ Tre (Bambusoideae),họ Cỏ (Poaceae),
trên thế giới có khoảng 500 loài (Dai Qihui, 1998)[42]. Tre trúc là một nguồn lâm
sản ngoài gỗ chiếm một vị trí quan trọng trong tài nguyên rừng ở nhiều nước trên
thế giới, đặc biệt là các nước vùng phía Nam và Đông Nam Á. Ở các nước này người
dân đã biết sử dụng tre trúc từ lâu đời để tạo ra hàng trăm sản phẩm phục vụ thiết thực
cho đời sống hàng ngày.
Chính vì vị trí quan trọng của nguồn tài nguyên này, tre trúc đã được
nghiên cứu từ lâu đời về nhiều mặt như: nhân giống, trồng, khai thác, sử dụng.
Gần đây có nhiều nghiên cứu nhằm phát triển gây trồng một số loài tre trúc theo
mô hình rừng công nghiệp thâm canh với năng suất, chất lượng cao, hướng theo
mục đích sử dụng nhất định. Trung Quốc có khoảng 100.000 ha rừng tre trúc trồng
lấy măng với năng suất trung bình 10 - 20 tấn/ha/năm và cao nhất đạt 30 - 35
tấn/ha/năm. Trung Quốc cũng có khoảng 3 triệu ha vừa sản xuất măng lại vừa sản
xuất thân tre. Tổng sản lượng măng của Trung Quốc khoảng 1 triệu tấn/năm (Fu
Maoyi, Xiao Jianghua, 1996).[44]
Những nghiên cứu đầu tiên về tre trúc là các nghiên cứu về mặt phân loại,
hình thái và sinh thái học công trình "Các loài tre trúc" của Gamble (1896)[45] đã
đề cập tương đối chi tiết về phân bố, hình thái và một số đặc điểm sinh thái của 151

loài tre trúc có ở các nước Ấn Độ, Pakistan, Mianmar, Malayxia và Inđônexia. Đến


8
đầu thế kỷ XX đã xuất hiện nhiều nghiên cứu tre trúc về các mặt như: lâm học, tái
sinh, khai thác… Koichiro Ueda (1960) đã tiến hành thống kê số măng bị thui hàng
năm ở rừng Trúc sào (Phyllostachys edulis) chiếm 60-80%, Phyllostachys reticulata
30-50% từ đó đề cập đến vấn đề khai thác tận dụng măng và áp dụng biện pháp bón
phân để tăng số lượng và kích thước của thân khí sinh.
Victor Cusack (1997) [57]đề cập đến biện pháp bón phân làm cho nhiều loài
tre trúc phát triển tốt, măng to, nhưng phải bón một cách hợp lý tùy thuộc vào loài
nhất định. Theo Alrasjid (2003)[37] tre được coi là một trong những loài cây sử
dụng “tham lam” dinh dưỡng của đất. Vì vậy, không sử dụng phân bón trong trồng
tre sẽ làm giảm sút nhanh chóng sức sản xuất của đất, dẫn đến đất rừng trồng tre sẽ
nhanh chóng bị suy thoái.
Fu Maoyi & Xiao Jianghua (1996)[44] đã xác định những nhân tố ảnh hưởng
đến quá trình phát sinh măng, sinh trưởng và phát triển của thân khí sinh là: độ ẩm,
nhiệt độ, dinh dưỡng, cấu trúc rừng, biện pháp lâm sinh, sâu bệnh. Đây là những
nhân tố cần phải được quan tâm khi áp dụng các biện pháp thâm canh tăng năng
suất măng và thân khí sinh.
1.2.1.2. Các nghiên cứu về chi Luồng
Chi Luồng (Dendrocalamus) có khoảng 35 loài trên thế giới, riêng Trung Quốc
có 30 loài (ở Vân Nam có 24 loài) (Yang et al., 1999)[59]; Trung Quốc cũng đã ghi
nhận tới 410 loài, chủng và giống (Pei et al., 1999); Ấn Độ có 20 loài (Seethalakshmi
và Kumar, 1998).
Năm 1934, Chi luồng (Dendrocalamus) được Nees thành lập khi chuyển loài
Bambos stricta Roxb được công bố năm 1798. Cho đến nay, chi Luồng có khoảng
60 loài, đây là chi có nhiều loài tre kích thước lớn, có loài cao đến 30 m. Tuy nhiên,
có một số loài thân nhỏ, đường kính chỉ vài cm như Dendrocalamuspoilanei,
D.cinctus, S.sinuatus và có loài thân đặc như D.strictus, D.poilanei (Nguyễn Văn

Thọ, 2012)[29]. Munro (1868)[49] đã mô tả 9 loài thuộc chi Luồng, tác giả mô tả
khá chi tiết đặc điểm các loài và có cả hình vẽ của một số loài công bố mới. Gamble
(1896) [45] đã mô tả chi tiết đặc điểm các loài có cả hình vẽ của 16 loài thuộc chi
Luồng ở Ấn Độ. Tewari (1993)[56] đã mô tả chi tiết đặc điểm hình thái và có hình


9
thái và có hình vẽ minh họa của 14 loài thuộc chi Luồng của Ấn Độ. Hsueh & Li
(1996)[46] mô tả chi tiết và vẽ hình minh họa của 11 loài tre thuộc chi này ở Trung
Quốc. Li & Stapleton (2006)[48] mô tả chi tiết và hình vẽ minh họa đặc điểm loài ở
quyển riêng cho 24 loài tre thuộc chi này ở Trung Quốc. Theo Ohrnberger (1999)
[50]có 52 loài thuộc chi Luồng trên toàn thế giới.
Theo Munro (1868)[49] cho rằng các loài thuộc chi Luồng phân bố ở Ấn Độ,
Malacca, Java (Indonesia) và Trung Quốc. Gamble (1896)[45] xác định 16 loài
thuộc chi Luồng phân bố ở Trung Quốc, Ấn Độ, Myanmar, Malaysia, Indonesia.
Tewari (1993) [56]đã cung cấp đầy đủ các thông tin về nơi phân bố, trồng và độ cao
của 14 loài Tre thuộc chi Luồng ở Ấn Độ được mô tả. Theo Li & Stapleton
(2006)[48] chi Luồng có phân bố ở vùng nhiệt đới, Á nhiệt đới của Châu Á, ở
Trung Quốc phân bố chủ yếu ở phía Tây Nam. Ohrnberger (1999)[50] cho rằng các
loài chi Luồng trên thế giới có phân bố ở phía Nam Trung Quốc kéo dài ra phía Tây
và phía Đông và miền Trung của Trung Quốc, ở Ấn độ có dãy Himalaya và các đảo
Andaman, ngoài ra còn gặp ở các nước Nê pan, Bu tan, Băng-la-det, Sri-lan-ca, đảo
Andaman, Myanmar, Lào, Ma-lai-xia, Campuchia, Việt Nam, Philippine, In-đô-nêxia và pa-pua-niu-ghi-nê.
Ramanayake và các tác giả (2007)[51] đã sử dụng chỉ thị phân tử RAPD để
nghiên cứu đa dạng di truyền của 23 khóm tre D.giganteus thuộc một quần thể ở
Vườn thực vật Hoàng Gia ở Peradeniya, Sri Lanka được di thực đến đây năm 1856
từ một cây và khẳng định quần thể có đa dạng di truyền thấp, chỉ 0,045±0,004.
Quần thể này đồng nhất về hình thái, các cá thể tăng lên do nhân giống vô tính.
Tian và các tác giả (2012) đã phân tích đa dạng di truyền của 108 khóm tre
A.giganteus thuộc 7 quần thể ở tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) bằng chỉ thị phân tử

ISSR cho rằng đa dạng di truyền trong quần thể là rất thấp, trung bình là 11,33%
khác nhau, nhưng rất đa dạng di truyền giữa các quần thể rất cao, trung bình
88,57% khác nhau. Bảy quần thể này chia làm 2 nhóm chính và khẳng định không
có khác biệt về mặt di tuyền giữa các cá thể trong quần thể mà khác nhau về mặt địa
lý. Các tác giả đề nghị bảo tồn in situ tất cả 7 quần thể này và cần thu thập vật liệu
giống để bảo tồn ex situ.


10
- Nghiên cứu kỹ thuật chọn giống, nhân giống
Chi Dendrocalamus có thể thực hiện nhân giống bằng phương pháp hữu tính
hoặc sinh dưỡng nhưng chủ yếu là bằng phương pháp nhân giống sinh dưỡng.
Tại Kenya, Bernard Kingomo (2007)[38] đã đề cập đến nhân giống bằng
cách dùng thân và gốc để tạo cây con. Nếu dùng hom thân nên lấy thân cây có độ
tuổi từ 2 - 3 năm, cắt một đoạn có 2 đến 3 mắt để làm vật liệu, đục lỗ cách các mắt
từ 5 - 7 cm, sau đó vùi sâu 6 - 10 cm theo hướng nằm ngang vào đất trộn cát, sau đó
dùng axít 1-Naphthalene acetic (NAA) đổ vào lỗ đã đục để kích thích ra rễ. Nếu
dùng gốc để trồng, chọn cây có độ tuổi 1 - 2 năm, đào sâu 30 - 60 cm và cắt toàn bộ
gốc mang đi trồng ngay.
Theo Rao & Ramanatha (2000) nhân giống sinh dưỡng là phương pháp có
hiệu quả với hầu hết các loài tre. Tác giả nghiên cứu nhân giống sinh dưỡng
Bambusa vulgaris với quy mô lớn như sau: Hom cành 2-3 năm tuổi bao gồm một
mắt ngủ hoặc một đốt cành, cành được cắt ở sát cổ. Cành cắt được cho vào túi
polyethyne thích hợp bao gồm đất ở trên và sơ dừa vụ với tỷ lệ 1:5. Nước được tưới
thường xuyên trong thời gian một tuần sau khi cho vào túi, khả năng ra chồi và ra rễ
diễn ra trong khoảng thời gian 3-4 tuần sau đó. Nghiên cứu của Trung tâmnghiên
cứu tre trúc Trung Quốc (2008) [40] về giâm hom tre cho thấy: sử dụng hom cành
to giâm hom cho tỷ lệ sống đạt tới 83,75%, sử dụng cành nhỏ tỷ lệ sống chỉ khoảng
10%. Nghiên cứu cũng chỉ ra nên giâm hom vào mùa xuân tháng 3-4 vì nhiệt độ và
độ ẩm tăng, thuận lợi cho tre nảy chồi và măng không mọc thời gian này, do đó cây

giàu dinh dưỡng, ra rễ diễn ra trước tiên sau cắt hom vì vậy cho tỷ lệ sống cao.
Nghiên cứu của Fu Maoyi & cs. (2000)[43] về giâm hom bằng cành cho thấy cành
được chọn để giâm hom tốt nhất có độ tuổi 1-2 năm và lấy từ cây 3 năm tuổi. Nhân
giống có thể thực hiện tốt vào tháng 2 đến tháng 9, tuy nhiên vào tháng 2-3 cho tỷ lệ
sống cao hơn.
Cusack (1997) [39] đã nghiên cứu sử dụng hom thân kết quả cho thấy: tỷ lệ
thành công khi nhân giống bằng hom thân là khác nhau giữa các loài tre và phụ
thuộc vào kỹ thuật sử dụng, nhân giống tốt nhất nên vào mùa xuân.


11
Rao & Rao (2000)[52] nghiên cứu về giâm hom sử dụng hom thân cũng cho
rằng đây là một phương pháp có hiệu quả để nhân giống các loại tre có vách dày và
kích thước lớn (8-12cm đường kính) như loài Bambusa blumeata. Một nghiên cứu
khác của Fu Maoyi & cs. (2000) [43]về nhân giống bằng hom thân 1 đốt cho thấy,
cắt hom có thể thực hiện ở cây 1 hoặc 2 năm tuổi.
Về nghiên cứu sử dụng giống gốc trong trồng tre đã được một số tác giả đánh
giá là có tỷ lệ thành công cao, tuy nhiên cũng có nhiều mặt hạn chế như chi phí cao,
số lượng giống hạn chế. Theo Zhou (2000) [61] cho rằng sử dụng giống gốc thích
hợp cho các loài cây giống như Bambusa, Dendrocalamus, Sinocalamus,... Chọn
những cây mẹ đánh gốc có một ít rễ và cắt phần trên thân khí sinh chỉ để lại chiều
dài khoảng 1m. Khi đánh gốc, rễ và thân ngầm được giữ lại, cây được cắt lại 5-6
cành và để lại lá. Theo Cusack (1997)[39] chi thấy nhân giống bằng gốc có thể đạt
được tỷ lệ thành công 100%, tuy nhiên chỉ nên áp dụng cho những loài tre có kích
thước nhỏ vì có thể sản xuất với quy mô lớn. Tương tự, Rao & Rao (2000)[52] cũng
cho rằng nhân giống tre sử dụng giống gốc là một phương pháp tốt nhất, khả năng
mọc mạnh nhất được thấy ở các gốc 1 năm tuổi.
Verma và Arya (1998) đã nghiên cứu ảnh hưởng của thành phần ruột bầu đến
sinh trưởng, sinh khối và khả năng hút dinh dưỡng của cây Dendrocalamus asper
nuôi cấy mô.

Ngoài phương pháp nhân giống sinh dưỡng, ở một số nơi trên thế giới, các
loài tre Luồng cũng được nhân giống từ hạt. Tại Thái Lan và Ấn Độ, việc nhân
giống bằng hạt đã được thực hiện cho các loài cây như Dendrocalamus brandisii,
Dendrocalamus

membranaceus,

Dendrocalamus

strictus



Dendrocalamus(Bernard, 2007 và Dai Qihui, 1998).
- Kỹ thuật trồng Tre lấy măng
Theo Fu và Xiao (1996) [44], những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phát
sinh măng, sinh trưởng và phát triển của thân khí sinh gồm: độ ẩm, nhiệt độ, dinh
dưỡng, cấu trúc rừng, biện pháp lâm sinh, sâu bệnh. Đây là những nhân tố cần phải
được quan tâm khi áp dụng các biện pháp thâm canh tăng năng suất măng và thân
khí sinh. Nghiên cứu của Rao & Rao (1999) [52] chỉ ra rằng đất thích hợp cho cây


12
trồng tre thường là đất thoát nước tốt, đất cát mùn, đất sét pha cát và có nhiều dinh
dưỡng, đất bằng phẳng hoặc đất đồi có độ dốc thấp, đất thường có màu vàng, nâu
vàng hoặc màu đỏ vàng, đất tầng sâu. Một số loài tre tại Bangledesh được trồng trên
đất có độ pH từ 6-8, hoặc đất đồi có độ pH từ 4,5 -5,5.
Theo Dai (1998)[42], mật độ trồng với các loài Dendrocalamus có đường
kính thân cây nhỏ hơn 6 cm là 1.160 khóm/ha, với các loài có đường kính thân cây
to hơn thì mật độ trồng khoảng 830 khóm/ha (3m xx 4m) hoặc 625 khóm/ha

(4mx4m).
Theo Alipon và cs (2009)[36] kỹ thuật tốt nhất để tạo ra chất lượng thân cây
bền vững đối với Bambusa blumeana vệ sinh gốc, phủ gốc, bón phân hữu cơ và duy
trì cây 1,2,3,4 tuổi theo tỷ lệ 4:4:4:4 cây/khóm. Còn đối với Dendrocalamus asper
không phủ gốc, tiến hành bón phân và duy trì cây 1 tuổi và cây 2 tuổi theo tỷ lệ 6:6
cây/khóm.
Ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng và năng suất của các loài
tre,Suwannapinunt & Thaiutsa (1988) [54] đã kết luận: sử dụng hỗn hợp phân NPK
15-15-15 có hiệu quả rõ rệt đến năng suất của các loài Tầm vông (Th. siamensis),
Mạy tông (D.asper), D.strictus và Bambusa sp. Bón 100kg NPK/ha sẽ đủ để tăng
năng suất và bón 200 kg NPK/ha là thích hợp. Dranssfield & Widjaja (1995) cho
rằng bón 20 -25kg phân hữu cơ cho mỗi khóm trước mùa sinh trưởng, phân hóa học
bón 4 lần mỗi năm, mỗi lần bón cho 1 ha là 80kg NPK theo tỷ lệ 40:10:30 và 0,65
Si. Cusack (1997) cho rằng bón phân làm cho tre trúc phát triển tốt, măng to nhưng
phải bón một cách hợp lý tùy thuộc vào loài nhất định. Đối với loài Mạy tông (D.
asper) hàng năm bón 300kg phân NPK (15:15:15)/ha + 40 - 60kg bụi rơm hoặc cỏ
khô để phủ+0,65kg silic dioxyt/ha. Đối với loài Mai xanh (D. latiflorus) bón 40 kg
NPK (40:30:10)/ha và bón 4 lần trong năm kết hợp 0,65kg Silic dioxyt/ha/năm và
20-25kg phân compost trước mùa sinh trưởng.
Trung tâm nghiên cứu tre trúc Trung Quốc (2001) [41] bằng các thí nghiệm
với loài Mai cây xanh (D. latiflorus) và Lục trúc (D. oldhamiii) cho rằng: phân bón
làm tăng nhiệt độ trong đất giúp không khí và nước lưu thông tốt hơn, kích thích


13
măng ra sớm hơn, sản lượng măng và thân khí sinh tăng cao hơn. Điều này cho thấy
việc bón phân cho rừng Dendrocalmus là rất cần thiết nhằm kinh doanh rừng bền
vững và có năng suất cao. Trung tâm nghiên cứu tre trúc Trung Quốc (2008) [40]
cho rằng: Trong kinh doanh tre, bón phân từ 1-3 lần hàng năm để tăng sản lượng
cao của măng. Bón phân lần đầu vào tháng 3 được gọi là phân bón của lứa măng

đầu chủ yếu là phân chuồng kết hợp phân hóa học từ 750 - 900kg/ha như ure, phân
hỗn hợp… Lần bón phân thứ 2 vào tháng 8 được gọi là phân bón giai đoạn măng và
chủ yếu là phân urê hoặc phân hỗn hợp 0,5 -1kg/khóm. Lần 3 bón phân vào tháng
12 và chủ yếu là phân hữu 50kg/khóm.
- Nghiên cứu về kỹ thuật thâm canh
Theo kết quả nghiên cứu Bernard Kingomo (2007) [38] cho thấy các loài chi
Luồng thường ưa thích các loại đất sét và sét pha cát. Tuy nhiên, dù loại đất nào thì
cũng phải thoát nước tốt vì măng Luồng không chịu được ngập nước. Độ pH thích hợp
cho Luồng là từ 4,5 - 6. Theo tác giả Dai Qihui (1998)[42] đã khuyến nghị nên chọn
nơi có độ dày tầng đất cao, đất còn tốt, ẩm và thoát nước tốt để trồng các cây thuộc chi
Dendrocalamus. Trồng ở các thung lũng, dọc bờ sông, suối và cũng có thể trồng ở
chân và sườn đồi thường sinh trưởng tốt. Nếu trồng nơi đất khô xấu thì có thể sống
nhưng măng và thân cây sẽ nhỏ, không mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đây có thể coi là
kinh nghiệm có ý nghĩa quan trọng trong việc chọn lập địa phù hợp để kinh doanh
rừngLuồng theo hướng bền vững.
Tại Indonesia, Sutiyono (2004) [55] đã tiến hành nghiên cứu dinh dưỡng đất
của rừng Dendrocalamus asper Back.
+ Về xử lý đất và thực bì, Bernard (2007) [38] trước khi làm đấttrồng rừng
Dendrocalamus nên xử lý thực bì bằng cách phát dọn cỏ, cây khóm. Kích thước và
cự ly hố tùy thuộc vào phương pháp và loài cây trồng. Đối với các loài cây có kích
thước to thì hố đào thường có kích thước là 60 cm x 60 cm x 60 cm. Nơi có lượng
mưa trung bình thấp, nên đào hố to hơn so với nơi có lượng mưa cao. Hố sau khi


14
đào được lấp gần đầy, thấp hơn miệng hố khoảng 10 cm, có thể trộn 2 kg phân lân
hoặc phân chuồng cho mỗi hố. Đất được lấp trước khi trồng 1 tháng.
+ Về phương thức trồng, Fu Maoyi (1996) [44]cho thấy có thể
trồngDendrocalamusthuần loài hoặc hỗn loài với các loài cây lá rộng hoặc trồng theo
phương thức nông lâm kết hợp.

+ Về kỹ thuật trồng, Dai Qihui (1998)[42] cho biết dù cây con Dendrocalamus
được tạo hạt hay từ nhân giống sinh dưỡng, trước khi trồng nên cắt ngọn chỉ để lại 23 đốt. Đối với cây con được tạo từ hạt thì đặt cây con ở tư thế thẳng đứng, lấp đất và
phủ lên gốc cây 3 - 4cm. Với cây đem trồng bằng gốc, đặt cây ở tư thế thẳng đứng,
lấp đất và phủ đất cách cổ rễ 10cm.
+ Về kỹ thuật bón phân, theo Dai Qihui (1998)[42] đối với cây
Dendrocalamus trồng lấy măng, để sản xuất 100kg măng tươi, cây cần 500 - 700g
Nitơ, 100 - 150g Phốt pho và 200 - 250g Kali từ đất. Theo Fu Maoyi, XiaoJianghua
(1996)[44] đã xác định những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phát sinh măng, sinh
trưởng vàphát triển của thân khí sinh là: độ ẩm, nhiệt độ, dinh dưỡng, cấu trúc rừng,
biện pháp lâm sinh, sâu bệnh. Đây là những nhân tố cần phải được quan tâm khi áp
dụng các biện pháp thâm canh tăng năng xuất măng và thân khí sinh. Victor Cusack
(1997)[57] cho rằng biện pháp bón phân làm cho nhiều loài tre trúc phát triển tốt,
măng to, nhưng phải bón một cách hợp lý tuỳ thuộc vào loài nhất định. Nghiên cứu
về chu trình dinh dưỡng trong rừng Bambusa bambos các tác giả Shanmughavel và
Fracis (1997)[53] cho biết lượng dinh dưỡng trong cây đứng gia tăng theo tuổi của
cây, vì vậy lượng dinh dưỡng trả lại cho đất không đủ so với lượng dinh dưỡng mà
cây đã lấy đi. Nghiên cứu của Jha và Lalnunmawia (2004)[47] về trồng xen giữa
các loài cây Dendrocalamus hamiltonii, D.longispathus và gừng trong các công
thức thí nghiệm về bón phân đã cho thấy sản lượng của các loài trong các thí
nghiệm bón phân cao hơn rõ rệt so với công thức không bón phân.
+ Về kỹ thuật khai thác, thu hoạch, Dai Qihui (1998)[42] cho rằng đối với
các loài tre trồng để lấy măng, nếu muốn chế biến măng khô, khi kích thước măng
có chiều cao đạt từ 1,3 - 1,5m có thể tiến hành thu hoạch, nếu muốn chế biến thành
các sản phẩm khác, thu hoạch măng non có chiều cao khoảng 30cm. + Về sâu bệnh


15
hại, Xu Tiansen (1998)[58] cho biết các loài chi Dendrocalamus thường gặp các
loại sâu ăn lá, sâu đục thân, sâu hút nhựa, sâu ăn búp măng. Tùy vào đặc điểm từng
loại sâu tác giả đã đưa ra các biện pháp phòng trừ thích hợp như: làm cỏ, xới đất, sử

dụng các thiên địch, sử dụng các loại thuốc hóa học để tiêu diệt và hạn chế sự phát
triển của các loài sâu, bệnh hại.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam liên quan đến loài
1.2.2.1. Nghiên cứu về tre trúc
Ở Việt Nam, có khoảng trên 200 loài tre trúc, phân bố ở hầu hết các tỉnh
trong phạm vi toàn quốc và là nguồn nguyên vật liệu quan trọng đứng thứ hai sau
gỗ, và có vị trí quan trọng trong đời sống văn hoá xã hội. Theo nghiên cứu của
Nguyễn Đình Hưng & Nguyễn Tử Ưởng (2000) [13] nước ta có 1.489.068 ha rừng
tre trúc thuần loài hoặc hỗn giao với cây gỗ, chiếm 4,53% diện tích toàn quốc với
tổng trữ lượng là 8.400.767.000 cây. Trong đó: Rừng tre trúc tự nhiên có 1.415.552
ha bằng 14,99% tổng diện tích rừng tự nhiên với trữ lượng là 8.304.693.000 cây bao
gồm: Rừng thuần loại tre trúc có 789.221 ha bằng 8,36% diện tích rừng tự nhiên với
trữ lượng 5.863.091.000 cây; Rừng hỗn giao gỗ tre có 626.331 ha bằng 6,63% diện
tích rừng tự nhiên với trữ lượng 2.441.602.000 cây. Rừng tre trúc trồng có 73.516
ha bằng 4,99% diện tích rừng trồng với trữ lượng96.074.000 cây. Diện tích và trữ
lượng tre trúc đáng quan tâm nhất là vùng Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ, Đông Bắc,
Đông Nam Bộ rồi đến Tây Bắc.
Trong “Kỹ thuật trồng tre trúc”, Hồng Minh (1963)[22] đã giới thiệu sơ lược
về đặc điểm hình thái, sinh thái, kỹ thuật chọn giống, gây trồng, chăm sóc và bảo vệ
cho 12 loài tre trúc ở Miền Bắc Việt Nam. Lê Nguyên Kế (1963) [14] trong cuốn
“Trồng tre trúc” đã đưa ra một số kết quả nghiên cứu về những yêu cầu của đất
trồng, giống, mật độ trồng. Nghiên cứu nhân giống Trúc bằng thân ngầm của Trần
Đức Hậu và Nguyễn Văn Tỵ (1974 - 1977)[9] đã xác định được thân ngầm ở tuổi 1
và tuổi 2 làm giống và tốt nhất với quy cách dài 50cm có 11 - 12 đốt và to 1cm 1cm2. Đối với loài Tre Mai, nhân giống có thể bằng giống gốc hoặc bằng giống
chét... (Phạm Văn Điển, 2006).[7]


16
Hoàng Xuân Tý (1972)[27] cho biết trồng tre Diễn và tre Gai thuần loài làm
cho tính chất vật lý của đất bị thoái hoá nhanh chóng, giảm hàm lượng mùn, đạm,

lân và kali, do vậy khuyến cáo không nên trồng rừng tre trúc thuần loại, mà phải
trồng xen với cây gỗ để đảm bảo độ phì của đất và sản xuất được nhiều luân kỳ.
Lê Nguyên & cs. (1971) [25] đã giới thiệu khá đầy đủ về gây trồng phát triển
tre trúc mọc khóm và mọc tản cho mục đích kinh tế, bao gồm: Điều kiện nhân
giống, gây trồng, kỹ thuật trồng,… tuy nhiên chỉ khái quát, hầu như không đề cập
đến biện pháp thâm canh nào.
Châu Quang Hiền (1981)[10] nghiên cứu “Kết cấu quần thể và quá trình phục
hồi sau khai thác trắng của rừng tre Lồ ô (Schizostachyum zollingery Stend) tại
huyện Phước Long (sông Bé)” đã chỉ ra: Phương thức khai thác trắng có ảnh hưởng
tiêu cực đến sinh trưởng và phát triển, làm thay đổi cấu trúc, giảm sức sản xuất và
hạn chế khả năng sản xuất liên tục của rừng Lồ ô, do đó phương thức chặt chọn là phù hợp.
Lâm Xuân Sanh và Châu Quang Hiền (1984) trong công trình “Tre trúc Lồ
ô” đã thống kê mô tả được một số đặc điểm của rừng tre Lồ ô như: thời vụ ra măng,
hình thái cây măng và quá trình sinh trưởng của măng.
Ngô Quang Đê&cs (1994) [4]đã giới thiệu kỹ thuật gây trồng tre trúc cho 3
loài: Luồng, Mạy sang và Vầu đắng gồm các khâu ươm giống, kỹ thuật trồng, chăm
sóc, khai thác và sử dụng.
Năm 2000, Lê Quang Liên[18] và cộng sựđã thực hiện đề tài “Nghiên cứu
kỹ thuật trồng tre trúc để lấy măng” cho 2 loài Luồng (Dendrocalamus barbatus) và
tre Gầy (Dendrocalamus sp), trong đó có khảo nghiệm 3 công thức bón phân NPK
và khẳng định muốn trồng tre trúc để lấy cây hay lấy măng có năng suất cao thì cần
phải trồng thâm canh.
Theo Hứa Vĩnh Tùng (2001)[35], cường độ khai thác 25% và 50% số cây
trong lâm phần có ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng chiều cao và đường kính cây măng.
Triệu Văn Hùng & cs. (2002) [12] trong “Kỹ thuật trồng một số loài cây đặc
sản rừng” đã giới thiệu kỹ thuật trồng cho 2 loài là Trúc sào và Vầu đắng gồm: Điều
kiện gây trồng, nguồn giống, kỹ thuật gây trồng, chăm sóc, khai thác và chế biến.


17

Lê Viết Lâm và cộng sự (2005)[16] với đề tài “Điều tra bổ sung thành phần
loài, phân bố và một số đặc điểm sinh thái các loài tre chủ yếu ở Việt Nam” đã
thống kê thành phần loài tre trúc ở Việt Nam, giới thiệu 40 loài tre trúc thông dụng
gồm: phân bố, đặc điểm hình thái, sinh thái và công dụng để làm cơ sở tham khảo
cho nghiên cứu và sản xuất.
Đỗ Văn Bản (2004) tiến hành “Nghiên cứu đánh giá tình hình gây trồng các
loài tre nhập nội lấy măng ở Việt Nam” đã thống kê: Hiện nay nước ta có 4 loài tre
nhập nội lấy măng đang được gây trồng: Điềm trúc, Lục trúc, Tạp giao và Mạnh
tông, trong đó phát triển mạnh nhất là Điềm trúc và Lục trúc.
Đỗ Văn Bản & cs. (2005) [1]trong “Trồng thử nghiệm thâm canh các loài tre
nhập nội lấy măng” đã tuyển chọn 3 loài tre nhập nội trồng để lấy măng: Điềm trúc
(Dendrocalamus latiflorus), Lục trúc (Bambusa oldhamii) và Tạp giao với 13,5 ha
mô hình thực nghiệm tại Phú Thọ và Thanh Hoá.
Phạm Văn Điển, Lê Viết Lâm, Bùi Thế Đồi, Trần Thị Thu Hà
(2012)[7]trong “Hướng dẫn kỹ thuật thâm canh rừng tre nứa” đã giới thiệu về
nguyên lý kỹ thuật trồng, chăm sóc, phục tráng và khai thác rừng tre nứa. Đặc biệt
đã giới thiệu tương đối đầy đủ kỹ thuật trồng, chăm sóc và khai thác các loài cây
Bương, Luồng và Vầu đắng.
Nghiên cứu về cấu trúc rừng mong muốn được thể hiện trong Quy phạm các
biện pháp kỹ thuật lâm sinh áp dụng cho rừng sản xuất gỗ và tre nứa của Bộ
NN&PTNT đã xác định số cây tàn che để lại cho từng khóm và tuổi cây khai thác
cho từng đối tượng rừng tre nứa nhưng chưa xác định mật độ khóm và phân bố số
cây theo từng cấp tuổi. Phạm Văn Điển & cs. (2006) [6]trong chuyên đề nghiên cứu
đặc điểm cấu trúc hợp lý cho rừng nứa xen gỗ tại xã Bình Hẽm, huyện Lạc Sơn, tỉnh
Hòa Bình đã đề xuất cấu trúc hợp lý cho nhóm cây nứa với 2 chỉ tiêu là (i) số cây
thích hợp trên khóm, (ii) phân bố số cây hợp lý theo cấp tuổi.: nứa cái tổng số cây
hợp lý trong khóm là 32 cây (8 non, 16 trung niên, 8 già); nứa xanh là 120
cây/khóm (30 non, 60 trung niên, 30 già). Đối với rừng tre nứa, nhóm tác giả này đã
đề xuất mô hình rừng mong muốn gồm 3 chỉ tiêu: (i) mật độ khóm, (ii) số cây thích
hợp trên khóm, (iii) phân bố số cây hợp lý theo cấp tuổi.



×