1
ĐẶT VẤN ĐÈ
•
Sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta phát triển YỚi
tốc độ ngày càng cao YỚi quy mô ngày càng lớn. Nó thúc đẩy một cách sâu
sắc toàn diện các hoạt động trong mọi lĩnh vực như: Kinh tế, chính trị, vãn
hóa, xã hội, thể dục thể thao (TDTT)... Trong đó phát triển TDTT chiếm một
vị trí vô cùng quan trọng.
Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến mục tiêu giáo dục toàn diện
cho thế hệ trẻ, trong đó giáo dục về đức, trí, thể, mỹ được coi là vấn đề hệ
trọng nhằm giáo dục hình thành nhân cách cho học sinh, sinh viên. Theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội Đảng IX và Chỉ thị 17/CT-TW ra ngày 23/10/2002
của Ban Bí thư Trung ương Đảng về: “Chiến lược phát triển ngành TDTT đến
năm 2Ớ7Ớ”[2] và đã khẳng định rõ GDTC trong trường học là cực kỳ quan
trọng, vấn đề giáo dục thể chất cho thế hệ trẻ cần giáo dục toàn diện: “Đức,
trí, thể, m ỹ”, và lao động” cho thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước. Tại
Hội Nghị TW 4 khóa VIII về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo trong Nghị
quyết có ghi: "Con người Phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức” [1]. Điều đó khẳng đinh mục
tiêu GDTC là hình thành nhân cách, tăng cường thể lực chung cho học sinh,
sinh viên, rèn luyện ý chí, tinh thần dũng cảm, ý thức tổ chức kỉ luật.
Cờ vua là một môn thể thao có nguồn gốc từ Ấn Độ, nó đã tạo được
hứng thú, thích hợp với mọi lứa tuổi, đặc biệt là thanh niên, thiếu nhi, học
sinh, các em đều yêu thích và say mê. Cờ vua được sử dụng rộng rãi trong các
cuộc vui chơi, giải trí, trong các cuộc thi đấu thể thao.
Là một môn thể thao trí tuệ, lượng vận động trong cờ vua chủ yếu là
lượng vận động tâm lí, tác động trực tiếp vào quá trình tư duy của người chơi.
Chơi cờ giúp cho việc phát triển hài hòa các phẩm chất đạo đức của mỗi cá
nhân. Trong quá trình tập luyện và thi đấu cờ vua thì khả năng tư duy logic,
2
trực quan được phát triển, trí nhớ linh hoạt hơn, bền vững hơn và dung lượng
ghi nhớ lớn hơn. Khả năng tập trung chú ý được phát triển, hoàn thiện.
Ở nước ta cờ vua phát triển sau các môn thể thao khác nhưng tốc độ
phát triển khá nhanh và ngày càng khẳng định được vị trí mũi nhọn của mình.
Đặc biệt là sự thành công của các đại kiện tướng cờ vua thế giới những năm
gần đây, đã góp phần không nhỏ vào thành công chung của thể thao nước nhà.
Với đặc điểm cờ vua hiện đại, ván đấu diễn ra căng thẳng, quyết liệt
với sự thay đổi về kế hoạch chiến lược cao. Cùng với sự phát triển nhanh
chóng của công nghệ tin học, phương tiện tập luyện và thi đấu luôn được cải
thiện thì yêu cầu học sinh cờ vua phải có đủ phẩm chất, tư duy, cũng như
được chuẩn bị toàn diện về kĩ - chiến thuật, thể lực, tâm lí. Trong đó, việc
trang bị và hoàn thiện kĩ - chiến thuật khai cuộc là một trong những khâu
quan trọng đặc biệt, quyết định trực tiếp đến hiệu quả của ván đấu.
Giai đoạn khai cuộc trong cờ vua có một vai trò hết sức quan trọng. Vì
nó là giai đoạn mở đầu của mỗi ván cờ, nên cách bố trí lực lượng trong khai
cuộc là nền tảng cho những thành công trong giai đoạn trung cuộc và tàn
cuộc. Do đó, học sinh cần phải nắm vững các dạng thức khai cuộc cơ bản, từ
đó sẽ nâng cao hiệu quả ván đấu. Song bên cạnh những mặt tích cực thì cũng
có rất nhiều mặt hạn chế trong việc giảng dạy, huấn luyện kiến thức khai cuộc
cho học sinh, do số lượng khai cuộc rất lớn, nhiều phương án và những diễn
biến căng thẳng, phức tạp. Đòi hỏi học sinh phải có một trình độ nhất định để
nắm và tiếp thu kĩ - chiến thuật trong khai cuộc.
Trường Trung học phổ thông Yên Dũng 2 - Bắc Giang là một trong
những trường có phong trào cờ vua phát triển. Tuy nhiên qua quá trình tập
luyện, thi đấu của đội tuyển cờ vua nữ trường THPT Yên Dũng 2 tại các giải
trẻ của huyện, tỉnh cho thấy học sinh phát triển quân trong giai đoạn khai cuộc
chưa tốt, còn mắc nhiều sai lầm nên dẫn đến bị thua về thế trận trong các giai
đoạn tiếp theo của ván đấu.
3
Xuất phát từ lí do trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu
ứng
số dang
cơ bản cho đôi
tuyển cờ vua nữ
o dung
•
o môt
•
•
o thức khai cuôc
•
•
•/
trường THPT Yên Dũng 2- Bắc Giang”.
Mục đích nghiên cứu:
Nhằm đưa ra một số dạng thức khai cuộc cơ bản ứng dụng có hiệu quả
vào quá trình giảng dạy, huấn luyện cho đội tuyển cờ vua nữ. Đồng thời để
tiến hành kiểm nghiệm tính hiệu quả của các dạng khai cuộc cơ bản này trong
thực tiễn huấn luyện, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình
đào tạo cho đội tuyển cờ vua nước ta hiện nay.
4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỂ NGHIÊN c ứ u
1.1. Cơ sở lý luận về khai cuộc
1.1.1. Khái niệm
Mỗi ván cờ được chia làm 3 giai đoạn tương ứng với từng thời điểm
nhiệm vụ khác nhau nhưng chúng có mối liên hệ chặt chẽ lãn nhau không thể
tách rời, ba giai đoan đó là: Khai cuộc, trung cuộc, tàn cuộc. Sự thống nhất
của 3 giai đoạn thể hiện: Khai cuộc là giai đoạn mở đầu của một ván cờ, tại
đây hai bên nhanh chóng phát triển lực lượng, sắp xếp bố trí các quân sao cho
phù hợp với chiến lược, chiến thuật đã định trước. Đây là giai đoạn đặc biệt
quan trọng vì nó có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ diễn biến của ván cờ. Kết
thúc khai cuộc là phần trung cuộc, giai đoạn này vạch ra những kế hoạch thực
hiện kế hoạch cũng như ngăn chặn kế hoạch của đối phương, sử dụng các đòn
chiến thuật phối hợp tạo nên ưu thế hơn quân hoặc ưu thế hơn thế, thậm chí
đôi khi còn chiếu hết đối phương. Sau giai đoạn trung cuộc là giai đoạn tàn
cuộc, đây là giai đoạn quyết định kết quả cuối cùng của ván đấu nhằm xác
đinh ván cờ thắng, thua, hòa [8].
Yì khai cuộc là giai đoạn mở đầu của ván cờ nên cách bố trí lực lượng
trong khai cuộc là nền tảng cho những thành công trong giai đoạn trung cuộc
và tàn cuộc. Kết quả của ván cờ thường phụ thuộc rất nhiều vào những nước đi
ở giai đoạn khai cuộc. Chính vì thế mà nhiều cuốn sách khai cuộc ra đời để
chỉ dẫn cho người chơi ở giai đoạn này.
Tuy nhiên, không cần thiết phải tìm hiểu quá sâu vào tất cả các phương
án khai cuộc chi tiết, mà chỉ cần làm quen và nắm vững các nguyên lý, ý đổ
cơ bản nhất và một số khai cuộc cần thiết.
Khai cuộc trong cờ vua đa dạng và phong phú có rất nhiều loại khác
nhau như: “Gambit vua, khai cuộc tượng, phòng thủ Pháp,...” [8]. Mỗi ván
dùng một loại khai cuộc khác nhau, trong mỗi khai cuộc có những nước đi
5
thay đổi giăng bẫy cho đối phương mắc lừa đi những nước đi bất thường, gây
hậu quả tâm lý khiến đối phương nhất là đối phương chỉ quen sách vở, bài tập
phải ngạc nhiên khó chịu hoang mang, dẫn tới xử lý không tốt sẽ mất ưu thế.
1.1.2. Các nguyên tắc khai cuộc
Các nguyên tắc này là những lý luận đã được rút ra từ thực tiễn thi đấu.
Nếu không tuân thủ chúng thì sẽ dễ dàng bị thất bại. Dù ý đồ chiến lược có
khác nhau như thế nào trong mỗi dạng thức, nhưng trong giai đoạn khai cuộc
những người chơi cờ đều phải tuân thủ các nguyên tắc sau [8]:
- Nhanh chóng khống chế khu trung tâm.
- Phát triển quân nhanh và đầy đủ.
- Đưa vua vào vị trí an toàn.
- Xây dựng phòng tuyến tốt an toàn.
1.1.3. Phân loại khai cuộc trong cờ vua
Thuật ngữ “khai cuộc” dùng để chi giai đoạn ra quân, có hàng loạt các
kiểu ra quân với tên gọi khác nhau như: Khai cuộc tượng, khai cuộc bốn mã,
khai cuộc Anh... và mỗi loại khai cuộc trên đều có nguồn gốc xuất xứ tên gọi
của nó.
Người ta chia khai cuộc ra thành 3 hệ thống: Hệ thống khai cuộc
thoáng, hệ thống khai cuộc nửa thoáng, hệ thống khai cuộc kín [8].
1.1.3.1. Những khai cuộc thoáng
Đó là quy ước gọi tên chung của các khai cuộc mà với nước đi ban đầu
của trắng là e4 thì bên đen đáp lại bằng nước đi e5. Đối với khai cuộc này, nét
đặc trưng chủ yếu là khuynh hướng chủ đạo của chiến lược: Đó là nhanh
chóng giành khu trung tâm, đe dọa các vị trí hiểm yếu nhất trong thế trận đối
phương, các ván cờ luôn sôi động với những đòn chiến thuật hay những thế
biến phức tạp, đòi hỏi các vận động viên phải tính toán chính xác kế hoạch
này trong rất nhiều trường hợp rất khác nhau.
6
1.1.3.2. Những khai cuộc nửa thoáng.
Là những loại khai cuộc mà với nước đi đầu tiên của trắng đi e4, bên
đen không đáp lại bằng nước đi e5, mà đi bất kỳ một nước đi nào khác. Điều
đó có phải chăng là bên đen trong nhóm khai cuộc này đã nhường trung tâm
cho đối phương và từ chối không tham gia tranh giành khu trung tâm? không
phải như thế, những ô trung tâm cả trong khai cuộc nửa thoáng vẫn là phạm vi
tranh giành ảnh hưởng. Chỉ có điều, ở đây cuộc chiến chỉ tiến hành ở phương
pháp khác nhau, thông thường với nhịp điệu chậm hơn so với khai cuộc
thoáng. Một trong những đề tài chủ đạo của lý thuyết chơi cờ hiện đại trong
kiểu khai cuộc nửa thoáng là dùng quân gây áp lực chống lại trung tâm tốt đối
phương. Trong những ván cờ như vậy, một bên thường nhường trung tâm cho
đối phương rồi để sau đó đặt trung tâm dưới “làn đạn ” của mình.
1.13.3. Những khai cuộc kín
Là những khai cuộc bên trắng không đi nước đi e4, các cách ra quân kín
có rất nhiều và phần lớn đều phức tạp. Có thể nói, đây là lĩnh vực của bậc
thang thứ hai “ Trong lý thuyết ra quân”. Các cách khai cuộc này đều dựa trên
cơ sở đối chọi giữa áp lực bằng quân và trung tâm tốt. Chiến lược chơi như vậy
đòi hỏi sự chuẩn bị sâu sắc sự am hiểu nét tinh tế trong cách chơi thế trận.
Nếu như trong khai cuộc thoáng, tư tưởng chỉ đạo là phối hợp chiến thuật, thì
trong các loại khai cuộc kín là vận động chiến lược.
1.1.4. Phương pháp nghiên cứu khai cuộc.
Cần tiến hành công tác nghiên cứu các loại khai cuộc như thế nào? Phải
chăng chúng ta cần phải biết học thuộc lòng và ghi nhớ tất cả các thế trận đó
như một bảng cửu chương? Muốn hiểu rõ vấn đề này, chúng ta cần xác đinh
những thế biến khi ra quân có phải là những thế biến bắt buộc và duy nhất
không.
Một ván cờ chứa đựng muôn vàn khả năng khác nhau. Những trận biến
đó chỉ là những nước đi tiếp tục đã được kiểm nghiệm trong thi đấu, trong
7
từng thế ừận ra quân đều có thể tìm kiếm thêm những nước đi hoàn toàn áp
dụng được. Do đó, việc “ học vẹt” các tứ biến khai cuộc là điều không cần
thiết, thậm chí còn có hại vì nó hạn chế tính sáng tạo của vận động viên,
Laxke đã từng nói: “Biết cách chơi cờ không chỉ là công việc của trí nhớ đơn
giản, vì việc ghi nhớ các thế biến không phải là điều thiết yếu. Trí nhớ ỉà vũ
khí quỷ báu, không thể để phung phí cho những vụn vặt. Cần ghi nhớ không
phải những kết luận và các phương pháp chơi, phương pháp rất linh hoạt nó
có thể giúp ích trong mọi trường hợp ” [3].
Trigorin đã từng phát biểu rất đúng đắn rằng: “Trong mỗi trận khai
cuộc ta đều có thể áp dụng các phương án bắt trước sách vở mà vẫn đạt kết
quả, thậm chí có khỉ còn khả năng hơn ” [3].
Reti đưa ra ý kiến còn khả quan hơn nữa, ông viết: “ Hiểu biết dựa trên
các phương án có sẵn chỉ là ảo tưởng” [3]. Thực vậy, các phương án khai
cuộc không thể là thứ gì đó vĩnh cửu, đứng nguyên tại chỗ, thực ra chúng chỉ
là mặt gương phản ánh thực tiễn thi đấu, luôn luôn thay đổi và hoàn thiện.
Thay đổi cả cách đánh giá không chỉ riêng của từng phương án mà của cả toàn
bộ từng hệ thống khai cuộc mà chúng ta đã thấy những nước biến khác nhau
đã từng bị xóa bỏ, nhưng sau lại khôi phục được ý nghĩa của mình nhờ tìm ra
những cách di chuyển kín đáo mà trước kia người ta chưa nhận ra. Ý thức nắm
vững và hiểu biết các nguyên tắc chung của chiến lược khai cuộc cũng như nội
dung tư tưởng các hệ thống khai cuộc, do đó chính là điều cần thiết đối với
mỗi ai muốn hoàn thiện trình độ chơi cờ.
Cần thiết ghi nhận rằng, mặc dù các nguyên lý về sự triển khai nhanh
chóng lực lượng, về ý nghĩa các ô trung tâm... Đôi lúc tưởng chừng hết sức
đơn giản để ghi nhớ, nhưng thậm chí cả các vận động viên có kinh nghiệm
nhiều lúc ngay từ những nước đi cờ đầu đã tìm cách phối hợp để thu được các
ưu thế về lực lượng, phá vỡ các quy chế cân bằng thế trận. Nếu như họ gặp
8
phải các đấu thủ mạnh thì sự thông thường vi phạm các quy luật này sẽ dẫn
đến thất bại. Trong công tác nghiên cứu khai cuộc, bạn không được bỏ qua
những chỗ chưa thấu đáo. Nếu bạn chưa hiểu mục đích của một nước đi nào
đó trong khai cuộc mà bạn nghiên cứu thì bạn hãy cố gắng tìm hiểu thêm
những điều chỉ dẫn trong sách cũng như xem các ván cờ thi đấu của các kiện
tướng về đề tài đó.
Những kiến thức thu được chỉ là những tài sản nằm bất động nếu như
bạn không áp dụng trong thực hành thi đấu các phương án mà bạn quan tâm.
Nếu ghi chép cẩn thận các ván cờ mà bạn đã chơi, sau đó giành thời gian phân
tích và xác đinh nước đi nào bạn đã sai lầm cũng như chỗ nào bạn có thể đi
hay hơn. Vấn đề này trang bị vốn khai cuộc cũng như kinh nghiệm của người
chơi.
Cuối cùng cần khuyên bạn không nên có thái độ mù quáng, tôn sùng
các nguyên tắc chung hay các phương án lý thuyết. Các nguyên tắc chung có
ý nghĩa như các kết luận rút ra từ số lớn các trường hợp thực tế, thông thường
các nguyên tắc chung này rất đúng đắn. Nhưng mọi quy luật đều có ngoại lệ
và trong một số trường hợp riêng nào đó, các nguyên tắc chung này không áp
dụng được.
Môn cờ vua có sức cuốn hút mãi mãi chính là do nó đòi hỏi cách đặt
vấn đề sáng tạo, cách đánh giá sâu sắc và khả năng nhìn tới tương lai.
Trong cuốn sách “ Sự nghiệp của tôi trong môn cờ vua quốc tế”
H.Rcapablanca viết: “Khi chơi khai cuộc, bạn có thể gặp những nước đi đối
đáp của đối phương mà bạn chưa quen thuộc, trường hợp đó bạn chơi như thế
nào? Bạn hãy đi theo suy nghĩ lành mạnh, hãy nhanh chóng đưa các quân tới
vị trí an toàn. Có thể bạn không thực hiện nước đi nhanh nhất, nhưng nhận
được các thất bại của mình như các bài học và học tập theo cách học đó sẽ có
thể tránh chúng trong tương lai. Nếu bạn cho nước đi là hay thì bạn sẽ đi
nước cờ đó, kỉnh nghiệm là người thầy tốt. Nhiều người sau khi tìm ra một
9
cách di chuyển tốt mà họ cho rằng rất khả quan lại không giám thực hiện nó.
Thật là đáng tiếc, cần thực hiện không do dự điều mà bạn cho là hay, là đúng
đắn”[3].
Luôn ghi nhớ rằng, khai cuộc gắn bó với các giai đoạn khác nhau của
ván cờ và nhiều khi các phương án của khai cuộc có thể dẫn tới các tình huống
thông dụng của ván cờ. Hơn thế nữa, nhiều khi xuất hiện cách bố phòng các
quân tốt theo một sơ đồ cụ thể và chúng có thể tác động đến cách choi ở giai
đoạn tàn cuộc.
Trong một cuốn sách hướng dẫn chơi cờ của mình, Laxke đã viết: “ Tôi
đã đào tạo học trò biết cách suy nghĩ độc lập và biết cách phê phán các tài
liệu. Trong cờ vua, tôi muốn đưa đến cho họ không phải là những khái niệm
trừu tượng hay những luận điểm chung mà muốn đem lại những kiến thức sôi
động...” [3].
Họ phải sẩn sàng trải qua những thử thách trong trận đấu bằng các khái
niệm, các quy luật và cách đánh giá một lần mà là nhiều lần một cách tự giác,
phấn khởi và cho đến nay đó vẫn là lời nói đúng.
1.2. Xu hướng huấn luyện khai cuộc cờ vua.
Qua nhiều năm thi đấu cùng với kinh nghiệm và trình độ phát triển. Tôi
nhận thấy, trình độ cờ của các vận động viên được phát triển và củng cố rất
nhiều năm trước cũng như sự phát triển của môn cờ vua ngày càng tăng. Hiện
nay, số lượng khai cuộc được tăng lên rất nhiều với nhiều thế biến và tình
huống phong phú. Số nước đi trong khai cuộc, trước kia thường chỉ dừng lại ở
8 - 1 2 nước đi, nhưng nay với sự phát triển của khoa học công nghệ cùng với
sự ham thích của những người choi cờ nói chung và VĐV nói riêng. Qua sách
báo đặc biệt là mạng Internet lượng nước đi trong khai cuộc được tăng lên tới
1 0 - 1 8 nước đi. Với sự phát triển của môn cờ vua được hòa nhập vào công
nghệ thông tin thì trình độ chơi cờ của người chơi được tăng lên rất nhiều.
10
Để đạt được trình độ cao môn cờ vua, người chơi cần phải có thời gian
chuyên tâm nghiên cứu, học hỏi, quan trọng nhận thức được vai trò của từng
giai đoạn trong ván đấu. Khai cuộc có vai trò rất quan trọng vì nó là giai đoạn
đầu của trận đấu, nếu không am hiểu nắm vững khai cuộc thì khả năng thua
trận ngay từ đầu là rất lớn mà chưa kịp vào tới trung cuộc.
Thực tế, những người choi cờ mà nắm vững lý thuyết khai cuộc đã chơi
vượt trội hơn hẳn so với những người không biết. Nếu đã nắm rõ khai cuộc,
thoạt nhìn đã biết đối phương chơi khai cuộc nào và lập tức đối phó một cách
có hiệu quả giành thế chủ động từ đó nắm quyền dãn dắt ván cờ.
Do vậy, VĐV cờ vua Việt Nam không ngừng nghiên cứu học tập các
thế trận khai cuộc mới, các ván đấu của các đấu thủ nổi tiếng mà rút ra được
nhiều kinh nghiệm thi đấu, các đòn phối hợp, trình độ khai cuộc, trung cuộc
và tàn cuộc, tích lũy thêm kinh nghiệm bài vở. Như vậy trình độ VĐV cờ vua
Việt Nam được tăng lên một cách đáng kể.
Từ những vấn đề trên cho thấy, xu hướng huấn luyện cờ vua hiện nay
như sau:
- Độ sâu của các phương án khai cuộc.
- Số lượng các phương án, các hệ thống khai cuộc cần nắm vững.
- Thường xuyên cập nhật thông tin về các nước đi mới trong khai cuộc
từ các tạp chí chuyên ngành, mạng Internet...
- Tính linh hoạt trong khi chơi khai cuộc (chuyển từ khai cuộc này sang
khai cuộc khác).
1.3. Đặc điểm tâm, sinh lí học sinh THPT.
Lứa tuổi học sinh trung học phổ thông bao gồm những em có độ tuổi từ
15 đến 17, 18 tuổi, lứa tuổi này còn gọi là lứa tuổi tiền thanh niên, nó có một
vị trí đặc biệt quan trọng trong thòi kì phát triển của con người.
1.3.1. Đặc điểm tâm lý.
Đặc điểm tâm lý chung: Các em muốn chứng tỏ mình là người lớn,
muốn được mọi ngưòi tôn trọng mình, đã có trình độ hiểu biết nhất định, có
11
khả năng phân tích tổng hợp hơn, muốn hiểu nhiều biết rộng, thích hoạt động
có nhiều hoài bão nhưng còn nhiều nhược điểm.
1.3.1.1. Đặc điểm tám lý trong học tập.
Do nội dung và tính chất của hoạt động học tập ở THPT có sự khác biệt
với hoạt động ở THCS. Sự khác biệt đó chủ yếu ở chỗ hoạt động học tập ở
trường THPT đòi hỏi học sinh tính năng động sáng tạo và tính độc lập ở mức
độ cao hơn nhiều, đồng thời cũng đòi hỏi phải phát triển tư duy lý luận để nắm
được nội dung một cách sâu sắc. Học sinh càng trưởng thành, kinh nghiệm
sống càng phong phú, các em càng có ý thức được rằng mình đang đứng trước
ngưỡng cửa của cuộc đòi. Do vậy thái độ có ý thức của các em đối với học tập
ngày càng phát triển.
Thái độ của học sinh đối với môn học có lựa chọn hơn. Các em đã hình
thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh hưáng nghề nghiệp. Cuối
bậc THPT các em đã xác định được cho mình hứng thú đối với môn học nào
đó, đối với lĩnh vực tri thức nhất đinh. Hứng thú này thường liên quan tới việc
lựa chọn nghề nghiệp nhất đinh của học sinh. Hơn nữa, hứng thú nhận thức
của học sinh THPT mang tính chất rộng rãi hơn ở THCS.
Thái độ học tập của học sinh THPT được thúc đẩy bởi động cơ học tập
(ý nghĩa thực tiễn của môn học đối với cá nhân), động cơ nhận thức, và ý
nghĩa xã hội của môn học... Các em thường tỏ ra tích cực học một số môn các
em cho là quan trọng với nghề của mình đã chọn còn các môn học khác thì
sao nhãng hoặc chỉ học qua.
1.3.1.2. Đặc điểm tâm lí trong sự phát triển trí tuệ.
Ở học sinh THPT tính chủ định được phát triển manh ở tất cả các quá
trình nhận thức.
Tri giác có mục đích đã đạt tới mức rất cao. Quan sát trở nên có mục
đích, có hệ thống và phát triển toàn diện hơn. Quá trình quan sát đã chịu sự
điều khiển của hệ thống túi hiệu thứ hai nhiều hơn và không tách khỏi tư duy
12
ngôn ngữ. Tuy nhiên quan sát của học sinh cũng khó có hiệu quả nếu thiếu sự
chỉ đạo của giáo viên.
Ghi nhớ của học sinh THPT có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt
động trí tuệ, đồng thời vai trò ghi nhớ logic trừu tượng, ghi nhớ có ý nghĩa
ngày càng tăng (các em biết sử dụng tốt hơn các phương pháp ghi nhớ: Tóm
tắt ý chính, so sánh đối chiếu...). Đặc biệt các em đã tạo được tâm thế phân
hóa trong ghi nhớ. Các em biết cái gì cần nhớ từng câu, từng chữ, cái gì cần
hiểu mà không cần nhớ... Tuy nhiên một số em còn ghi nhớ đại khái, chung
chung, thiếu khoa học, nhớ theo kiểu học vẹt không hiểu bản chất.
Tư duy: Do cấu trúc của não phức tạp và chức năng của não phát triển,
do sự phát triển của quá trình nhân thức nói chung, do ảnh hưởng của hoạt
động học tập mà hoạt động tư duy của thanh niên học sinh có thay đổi quan
trọng. Các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc đáo
sáng tạo. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất quán hơn. Đồng
thời tính phê phán của tư duy cũng phát triển... Những đặc điểm đó tạo điều
kiện cho học sinh thực hiện các thao tác tư duy toán học phức tạp, phân tích
nội dung cơ bản của các khái niệm trừu tượng và nắm được mối quan hệ nhân
quả trong tự nhiên và trong xã hội. Đó là cơ sở để hình thành thế giới quan.
1.3.1.3. Đặc điểm tâm lý trong nhận thức.
Sự phát triển tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân
cách của học sinh THPT, có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển tâm lý của lứa
tuổi học sinh. Quá trình này rất phong phú, phức tạp và mang một số đặc điểm
như sau:
Các em đã tri giác những đặc điểm cơ thể của mình một cách hoàn toàn
mới. Các em thường chú ý đến hình dáng bên ngoài của mình (hay soi gương,
chú ý sửa tư thế, quần áo..
Hình ảnh về thân thể là một thành tố quan trọng
của sự tự ý thức của học sinh THPT. Sự tự ý thức của học sinh là một quá trình
lâu dài, quá trình này phát triển tự ý thức diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi và có tính
13
chất đặc thù riêng: Học sinh thường có nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những
tâm lý đặc điểm tâm lý của mình theo quan điểm về mục đích sống và hoài
bão của mình. Chính điều này khiến các em quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm
lý, phẩm chất nhân cách và năng lực riêng.
Sự tự ý thức của học sinh thường xuất phát từ nhu cầu của cuộc sống và
hoạt động trong tập thể, những quan hệ với thế giới xung quanh buộc họ phải
ý thức được những đặc điểm nhân cách của mình. Các em thường hay ghi nhật
ký, so sánh mình với nhân vật mà họ coi là tấm gương. Nội dung của sự tự ý
thức cũng khá phức tạp. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi của mình trong
hiện tại như học sinh THCS, mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội,
trong tương lai.
Đối với học sinh THCS có thể hiểu rõ mình ở những phẩm chất nhân cách
bộc lộ rõ (lòng yêu lao động, tính cần cù, dũng cảm..
thì ở học sinh THPT còn
có thể hiểu rõ những phẩm chất phức tạp, biểu hiện những quan hệ nhiều mặt của
nhân cách (tinh thần trách nhiệm, lòng tự trọng, tình cảm nghĩa vụ..
Học sinh THPT là lứa tuổi quyết định của sự hình thành thế giới quan hệ thống quan điểm về xã hội, tự nhiên, về cách cư xử... Những cơ sở của thế
giới quan đã được hình thành dần dần từ rất sớm - hình thành ngay từ nhỏ.
Trong suốt thòi gian học ở phổ thông, học sinh đã lĩnh hội, hiểu biết được cái
đẹp, cái xấu, cái thiện, cái ác... Dần dẩn những điều đó được ý thức và được
quy vào các hình thức, các tiêu chuẩn, nguyên tắc hành vi được xác định...
Nhưng chỉ đến giai đọan này, khi nhân cách được phát triển tương đối cao, thì
các em mới xuất hiện những nhu cầu đưa tiêu chuẩn, nguyên tắc hành vi đó
vào một hệ thống hoàn chỉnh. Khi đã có được hệ thống quan điểm riêng thì
học sinh THPT không chỉ hiểu về thế giới khách quan, mà còn đánh giá được
nó, xác định được thái độ của mình đối vói thế giới quan đó.
Việc hình thành thế giới quan không chỉ giới hạn ở tính tích cực nhận
thức, mà còn thể hiện ở phạm vi nội dung nữa. Học sinh THPT thường quan
14
tâm nhiều tới các vấn đề có liên quan tới con người, vai trò của con người
trong xã hội, giữa quyền lợi và nghĩa vụ, nghĩa vụ và tình cảm. Vấn đề ý nghĩa
cuộc sống chiếm vị ữí trung tâm trong suy nghĩ của học sinh. Họ thường đặt
ra các câu hỏi, các giả thiết về cuộc sống, về xã hội. Nội dung cụ thể của câu
hỏi do đạo đức của xã hội, định hướng giá trị của cá nhân, quan hệ thực tế và
hoạt động của cá nhân học sinh quyết định, nó cũng còn do hệ thống tri thức
của học sinh về đời sống nói chung, về kinh tế nói riêng quyết định.
1.3.1.4. Đặc điểm tâm lý trong giao tiếp và đời sống tình cảm.
Độ tuổi học sinh THPT là lứa tuổi mang tính chất tập thể nhất. Điều
quan trọng đối với các em là được sinh hoạt với các bạn cùng lứa tuổi, là thấy
mình cần cho nhóm, có uy tín, có vị trí nhất đinh trong nhóm.
Ở lứa tuổi này quan hệ với bạn bè chiếm vị trí lớn hơn hẳn so với quan
hệ đối với người lớn tuổi hoặc ít tuổi hơn. Điều này do lòng khao khát muốn
có vị trí bình đẳng trong cuộc sống chi phối. Cùng với sự trưởng thành với
nhiều mặt, quan hệ dựa dẫm, phụ thuộc vào cha mẹ dần dần cũng được thay
thế bằng quan hệ bình đẳng, tự lập. Trong hoàn cảnh giao tiếp tự do, rỗi rãi,
trong tiêu khiển, trong việc phát triển nhu cầu sở thích thanh niên hướng vào
bạn bè nhiều hơn là hướng vào cha mẹ. Nhưng khi bàn đến những giá trị sâu
sắc hơn như việc định hướng, thế giới quan, những giá tn đạo đức thì ảnh
hưởng của cha mẹ lại manh mẽ hơn rõ rệt.
Về đời sống tình cảm học sinh THPT rất phong phú và nhiều vẻ. Đặc
điểm này thể hiện rất rõ trong tình bạn của các em, vì đây là lứa tuổi mà
những hình thức đối xử có lựa chọn đối với mọi người trở nên sâu sắc và mặn
nồng. Ở lứa tuổi này nhu cầu về tình bạn tâm tình cá nhân được tăng lên rõ
rệt. Tuy tình bạn sâu sắc đã được bắt đầu từ lứa tuổi học sinh THCS, nhưng
sang tuổi này tình bạn của các em trở nên sâu sắc hơn nhiều. Các em có yêu
cầu cao hơn đối với tình bạn (yêu cầu sự chân thật, lòng vị tha, tin tưỏng, tôn
trọng, giúp đỡ lẫn nhau...). Trong quan hệ với bạn bè các em cũng nhạy cảm
15
hơn: Không chỉ có khả năng xúc cảm chân tình, mà còn phải có khả năng đáp
ứng lại xúc cảm của người khác (đồng cảm). Tình cảm của học sinh THPT
thường hay rất bền vững. Tình bạn ở tuổi này có thể vượt được mọi thử thách
và kéo dài suốt cuộc đời. Sự khác biệt giữa cá nhân trong tình bạn rất rõ. Quan
niệm học sinh lứa tuổi này về tình bạn và mức độ thân thiết trong tình bạn
cũng rất phong phú (vì phẩm chất tốt của bạn, vì tính tình, vì có cùng hứng thú
và sở thích...).
Một điểm khác biệt rõ rệt giữa lứa tuổi học sinh THPT với lứa tuổi học
sinh THCS đó chính là phạm vi quan hệ bạn bè được mở rộng. Bên cạnh các
nhóm bạn cùng giới còn có khá nhiều nhóm bạn khác giới. Do vậy nhu cầu về
tình bạn với bạn khác giới được tăng cường. Và ở một số em đã xuất hiện
những sự lôi cuốn đầu tiên khá mạnh mẽ, xuất hiện nhu cầu chân chính về
tình yêu và tình cảm sâu sắc. Đó là một trạng thái mới mẻ, nhưng rất tự nhiên
trong đời sống tình cảm của thanh niên mới lớn.
1.3.2. Đặc điểm sinh lý.
Ở lứa tuổi này cơ thể đã phát triển tương đối hoàn chỉnh, các bộ phận cơ
thể vãn tiếp tục lớn lên nhưng chậm dẩn, sự phát triển cơ thể còn kém so với
sự phát triển của người lớn. Chức năng sinh lý tương đối ổn đinh, khả năng
hoạt động của cơ quan bộ phận cơ thể cũng nâng cao hơn. Nếu cơ thể các em
THCS phát triển theo chiều cao nhiều hơn chiều ngang thì ở học sinh THPT
lại phát triển chiều ngang nhiều hơn, tuy chiều cao vẫn phát triển nhưng chậm
dần. Có nghĩa là ở lứa tuổi này các em đang phát triển mạnh mẽ về các hệ cơ
quan cũng như thể lực để tiến tới hoàn thiện. Khả năng hoạt động của các cơ
quan và các bộ phận cơ thể được nâng cao. Như vậy, có thể thấy ở lứa tuổi học
sinh THPT phát triển tương đối êm ả về mặt sinh lý.
Học sinh nam nữ phát triển theo hai hướng vận động sinh lý khác nhau
càng rõ về tầm vóc sức chịu đựng và biến đổi tâm lý. Nhịp độ tăng trưởng về
chiều cao và trọng lượng đã chậm lại so với thời kỳ thiếu niên. Các em gái đạt
16
được sự tăng trưởng của mình trung bình vào khoảng tuổi 16 và 17 (+13
tháng), các em trai khoảng từ 17 đến 18 tuổi (±10 tháng). Trọng lượng của
các em trai đã đuổi kịp các em gái và tiếp tục vượt lên. Sức mạnh cơ bắp tăng
rất nhanh. Lực cơ của các em trai 16 tuổi vượt lên gấp 2 lần so với lực cơ của
em lúc 12 tuổi.
Hệ thần kinh: Đặc điểm chức năng sinh lý và hệ cơ của hệ cơ quan của
lứa tuổi này được thể hiện qua các hệ thần kinh. Sự phát triển của hệ thần kinh
có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên ữong của não phức tạp và các
chức năng của não phát triển, cấu trác của bán cầu đại não có những đặc điểm
như trong cấu trúc tế bào của người lớn. Các biểu hiện cơ bản của hoạt động
thần kinh cao cấp đang được hình thành và phát triển. Hệ thống thần kinh tiếp
tục phát triển để đi đến hoàn thiện. Số lượng dây thần kinh liên hợp tăng lên,
liên kết các phần khác nhau của vỏ não lại. Điều đó tạo tiền đề cần thiết cho
sự phức tạp hóa hoạt động phân tích tổng hợp... Của vỏ bán cầu đại não ừong
quá ừình học tập, tuy nhiên tổng khối lượng của nó không tăng mấy chủ yếu
là cấu tạo bên trong não phức tạp hơn, do đó khả năng tư duy nhất là khả năng
phân tích tổng hợp, trừu tượng hóa rất thuận lợi cho việc hình thành phản xạ
có điều kiện. Lứa tuổi này có sự phát triển cao về ngôn ngữ, tư duy và các kỹ
xảo vận động, có ý nghĩa quan trọng.
Hệ yận động: Ở lứa tuổi này, xương bắt đầu gảm tốc độ phát triển về
chiều dài, chủ yếu là phát triển về độ dày. Sụn ở hai đầu xương còn dài nhưng
chuyển thành xương ít. Mỗi năm nữ cao khoảng 0,5 đến lem, nam từ 1 đến
3cm. Các xương nhỏ như xương bàn tay đã cốt hóa do hàm lượng chất hữu cơ
trong xương giảm và hàm lượng phốt pho và can xi... tăng. Cột sống đã ổn
đinh hình dáng, nhưng vẫn chưa được củng cố nên vẫn dễ cong veo.
Xương chậu nữ to và yếu hơn nam, nếu bị chấn động mạnh dễ ảnh
hưởng tới các cơ quan trong khung chậu: Dạ con và buồng trứng. Vì vậy,
trong Giáo dục thể chất cần có sự phân biệt khối lượng và nhất là vận động
giữa nam và nữ.
17
Hệ cơ: Các tổ chức cơ phát triển, phát triển muộn hơn xương. Cơ bắp
lứa tuổi này cơ co vẫn còn tương đối yếu, các bắp cơ phát triển tương đối
nhanh (cơ đùi, cơ cánh tay) các cơ co phát triển nhanh hơn các cơ duỗi. Các tổ
chức mỡ dưới da của phụ nữ phát triển manh.
Hệ tuần hoàn: Hệ tuần hoàn của học sinh THPT đã được phát triển và
hoàn thiện, nhịp tim nam khoảng 70 - 80 lần/ phút, nhịp tim nữ khoảng 75 85 lần/ phút và cung cấp lượng máu gần tương ứng với lứa tuổi trưởng thành.
Lượng máu tỷ lệ với trọng lượng cơ thể. Khối lượng máu, hồng cầu, tiểu cầu
và bạch cầu... đã tăng.
Hệ hô hấp: Vòng ngực nam trung bình từ 67,3 cm đến 72,2 cm, nữ từ
64,5 đến 74,8 cm. Diện tích tiếp xúc không khí của phổi tương đương lứa tuổi
trưởng thành (xấp xỉ 100 - 120 m2). Ở lứa tuổi này có sự thay đổi rõ rệt của độ
dài của chu kỳ hô hấp. Tần số hô hấp gần giống với ngưòi lớn: Từ 10 - 20 lần/
phút. Dung tích sống và thông khí phổi tối đa tăng, khả năng hấp thụ ôxi lớn
hơn, phổi phát triển manh nhưng không đều, lồng ngực còn nhỏ và hẹp nên
các em thường thở nhanh và sâu.
Trao đổi chất và năng lượng: Do nhu cầu phát triển và hình thành cơ thể
ở lứa tuổi này đang phát triển và cần nhiều đạm, đường mỡ muối khoáng, và
chất cần thiết khác... Quá trình chuyển hóa thường xảy ra rất nhanh.
Nhìn chung, đa số các em đã vượt qua các thời kỳ phát dục. Đây là lứa
tuổi các em có cơ thể phát triển cân đối, khỏe và đẹp. Phần lớn các em có thể
đạt được nhũng khả năng phát triển cơ thể như người lớn.
Đặc điểm sinh lý lớn nhất ở nữ đó là chu kỳ kinh nguyệt: Là một quá
trình sinh lý do những biến đổi bên trong hoạt động của các tuyến sinh dục
gây ra. Quá trình này thường lặp đi lặp lại theo chu kỳ.
18
CHƯƠNG 2: NHIỆM v ụ - PHƯƠNG PHÁP VÀ T ổ CHỨC
NGHIÊN CỨU
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích, đề tài giải quyết 2 nhiệm vụ sau:
Nhiêm
vu• 1: Thưc
trang
trong
•
1
ĩ
o sử dung
•
o các dang
1 o thức khai cuôc
•
o tâp
• MT
luyện và thi đẩu của đội tuyển cờ vua nữ trường THPT Yên Dũng 2- Bắc
Giang.
Để giải quyết nhiệm vụ 1, đề tài tiến hành theo hai bước sau:
Bước 1: Thu thập tài liệu liên quan đến những vấn đề nghiên cứu của
đề tài, tổng hợp, xác đinh cơ sở lựa chọn các test ứng dụng về mặt sinh lý.
Bước 2: Khảo sát, phỏng vấn các HLV, giáo viên của các trường về
thực tiễn công tác huấn luyện khai cuộc cho đội tuyển cờ vua nữ.
Nhiệm vụ 2: Nghiên cứu ứng dụng một số dạng thức khai cuộc cơ
bản cho đội tuyển cờ vua nữ trường THPT Yên Dũng 2 - Bắc Giang.
Lựa chọn các dạng khai cuộc cơ bản, các test xác định mức độ phù hợp
của test sẽ ứng dụng trong thực tiễn để huấn luyên khai cuộc cho đội tuyển cờ
vua nữ trường THPT Yên Dũng 2 - Bắc Giang.
2.2. Phương pháp nghiên cứu.
2.2.1. Phương pháp phân tích và tồng hợp tài liệu.
Là phương pháp thu thập thông tin bằng cách tìm đọc và phân tích tổng
hợp tài liệu tham khảo về các vấn đề có liên quan đến đề tài như: Các đề tài
khoa học, khóa luận, sách, báo chuyên ngành, Nghị quyết của Đảng và Nhà
nước,... để xác định cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu. Việc sử dụng phương
pháp này trong quá trình nghiên cứu là phục vụ chủ yếu cho việc giải quyết
các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
2.2.2. Phương pháp phỏng vấn.
Đây là phương pháp được sử dụng để thu thập thông tin qua việc phỏng
vấn các giáo viên, huấn luận viên và các em học sinh nhằm điều tra thực trạng sử
19
dụng các dạng khai cuộc, kỹ năng khai cuộc của đội tuyển cờ vua nữ. Đồng thời
lựa chọn các test đánh giá kỹ năng khai cuộc, các dạng khai cuộc cơ bản cho việc
huấn luyện của đội tuyển trong tập luyện và thi đấu. Kết quả của việc sử dụng
phương pháp này được tôi trình bày ở phần kết quả nghiên cứu của đề tài.
2.2.3. Phương pháp kiểm tra sư phạm.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài tiến hành tổ chức kiểm tra sư phạm.
Mục đích của quá trình này nhằm kiểm nghiệm trong thực tiễn độ tin cậy, tính
thông báo của hệ thống các test đánh giá kỹ năng khai cuộc của đôi tuyển cờ
vua nữ trường THPT Yên Dũng 2 - Bắc Giang.
2.2.4. Phương pháp quan sát sư phạm.
Là phương pháp nhận thức đối tượng nghiên cứu trong quá trình giáo
dục, giáo dưỡng mà không ảnh hưởng tới quá trình đó.
Thông qua các tiết học chính khóa và các hoạt động ngoại khóa tôi
đánh giá được khả năng tiếp thu lượng vận động, khả năng phối hợp kĩ - chiến
thuật, qua đó có thể xác định được khối lượng cho phù hợp YỚi điều kiện và
đối tượng.
Đe tài đã sử dụng phương pháp này trong việc quan sát các buổi tập
luyện và thi đấu của đội tuyển cờ vua nữ trường THPT Yên Dũng 2, để đánh
giá sự tiếp thu lượng vận động và khả năng phối hợp kĩ - chiến thuật. Qua đó
xác định sự phù hợp của các dạng thức khai cuộc. Việc quan sát này được tiến
hành liên tục từ khi bắt đầu đến khi kết thúc, nhờ đó nâng cao được độ tin cậy
của đề tài.
2.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
Để ứng dụng các dạng khai cuộc cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả ván
đấu của đối tượng nghiên cứu. Đe tài tiến hành nghiên cứu 20 em học sinh
trường THPT Yên Dũng 2 - Bắc Giang, chia làm hai nhóm: Nhóm thực
nghiệm và nhỏm đối chứng.
20
Nhóm thực nghiệm: Gồm 10 em học sinh tập luyện theo bài mà chúng
tôi đưa ra.
Nhóm đối chứng: Gồm 10 em học sinh tập luyện theo bài cũ.
Chương trình được thực nghiệm trong 6 tuần, nhóm đối chứng sử dụng
các dạng khai cuộc được HLV đang sử dụng, còn nhóm thực nghiệm sử dụng
các dạng khai cuộc do đề tài lựa chọn. Với thời gian 3 buổi mỗi tuần và mỗi
buổi tập 5 0 - 5 5 ’.
2.2.6. Phương pháp toán học thống kê
Là phương pháp được tôi sử dụng trong quá trình xử lý các số liệu đã
thu thập được của quá trình nghiên cứu. Sử dụng các công thức sau: X, 52, t, r
1. Số trung bình:
2. Phương sai:
X =
J = L -
n
52 =
—— (n < 30)
n -1
r
3. So sánh sô trung bình:
t quan sát: t -
Xa —Xb
4. Tính hệ số tương quan' r
(nA< 30 và nB< 30)
I(x,-x)-(y,-y)
2.3. Tổ chức nghiên cứu.
2.3.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng chủ thể là một số dạng thức khai cuộc cơ bản cho đội tuyển
cờ vua nữ trường THPT Yên Dũng 2 - Bắc Giang.
- Đối tượng khách thể là 20 học sinh nữ đội tuyển cờ vua trường THPT
Yên Dũng 2 - Bắc Giang.
21
2.3.2. Thời gian nghiên cứu.
Thời gian
Giai
đoạn
1
Nội dung
Băt
đầu
Kết thúc
Sản phẩm thu
được
- Đọc và phân tích tài liệu.
Đê
- Lựa chọn tên đề tài.
- Xây dựng và bảo vệ đề
cương
nghiên cứu khoa
11/2010
12/2010
học.
cương
- Thông tin sô liệu
- Thu thập tài liệu có liên
2
quan, viết tổng quan của đề
12/2010
03/2011
về khả năng ứng
tài.
dụng
các
dạng
- Hoàn thành tổng quan của
thức khai cuộc cơ
đề tài.
bản cho đội tuyển
- Thực trạng sử dụng các
cờ vua nữ.
dạng thức khai cuộc trong tập
- Thực trạng sử
luyện và thi đấu của đội tuyển
dụng
các
dạng
cờ vua nữ Trường THPT Yên
thức
khai
cuôc
Dũng 2 - Bắc Giang.
trong tập luyện và
- Nghiên cứu ứng dụng một
thi đấu của đội
số dạng thức khai cuộc cơ
tuyển cờ vua nữ
bản cho đội tuyển cờ vua nữ
trường THPT Yên
trường THPT Yên Dũng 2 -
Dũng 2 - Bắc
Bắc Giang.
Giang.
- Các số liệu thu
được.
3- Hoàn thiện đê tài
03/2011
05/2011
- Hoàn thiện và
bảo vệ đề tài.
2.3.3. Địa điểm nghiên cứu
- Trường ĐHSP Hà Nội 2 - Xuân Hòa - Phúc Yên - Vĩnh Phúc
- Trường THPT Yên Dũng 2 - Bắc Giang
22
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT q u ả
3.1. Thực trạng công tác huấn luyện khai cuộc cho đội tuyển cờ vua nữ
trường THPT Yên Dũng 2 - Bác Giang.
3.1.1. Thực trạng sử dụng các dạng khai cuộc của đội tuyển cờ vua
nữ.
Đề tài đã tiến hành khảo sát thực trạng việc sử dụng khai cuộc trong
quá trình huấn luyện khai cuộc cho đội tuyển cờ vua nữ ở trường Yên Dũng 2
ttong những năm gần đây được trình bày ở bảng 3.1.
Bảng 3.1: Thực trạng sử dụng khai cuộc trong huấn luyện đội tuyển cờ
vua nữ trường THPT Yên Dũng 2.
N ội dung kh ai cuộc
Khai cuộc tượng
2007
2008
X
Khai cuộc tốt
X
2009
2010
2011
X
X
X
X
Phòng thủ Hà - lan
X
Phòng thủ Pháp
X
Khai cuộc Anh
X
X
X
X
X
G a m b it v u a
X
Khai cuộc bốn mã
X
X
Ván cờ Xcôt - len.
X
X
Phòng thủ hai mã
Phòng thủ Xi - xi - lia
X
X
X
X
X
23
Từ kết quả ở bảng 3.1 cho thấy:
1. Số lượng khai cuộc là rất lớn như khai cuộc tượng, khai cuộc tốt,
phòng thủ Pháp, khai cuộc Anh, Gam
b it
vua, khai cuộc 4 mã, đang được sử
dụng vào quá trình huấn luyện cho đội tuyển cờ vua nữ trẻ.
2. Thực trạng sử dụng các dạng khai cuộc cơ bản trong quá trình giảng
dạy cho đội tuyển cờ vua nữ đã cho thấy, số lượng các đơn vị thường xuyên sử
dụng các thế trận điển hình là rất ít.
Mặt khác, khi tìm hiểu các đơn vị trực tiếp thường xuyên sử dụng các
dạng khai cuộc nhận thấy các giáo viên, HLV sử dụng các hình thức này chưa
đa dạng, chưa mang tính hệ thống và chưa thực sự vừa sức đối với đội tuyển.
Để tiếp nhân tốt các loại khai cuộc các em trong đội tuyển phải nắm
vững các phương pháp huấn luyện khai cuộc sau:
- Kết hợp khả năng phân tích của máy tính với sự đúc rút kinh nghiệm
bằng những thế trận điển hình đưa ra những phương án, hệ thống khai cuộc
phù hợp cho đội tuyển.
- Phối hợp kỹ chiến thuật - chiến lược cần nắm trong từng ván đấu.
- Thường xuyên rèn luyện không ngừng các dạng đòn phối hợp và các
dạng cờ tàn thực tế.
3.1.2.
Thực trạng kỹ năng khai cuộc của đội tuyển cờ vua nữ trường
THPT Yên Dũng 2 - Bác Giang.
Để tìm hiểu thực trạng kỹ năng khai cuộc và số lượng sai lầm trong khai
cuộc thường mắc phải của đội tuyển cờ vua nữ trong những năm gần đây, đề
tài đã tiến hành phân tích biên bản thi đấu của đội tuyển nữ cờ vua tại các giải
cờ vua toàn quốc các năm 2008 - 2009.
Nội dung phân tích tập trung vào việc vận dụng khai cuộc và những sai
lầm trong khai cuộc hoặc sau khai cuộc của các đội tuyển. Số lượng ván đấu
được phân tích và kết quả cụ thể như trình bày bảng 3.2.
24
Bảng 3.2. Thực trạng kỹ năng khai cuộc của đội tuyển cờ vua nữ
trường THPT Yên Dũng 2
2008
2009
Số lượng sai
STT
Các dạng thức khai cuộc
ĩ, ván
E„=214
Số lượng sai
E ván
Số lượng sai
lầm
đấu
lầm
E ván
lầm
đấu
đấu
•»i
%
%
%
1
Khai cuộc tượng
9
2
22.22
20
6
30.00
29
8
27.59
2
Khai cuộc tốt
3
1
33.33
0
-
-
3
1
33.33
3
Phòng thủ Pháp
22
5
22.27
25
11
44.00
47
16
34.04
4
Khai cuộc Anh
23
6
26.09
26
10
38.46
49
16
32.65
5
Khai cuộc bốn mã
5
1
20.00
7
2
28.57
12
3
25.00
6
Gambit vua
2
0
0
5
1
20.00
7
1
14.28
7
Ván cờ Xcốt - len.
25
7
28.00
27
9
33.33
52
16
64.00
8
Phòng thủ hai mã
7
2
28.57
8
3
37.50
15
5
33.33
96
24
25.00
118
42
35.59
214
66
30.84
25
Kết quả tại bảng 3.2 cho thấy:
Số lượng sai lẫm trong khai cuộc của đội tuyển cờ vua nữ tại các giải
là rất cao, cụ thể theo thống kê số lượng sai lầm trong khai cuộc của nữ thì
với 214 ván đấu thì có 66 sai lầm (chiếm tỷ lệ 30.84%). Như vậy cứ 3 ván
đấu thì có một ván đấu mắc sai lầm trong khai cuộc. Thực trạng này cho
thấy, công tác huấn luyện khai cuộc cho đội tuyển cờ vua nữ tại các địa
phương là chưa tốt.
Nguyên nhân cơ bản của thực trạng này là do khả năng vận dụng các
dạng khai cuộc chưa hợp lý. Vì vậy khi sử dụng các đội tuyển sẽ mắc phải sai
lầm do nghiên cứu về hệ thống khai cuộc này chưa sâu.
Đây là một tỷ lệ cao, chứng tỏ công tác huấn luyện kỹ năng khai cuộc
cho đội tuyển chưa được làm tốt, các em mắc những lỗi (sai lầm) ttong khai
cuộc vẫn còn tương đối cao sẽ ảnh hưởng tới kết quả và thành tích thi đấu của
đội tuyển.
3.2. Lựa chọn và đánh giá hiệu quả các dạng khai cuộc vào thực tiễn
giảng dạy huán luyện đội tuyển cờ vua nữ trường THPT Yên Dũng 2 Bắc Giang.
3.2.1. Lựa chọn test đánh giá kỹ năng khai cuộc của đội tuyển cờ
vua nữ trường THPT Yên Dũng 2 - Bắc Giang.
3.2.1.1. Cơ sở thực tiễn của các test đánh guí kỹ năng khai cuộc của
đội tuyển cờ vua nữ trường THPT Yên Dũng 2 - Bắc Giang.
Thông qua việc nghiên cứu, phân tích các nguồn tài liệu chuyên môn,
tôi đã xác định được 6 test sử dụng trong việc đánh giá kỹ năng khai cuộc của
đối tượng nghiên cứu. Nhằm xác đinh cơ sở thực tiễn của các test, tôi đã tiến
hành phỏng vấn các giáo viên, HLV vể mức độ sử dụng các test này. Kết quả
thu được trình bày ở bảng 3.3.