Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Cải cách thủ tục hành chính về hải quan, từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (847.3 KB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VIỆT ANH

CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH VỀ HẢI QUAN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Đắk Lắk, 2019


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VIỆT ANH

CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH VỀ HẢI QUAN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK
Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8380102

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Phú

Đắk Lắk, 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng
của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực, chính xác và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả

Nguyễn Việt Anh


MỤC LỤC
Phần mở đầu ...................................................................................................... 1
Chương 1 ......................................................................................................... 12
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
VỀ HẢI QUAN ............................................................................................... 12
1.1. Cơ sở lý luận về cải cách thủ tục hành chính ....................................... 12
1.2. Cơ sở pháp lý về cải cách thủ tục hành chính về hải quan .................. 22
1.3. Kinh nghiệm cải cách thủ tục hành chính tại một số Cục Hải quan địa
phương......................................................................................................... 25
THỰC TRẠNG CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH VỀ HẢI QUAN Ở
TỈNH ĐẮK LẮK. ........................................................................................... 30
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và tổ chức bộ máy của Cục Hải
quan tỉnh Đắk Lắk ....................................................................................... 30
2.2. Khái quát về cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan ........ 35
Chương 3: ........................................................................................................ 55
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CẢI CÁCH THỦ TỤC
HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN TỪ THỰC TIỄN TỈNH
ĐẮK LẮK ....................................................................................................... 55
3.1. Phương hướng đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực
hải quan. ...................................................................................................... 55
3.2. Giải pháp đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải

quan từ thực tiễn Cục Hải quan Đắk Lắk.................................................... 58
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 69


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ADB
AFTA
APEC
ASEAN
ASEAN-4
ASEAN-6

ASEM
CCHC
CPTPP
EU
GATT
IMF
IMT
TTHC
UBND
VCIS
VNACCS
WB
WCO
WTO
XNK


: Ngân Hàng phát triển Châu Á
: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
: Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Chấu Á-Thái Bình Dương
: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á gồm 4 nước
(Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan)
: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á gồm 6 nước
(Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và
Thái Lan)
: Hội nghị Thượng đỉnh Á-Âu
: Cải cách hành chính
: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái
Bình Dương
: Liên Minh Châu Âu
: Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch
: Quĩ tiền tệ Quốc tế
: Thương mại hàng hóa quốc tế
: Thủ tục hành chính
: Ủy ban nhân dân tỉnh
: Hệ thống thông tin tình báo Hải quan Việt Nam
: Hệ thống thông quan hàng hóa tự động
: Ngân Hàng Thế giới
: Tổ chức Hải quan thế giới
: Tổ chức Thương mại thế giới
: Xuất nhập khẩu


DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2. 1: Giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tại Cục Hải quan Đắk
Lắk từ 2014 - 2018 (Nguồn: Cục Hải quan Đắk Lắk) [13]. .......................... 45

Hình 2. 2: Số thu nộp ngân sách Nhà nước tại Cục Hải quan Đắk Lắk từ 2014
- 2018 (Nguồn: Cục Hải quan Đắk Lắk) [13]. ............................................... 45


Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam, nước ta đã từng bước hội nhập toàn diện. Trong lĩnh vực kinh tế, nước
ta đã là thanh viên nhiều tổ chức kinh tế, thương mại lớn như: Tổ chức thương
mại thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
(APEC), Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA), Khu vực
Mậu dịch tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA), Khu vực Mậu dịch tự do
(AJFTA)…; và mới đây, nước ta đã ký kết tham gia Hiệp định thương mại
toàn diện và tiến bộ xuyên Thài Bình Dương (CPTPP), đang đàm phán để ký
kết Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA).
Trong lĩnh vực hải quan, chúng ta đã tham gia Hiệp định Tổ chức Hải quan
Thế giới (WCO). Ngoài ra, nước ta đã phê chuẩn hoặc ký kết tham gia là các
hiệp định song phương đa phương khác. Việc nước ta hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới đã tạo ra cơ quan hội lớn cho phát triển nền kinh tế trong
quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
tranh thủ được nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để đáp ứng với yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hội nhập cũng là quá trình giảm
dần và tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế quan và các rào cản khác... Tuy nhiên,
hội nhập quốc tế bên cạnh những thuận lợi, cơ quan hội cũng xuất hiện những
thách thức không nhỏ đòi hỏi chúng ta phải có nỗ lực cao vượt qua. Đã hội
nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề đặt ra đối với bất cứ quốc gia nào là phải chủ
động tham gia “sân chơi” chung. Một trong những vấn đề đặt ra trong hội
nhập kinh tế quốc tế là phải xây dựng hệ thống pháp luật hải quan phù hợp
với các chuẩn mực quốc tế và bảo đảm thi hành nghiêm các quy định pháp
luật đó, trong thực tế mà quản lý nhà nước về Hải quan là một trong những

lĩnh vực sôi động và hết sức phức tạp.
1


Việc hình thành chủ trương, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
cải cách hành chính cũng như xác định nội dung, phương hướng, giải pháp
thực hiện cải cách hành chính trong từng giai đoạn là một quá trình tìm tòi,
sáng tạo không ngừng trong đường lối đổi mới toàn diện đất nước được khởi
đầu từ Đại hội lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986.
Từ xác định những nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế - xã
hội trầm trọng, Đại hội VI đã chỉ rõ nguyên nhân của mọi nguyên nhân là
công tác tổ chức và đề ra chủ trương: Thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ
chức bộ máy của các cơ quan Nhà nước, theo phương hướng: Xây dựng và
thực hiện một cơ chế quản lý nhà nước thể hiện quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động ở tất cả các cấp. Tăng cường bộ máy của nhà nước từ trung
ương đến địa phương và cơ sở thành một hệ thống thống nhất, có sự phân
định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm từng cấp theo nguyên tắc
tập trung dân chủ, phân biệt chức năng quản lý hành chính – kinh tế với quản
lý sản xuất – kinh doanh, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa
phương và vùng lãnh thổ, phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội.
Thực hiện một quy chế làm việc khoa học, có hiệu suất cao; xây dựng bộ máy
gọn nhẹ, có chất lượng cao với một đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị và
năng lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tổ chức bộ máy nhà nước đã được sắp
xếp lại một bước theo hướng gọn nhẹ, bớt đầu mối. Tuy nhiên, nhìn chung tổ
chức và biên chế của bộ máy nhà nước vẫn còn quá cồng kềnh, nặng nề.
Chính vì vậy, Đại hội VII đã xác định: Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước
theo phương hướng: Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện thống nhất quyền lực

nhưng phân công, phân cấp rành mạch; bộ máy tinh giản, gọn nhẹ và họat
2


động có chất lượng cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật,
quản lý. Trên cơ sở đó, cần tập trung làm tốt một số việc sau:
- Sửa đổi Hiến pháp, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục
sửa đổi và xây dựng hệ thống pháp luật về kinh tế, văn hóa, xã hội, về hình
sự, dân sự, hành chính, về quyền và nghĩa vụ công dân… Nâng cao trình độ
của các cơ quan nhà nước về xây dựng luật pháp, sớm ban hành luật về trình
tự xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật, đảm bảo cho Nhà nước
quản lý mọi mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật. Thường xuyên giáo dục
pháp luật, xây dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật trong nhân dân.
- Cải tiến tổ chức hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân để làm
đúng chức năng quy định. Đổi mới tiêu chuẩn đại biểu, chế độ bầu cử và quy
chế hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
- Sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức họat động của Chính phủ, coi
trọng bàn bạc tập thể đồng thời đề cao trách nhiệm và quyền hạn cá nhân của
người đứng đầu Chính phủ, đứng đầu bộ máy quản lý và điều hành.
- Xác định lại chức năng, nhiệm vụ của cấp tỉnh, huyện, xã để sắp xếp
lại tổ chức của mỗi cấp; đề cao quyền chủ động và trách nhiệm của địa
phương, đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của nhà nước trung ương,
xây dựng chính quyền xã, phường vững mạnh.
- Tăng cường hiệu quả của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Đổi mới hệ
thống tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân.
Bảo đảm các điều kiện và phương tiện cần thiết để các cơ quan bảo vệ pháp
luật làm tốt nhiệm vụ.
- Kiên quyết sắp xếp lại tổ chức và tinh giản biên chế các cơ quan hành
chính, sự nghiệp ngay từ năm 1991, làm cho bộ máy gọn nhẹ và hoạt động có
hiệu quả. Sớm ban hành quy chế viên chức nhà nước. Xây dựng đội ngũ viên

3


chức nhà nước có phẩm chất chính trị, tinh thần trách nhiệm cao và thành thạo
nghiệp vụ.
- Tiếp tục tiến hành kiên quyết và thường xuyên cuộc đấu tranh chống
tệ tham nhũng. Phương hướng cơ bản để khắc phục tệ tham nhũng là xây
dựng và hoàn chỉnh bộ máy, cơ chế quản lý và pháp luật; xử lý nghiêm minh
những người vi phạm, đồng thời tăng cường giáo dục tư tưởng, quản lý chặt
chẽ nội bộ.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 do Đại hội VII
thông qua đã khẳng định bước tiến về lý luận, nhận thức về nền hành chính
nhà nước. Cương lĩnh đã nêu: Về Nhà nước“phải có đủ quyền lực và có đủ
khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng
pháp luật. Sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính,
kiện toàn các cơ quan luật pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý
của nhà nước”. Chiến lược cũng nêu trọng tâm cải cách “nhằm vào hệ thống
hành chính với nội dung chính là xây dựng một hệ thống hành pháp và quản
lý hành chính nhà nước thông suốt từ trung ương xuống cơ sở, có đủ quyền
lực, năng lực, hiệu lực”.
Trên cơ sở những nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra, trong nhiệm kỳ này đã
tiến hành đợt sắp xếp lần thứ hai kể từ Đại hội VI hệ thống chính trị ở Việt
Nam bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Sau Đại hội VII, từ 1992 đến 1995 là giai đoạn phát triển mạnh tư duy,
quan niệm, nhận thức của Đảng về nền hành chính nhà nước và về cải cách
hành chính. Hội nghị Trung ương 8 khoá VII (1/1995) đánh dấu bước phát
triển mới về xây dựng và phát triển nền hành chính nhà nước. Cải cách một
bước nền hành chính nhà nước được xác định là yêu cầu bức xúc và là trọng


4


tâm của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, với mục tiêu xây dựng một
nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng
bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của nhà nước,
thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống
nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội. Lần đầu
tiên 3 nội dung chủ yếu của cải cách hành chính nhà nước được trình bày một
cách hệ thống trong Nghị quyết Trung ương 8, đó là cải cách thể chế của nền
hành chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy cùng quy chế hoạt động của hệ thống
hành chính và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Có thể nói
Nghị quyết là tiền đề quan trọng xây dựng và thực hiện thể chế mới về công
chức, công vụ của Việt Nam. Nghị quyết xác định: “Xây dựng và từng bước
hoàn thiện chế độ công vụ và quy chế công chức, chú trọng cả yêu cầu về
phẩm chất, đạo đức và trình độ, năng lực. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ
thống ngạch, bậc công chức và cải cách chế độ tiền lương, gắn trách nhiệm
với quyền hạn, nhiệm vụ với chính sách đãi ngộ… Ban hành quy chế tuyển
dụng và đề bạt qua thi tuyển hoặc kiểm tra sát hạch”. Việc thực hiện Nghị
quyết Trung ương 8 Khoá VII đã mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn chuyển
biến thật sự trong cải cách hành chính ở Việt Nam.
Đại hội X (năm 2006) tiếp tục khẳng định chủ trương đẩy mạnh cải
cách hành chính, xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh,
từng bước hiện đại, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng
xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại và xác
định một loạt các biện pháp quan trọng để đẩy mạnh cải cách hành chính.
Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Nghị quyết Trung ương
5 Khoá X đã cụ thể hoá những vấn đề cần phải thực hiện trong CCHC thời
gian tới ở Việt Nam. Đại hội XI (1/2011) tiếp tục khẳng định:


5


- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính. Giảm
mạnh và bãi bỏ các loại thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công
dân.
- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ; xây dựng nền
hành chính thống nhất; trong sạch; vững mạnh; có hiệu lực và hoạt động hiệu
quả; tổ chức tinh gọn và hợp lý.
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức của
các bộ, cơ quan ngang bộ. Tăng cường thanh tra, kiểm tra giám sát của Trung
ương; gắn quyền hạn với trách nhiệm được giao.
Có thể khẳng định rằng cải cách hành chính nhà nước luôn là một chủ
trương nhất quán; thể hiện tầm nhìn của Đảng trong lãnh đạo tổ chức và hoạt
động của nhà nước, thông qua các biện pháp cụ thể ở từng giai đoạn phát triển
của đất nước để cải cách và đổi mới nền hành chính nhà nước phù hợp với
yêu cầu của quá trình phát triển.
Cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, Đắk Lắk là một tỉnh
đã bắt đầu có sự hội nhập khá sâu vào quan hệ quốc tế. Tại đây, hoạt động
xuất nhập khẩu hàng hoá thương mại diễn ra ngày càng đa dạng, các hoạt
động này giúp cho cho kinh tế phát triển, cải thiện đời sống, đáp ứng nhu cầu
của người dân, doanh nghiệp. Trong khi đó, công tác cải cách thủ tục hành
chính về hải quan còn nhiều hạn chế. Thực tế này đòi hỏi công tác cải cách
thủ tục hành chính về hải quan phải được đổi mới để đáp ứng yêu cầu thực
tiễn, nhưng vẫn đảm bảo tốt việc quản lý nhà nước về hải quan.
Do đó, với mong muốn cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính tạo thuận
lợi tối đa cho thương mại, thu hút đầu tư, cải thiện môi trường kinh doanh,
nâng cao chỉ số đánh giá hoạt động của đơn vị trong ngành Hải quan nói riêng
và nâng cao chỉ số xếp hạng trong CCHC với các sở, ban ngành của tỉnh nói
6



chung, góp phần xây dựng Hải quan Đắk Lắk trong sạch, vững mạnh, giỏi về
chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý chuyên nghiệp, công khai, minh bạch, hiệu
lực, hiệu quả.
Từ những vấn đề có tính cấp thiết nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài
“Cải cách thủ tục hành chính về hải quan, từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” làm đề
tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành luật Hiến pháp và luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, đối với công tác cải cách thủ tục hành chính nói chung đang
được Đảng, Nhà nước quan tâm hơn bao giờ hết. Các ngành, các lĩnh vực đều
quan tâm đối với công tác này và ngành Hải quan cũng đã vào cuộc mạnh mẽ
đối với công tác cải cách thủ tục hành chính. Việc cải cách thủ tục hành chính
về Hải quan có ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh nước ta đã tham gia rất nhiều
hiệp định quốc tế với các yêu cầu cải cách để phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều
kết quả đạt được trong công tác cải cách thủ tục hành chính ngành Hải quan
đã được khẳng định và từng bước tạo ra những chuyển biến tích cực, thay đổi
quan trọng trong hoạt động quản lý Nhà nước của Ngành. Các kết quả đó tạo
tiền đề cho Hải quan Việt Nam cải cách, hiện đại hóa mạnh mẽ, hội nhập
cùng Hải quan thế giới, hướng đến Hải quan hiện đại, chuyên nghiệp. Cải
cách thủ tục hành chính nói chung, cải cách về thủ tục hành chính về hải quan
nói riêng là vấn đề đã và đang được các nhà khoa khoa học và quản lý rất
quan tâm nghiên cứu. Cho đến nay, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu
về cải cách thủ tục hành chính được công bố, như:
Thủ tục hành chính - Lý luận và thực tiễn của các tác giả Nguyễn Văn
Thâm và Võ Kim Sơn (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2002)
đã phân tích rõ khái niệm và đặc điểm của thủ tục hành chính, đồng thời đánh
giá thực trạng thủ tục hành chính những năm đầu cải cách để đưa ra các

7



khuyến nghị ban đầu đối với quá trình cải cách thủ tục hành chính; tác giả
Nguyễn Văn Thâm (2011) trong tác phẩm "Cải cách TTHC và trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước trong quan hệ với dân" do Nhà xuất bản Chính trị
- Hành chính Hà Nội phát hành năm 2011 đã phân tích rõ nét hơn những kết quả
đạt được của cải cách thủ tục hành chính những năm gần đây, trong đó có lưu ý
đến những kết quả của "Đề án 30" và chỉ ra phương hướng cần thiết để hoàn
thiện thủ tục hành chính trong tương lai; tác giả Đinh Duy Hòa (2008) trong tác
phẩm "Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của
Bộ máy nhà nước", in trong Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 1+2 năm 2008 đã đề
cập tới cải cách thủ tục hành chính với tư cách là một bộ phận cấu thành của cải
cách hành chính, trong đó xác định những đòi hỏi cấp thiết của cải cách thủ tục
hành chính đáp ứng các yêu cầu hội nhập quốc tế,...Đề tài Tiếp tục cải cách
hiện đại hóa hải quan Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của
Nguyễn Ngọc Túc [33], Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về hải quan ở nước
ta hiện nay của tác giả Vũ Ngọc Anh [1]; Cải cách thủ tục hành chính trong
lĩnh vực hải quan từ thực tiễn tỉnh Lào Cai của Vũ Văn Tuấn [31]; Nghiên
cứu, so sánh pháp luật Việt Nam và Trung Quốc về hiện đại hóa hải quan của
Nguyễn Ngọc Sơn [22]; Một số giải pháp ứng dụng thương mại điện tử vào
các ngành doanh nghiệp Việt Nam của Lê Đình Tứ [32]; Kiểm toán Hải quan
- Công cụ chống gian lận thương mại của Mai Thị Hoàng Minh [20]; Một số
giải pháp đẩy mạnh quá trình hội nhập của Việt Nam với Hải quan các nước
của Đoàn Thị Hồng Vân [40]…
Những nghiên cứu kể trên đã cung cấp một lượng tri thức, thông tin
lớn về chủ đề luận văn và là những tài liệu tham khảo trực tiếp cho việc thực
hiện luận văn. Tuy nhiên qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy các đề tài trên đã
chỉ ra được các giải pháp tổng thể về cải cách hành chính của ngành hải quan,
Do đó, khi tiếp cận và phân tích vấn đề từ thực tiễn hoạt động cải cách hành
8



chính ở cấp cơ sở, tác giả nghiên cứu nội dung đề tài với mong muốn đảm bảo
thực hiện có hiệu lực, hiệu quả công tác cải cách thủ tục hành chính về hải
quan tại tỉnh Đắk Lắk.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về cải cách thủ tục hành
chính và đánh giá thực trạng công tác cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh
về hải quan từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk, luận văn đề xuất phương hướng và giải
pháp đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về hải quan tại tỉnh hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ
sau:
- Phân tích và làm rõ cơ sở lý luận, các quy định của pháp luật hiện hành
về cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan hiện nay
- Đánh giá thực trạng cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải
quan ở tỉnh Đắk Lắk. Chỉ ra các kết quả đạt được, những khó khăn, vướng
mắc và những tồng tại trong triển khai hoạt động này.
- Đề xuất phương hướng và đề xuất các giải pháp đẩy mạnh cải cách thủ
tục hành chính trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam nói chung và ở Đắk Lắk
nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
về cải cách thủ tục hành chính trong ngành hải quan tại Cục Hải quan Đắk
Lắk.

9



Phạm vi nghiên cứu, Luận văn nghiên cứu thực tiễn công tác cải cách
thủ tục hành chính về Hải quan tại tỉnh Đắk Lắk trong khoảng thời gian 5 năm
(từ năm 2014 - 2018).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng, Nhà
nước Việt Nam về nhà nước và pháp luật, và về cải cách hành chính để làm
nền tảng phân tích, đánh giá các vấn đề nghiên cứu.
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu, phổ biến của khoa học
xã hội bao gồm tổng hợp, thống kê, phân tích và so sánh để giải quyết các câu
hỏi nghiên cứu đặt ra. Cụ thể như:
Trong chương 1, để làm rõ những vấn đề lý luận cải cách thủ tục hành
chính về hải quan luận văn sử dụng phương pháp liệt kê, hệ thống hóa các văn
bản...qua đó làm rõ các quan niệm về cải cách thủ tục hành chính nói chung,
cải cách thủ tục hành chính về hải quan nói riêng.
Tại chương 2, tác giả sử dụng phương pháp thống kê, phân tích và so
sánh, tổng hợp... trên cơ sở đó đánh giá thực trạng công tác cải cách thủ tục
hành chính về hải quan từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3, tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích, tổng hợp để
đưa ra những kiến nghị và giải pháp đảm bảo thực hiện có hiệu lực, hiệu quả
công tác cải cách thủ tục hành chính về hải quan trên địa bàn tỉnh hiện nay và
giai đoạn tiếp theo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn hệ thống hóa những vấn đề về lý luận, các quy định pháp luật
về cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan; xác định yêu cầu cải

10


cách thủ tục hành chính, đánh giá thực trạng công tác cải cách thủ tục hành

chính ở Hải quan tỉnh Đắk Lắk.
Đề xuất giải pháp đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về hải quan phù
hợp với đặc điểm địa bàn hoạt động của tỉnh Đắk Lắk, quy định về TTHC mới
ban hành được cập nhật công bố, công khai, hướng dẫn cụ thể để tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho doanh nghiệp trong tiếp cận, thực hiện TTHC; góp phần giải
quyết vấn đề thực tiễn và cấp thiết hiện nay đối với công tác cải cách thủ tục
hành chính về hải quan Hải quan trên địa bàn tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu; Phần kết luậ; Danh mục tài liệu tham khảo; luận
văn có cơ cấu ba chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp lý về cải cách thủ tục hành chính về
hải quan.
Chương 2. Thực trạng cải cách thủ tục hành chính về hải quan ở tỉnh
Đắk Lắk.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính về hải quan từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk.

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH
CHÍNH VỀ HẢI QUAN
1.1. Cơ sở lý luận về cải cách thủ tục hành chính
1.1.1. Khái niệm hành chính nhà nước
Hành chính là một quá trình quản lý, điều hành, điều chỉnh, định
hướng, hướng dẫn sự vận động phát triển của xã hội theo quy luật; nhằm mục
đích phục vụ cho lợi ích của chủ thể quản lý. Hành chính Nhà nước được hiểu
là hoạt động chấp hành và điều hành trong việc quản lý một hệ thống theo
những quy định trước, nhằm giúp cho hệ thống đó hoàn thành mục tiêu của

mình [31,tr.6]
Theo nghĩa cụ thể, hành chính Nhà nước là sự tác động có tổ chức và
điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi,
hoạt động của công dân và pháp nhân, do các cơ quan trong hệ thống hành
pháp từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những chức năng và
nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh,
thỏa mãn các nhu cầu hợp pháp của công dân. Đây là hoạt động quan trọng, chủ
yếu và phổ biến nhất trong hoạt động thực thi quyền lực Nhà nước, vì bộ máy
hành chính được Nhà nước trao quyền trực tiếp điều hành các hành vi của mọi cá
nhân và tổ chức trong xã hội, định hướng cho xã hội phát triển. Các cơ quan hành
chính Nhà nước và cá nhân cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ có
thể sử dụng quyền lực nhà nước mang tính cưỡng chế để buộc công dân và tổ
chức phải tuân thủ những quy định của Nhà nước khi triển khai đưa pháp luật và
tổ chức và điều tiết xã hội.
1.1.2. Khái niệm cải cách hành chính nhà nước
Từ nhiều năm nay, cải cách hành chính đã là một vấn đề mang tính

12


tương đối phổ cập của xã hội Việt Nam. Người dân, tổ chức cảm nhận được
kết quả, tác động của cải cách hành chính một cách trực tiếp nhất khi có việc
phải tiếp xúc, giải quyết công việc với các cơ quan hành chính nhà nước. Vậy
cải cách hành chính là gì?
Cải cách là những thay đổi có tính hệ thống và có mục đích nhằm làm
cho một hệ thống hoạt động tốt hơn [41,tr.39]. Tính chất hệ thống và có mục
đích là nền tảng để phân biệt cải cách với những hoạt động khác mà cũng gây
ra sự thay đổi, ví dụ như sáng kiến, phát minh…
Nói đầy đủ thì phải gọi là cải cách hành chính nhà nước. Thêm từ nhà
nước vào là để phân biệt với cải cách hành chính không chỉ diễn ra ở khu nhà

nước, mà còn ở các tổ chức, cơ quan, nhất là doanh nghiệp tư nhân, tức là khu
vực tư nhân. Yếu tố quản trị, hành chính trong các doanh nghiệp khu vực tư
cũng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của các doanh nghiệp và nếu
không đổi mới, cải cách thì hoạt động của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng, hiệu
quả thấp. Trong phạm vi chuyên đề này, nếu đề cập đến cải cách hành chính
là nói đến cải cách nhà nước.
Đại từ điển Tiếng Việt không đưa ra một định nghĩa nào về cải cách
hành chính, chỉ giải thích cải cách là “sửa lại cho phù hợp với tình hình mới”.
Theo Từ điển luật học thì cải cách hành chính là một chủ trương, công
cuộc có tính đổi mới nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của nhà
nước.
Theo quan điểm của Liên hiệp quốc thì cải cách hành chính là những nỗ
lực có chủ định nhằm tạo nên những thay đổi cơ bản trong hệ thống hành
chính nhà nước thông qua các cải cách có hệ thống hoặc thay đổi các phương
thức để cải tiến ít nhất một trong những yếu tố cấu thành hành chính nhà
nước: Thể chế, cơ cấu tổ chức, nhân sự, tài chính công và tiến trình quản lý.
13


Theo Từ điển kinh tế GABLER thì khái niệm cải cách hành chính bao
gồm các cải cách về tổ chức, nhân sự, quy trình và công vụ cũng như các biện
pháp thích ứng của hành chính công nhằm tạo ra các cơ quan hành chính hiệu
quả, thể chế hóa các thẩm quyền hành chính một cách rõ ràng, đơn giản hóa
hành chính và gần dân.
Sau khi đưa ra khái niệm chung như vừa nêu, Từ điển kinh tế GABLER
xem xét cải cách hành chính theo nhiều góc độ, ví dụ như:
- Cải cách hành chính là cải cách địa giới hành chính: Đề cập tới việc
giảm thiểu mâu thuẫn giữa một bên là các nhiệm vụ công và thực hiện các
nhiệm vụ này với bên kia là sự tham gia của các cơ cấu lãnh thổ, đặc biệt là
các cơ quan tự quản địa phương. Ví dụ điển hình ở đây là hợp nhất nhiều xã ở

Đức trong các năm qua.
- Cải cách hành chính là cải cách chức năng: Đề cập tới việc phân chia
thẩm quyền giữa các cấp hành chính, đáng chú ý là việc phân quyền cho cấp
dưới. Điều này cũng thường liên quan tới phân chia lại các nguồn lực.
- Cải cách hành chính là cải cách tổ chức: Đề cập tới cơ cấu tổ chức các
cơ quan Liên bang, cơ quan Bang, mối quan hệ giữa chúng với nhau.
- Cải cách hành chính là cải cách nhân sự và pháp luật công vụ: Đề cập
tới cải cách quan hệ giữa người làm việc và người có thẩm quyền quản lý
nhân sự. Ví dụ được nêu ở đây là các cuộc thảo luận về thay đổi nguyên tắc
ngạch công chức với các chức vụ khởi nghiệp có tính cố định, về xóa bỏ chế
độ công chức trong một số lĩnh vực, ngành....
- Cải cách hành chính là cải cách tài chính: Đề cập tới cải cách phân bổ
lại nguồn thu từ thuế giữa Liên bang, Bang và xã.

14


- Cải cách hành chính là cải cách nội bộ công sở: Đề cập tới thay đổi cơ
cấu tổ chức, thẩm quyền quyết định các vấn đề, quy trình làm việc.
- Cải cách hành chính là bước chuyển từ hành chính sách quản trị công
với luận điểm cơ bản là các cơ quan hành chính phải là các đơn vị dịch vụ
được quản trị, điều hành căn cứ vào tri thức quan hệ mới nhất và căn cứ vào
điều kiện thị trường v.v...
Sơ bộ có thể đưa ra khái niệm như sau:
Có thể hiểu, cải cách hành chính nhà nước là những thay đổi có tính hệ
thống và lâu dài; có mục đích, nhằm làm cho hệ thống hành chính nhà nước
hoạt động tốt hơn để thực hiện hiệu quả các chức năng và nhiệm vụ của mình.
Cải cách hành chính nhằm thay đổi và hợp lý hóa bộ máy hành chính, qua đó
tăng cường tính hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước.
1.1.3. Khái niệm thủ tục hành chính

Trong khoa học Luật hành chính không có quan điểm thống nhất về
phạm vi cụ thể của khái niệm thủ tục hành chính.
Thủ tục hành chính là một chế định của luật hành chính. Nói khác đi,
thủ tục hành chính là loại quy phạm hành chính có tính công cụ để cho cơ
quan nhà nước có điều kiện thực hiện chức năng của mình.
Nghị định 63/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng 6 năm 2010 của Chính phủ
đã xác định chính xác khái niệm: "Thủ tục hành chính” là trình tự, cách thức
thực hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền quy định để giải quyết một công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ
chức [21].
Như vậy, nhà nước (thông qua các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ,
công chức có thẩm quyền) được phép quy định về các loại công việc cần giải

15


quyết bằng thủ tục hành chính và các cá nhân, tổ chức khi có nhu cầu đối với
các loại công việc này cần tới cơ quan nhà nước để thực hiện các thủ tục theo
yêu cầu của nhà nước.
Thủ tục hành chính cho biết các quy phạm nội dung của luật pháp được
thực hiện bằng cách nào. Bộ phận này của luật pháp hành chính còn có tên
gọi là quy phạm hình thức. Thiếu bộ phận này, luật pháp sẽ không có đủ điều
kiện để đi vào đời sống. Chính vì vậy, trong nhiều văn bản quy phạm pháp
luật, sau các quy định về nội dung là các quy định có tính thủ tục để thực hiện
nội dung đó.
Thủ tục hành chính có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội, ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và
đời sống nhân dân.
Trong nội bộ của bộ máy nhà nước, thủ tục hành chính là cách thức để
các cơ quan nhà nước tổ chức công việc của mình theo chức năng, nhiệm vụ

được giao, là thủ tục để vận hành bộ máy nhà nước. Khi nói về thủ tục hành
chính, người ta cũng nhấn mạnh rằng đó chính là các quan hệ về hành chính
trong việc thực hiện thẩm quyền của các cơ quan nhà nước (hoặc của cá nhân,
tổ chức được ủy quyền) để thực thi công vụ, trong xử lý các phản ánh, kiến
nghị của tổ chức, công dân theo quy định. Theo quan niệm này, thủ tục hành
chính phản ánh mối quan hệ trong quá trình làm việc giữa các cơ quan nhà
nước với nhau và với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, giữa nhà
nước và cộng đồng khi nhà nước giải quyết công việc liên quan đến quyền,
lợi ích và nghĩa vụ của hai bên.
1.1.4. Khái niệm thủ tục hành chính trong ngành hải quan.
Từ khái niệm thủ tục hành chính như đã nêu tại tiết 1.1.3, ta có thể
hiểu, thủ tục hành chính trong ngành hải quan là các bước để thực hiện các
16


nội dung, công việc liên quan đến thủ tục thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ
quan hải quan; các bước để doanh nghiệp và người dân thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện các hoạt động liên quan đến thủ tục
hải quan.
Nội dung của khái niệm thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan thể
hiện qua ba yếu tố: Chủ thể tham gia thủ tục hải quan; Đối tượng của thủ tục
hải quan; Quy trình các bước của thủ tục hải quan. [29,tr.11]
1.15. Đặc điểm của cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động hải
quan
Thủ tục hành chính nói chung có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, thủ tục hành chính được điều chỉnh bằng các quy phạm thủ
tục hành chính. Quy phạm pháp luật hành chính bao gồm các quy phạm về
nội dung và quy phạm về thủ tục, trong đó các quy phạm về nội dung trực tiếp
quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các đối tượng quản lý nhà nước
còn các quy phạm thủ tục quy định cách thức thực hiện các quy phạm nội

dung.
Quy phạm thủ tục góp phần quan trọng để hiện thực hóa các quy phạm
nội dung, xác định chính xác cách thức mà quy phạm nội dung cần đi vào đời
sống xã hội. Chính vì vậy, không có các quy phạm thủ tục thì các quy phạm
nội dung sẽ chỉ có ý nghĩa hình thức mà không thể đi vào đời sống.
Thứ hai, về chủ thể thực hiện thủ tục hành chính: thủ tục hành chính
được ban hành bởi một cơ quan nhưng có thể được thực hiện bởi nhiều cơ
quan và cán bộ, công chức ở các cấp khác nhau. Tuy nhiên, mỗi loại thủ tục
đều có tính đặc thù riêng và thực hiện chúng lệ thuộc một phần khá lớn vào
nhận thức của các đối tượng có liên quan.

17


Thứ ba, thủ tục hành chính có tính đa dạng và phức tạp vì có thể liên
quan tới tất cả mọi đối tượng quản lý của nhà nước, trên tất cả các mặt của
đời sống xã hội.
Từ những nội dung trên, ta có thể thấy thủ tục hành chính trong hoạt
động hải quan có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, có đặc điểm mang tính chất đặc thù, chuyên sâu, liên quan
trực tiếp đến hoạt động của ngành hải quan.
Thứ hai, có tính chất liên ngành, liên Bộ.
Thứ ba, thủ tục diễn ra chủ yếu và gắn với yếu tố biên giới Quốc gia.
Thứ tư, có đặc điểm xuyên quốc gia.
Thứ năm, được áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, gắn với tự động
hóa và quản lý rủi ro.
1.1.6. Nội dung cải cách thủ tục hành chính trong ngành hải quan
Cải cách hành chính, trong đó TTHC có vị trí đặc biệt đang là vấn đề
được quan tâm chủ yếu hiện nay ở nhiều nước trên thế giới. Việt Nam cũng
đang đẩy mạnh cải cách hành chính, TTHC và đã xác định là khâu đột phá

trong tiến trình phát triển và hội nhập. Đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, vượt
qua những thách thức, cải cách hành chính sẽ góp phần tích cực trong phát
triển kinh tế - chính trị - xã hội để hội nhập thành công của Việt Nam trên
trường quốc tế.
Cải cách hành chính có thể được hiểu như là một quá trình thay đổi
nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hành chính, cải cách về tổ chức, phương
pháp hành chính cũ, xây dựng phương thức hành chính mới trong quản lý hành
chính nói chung, lĩnh vực hải quan nói riêng.
Thực tiễn thực hiện và kết quả cải cách TTHC nói chung, trong lĩnh vực
18


hải quan nói riêng thời gian qua cho thấy, mối quan hệ giữa cơ quan hành
chính nhà nước với người dân và doanh nghiệp đã bước đầu được cải thiện
đáng kể, thông qua một loạt các biện pháp như cải cách TTHC gắn với thực
hiện cơ chế một cửa; công khai hóa, minh bạch hóa các quy định về TTHC;
hồ sơ, giấy tờ của TTHC được rà soát, loại bỏ những giấy tờ, tài liệu không
cần thiết; các yếu tố hình thành nên TTHC được sửa đổi, bãi bỏ theo hướng rõ
ràng, đơn giản hóa, thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp.
Từ những nội dung trên, có thể thấy cải cách thủ tục hành chính trong
ngành hải quan có những nội dung cơ bản, như sau:
Tích cực tham gia góp ý xây dựng hoàn thiện thể chế, quy trình thủ tục
hải quan; đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật; tổ chức thực hiện đúng
chế độ, chính sách, pháp luật Nhà nước về hải quan, quy định pháp luật khác
có liên quan, quy trình thủ tục hải quan; phát hiện, kịp thời đề xuất, kiến nghị
sửa đổi những vướng mắc, chồng chéo, bất cập trong hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật quản lý nhà nước về Hải quan và quy trình nghiệp vụ đảm
bảo phát huy hiệu quả, đồng thời phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong từng
giai đoạn cụ thể.
Áp dụng toàn diện phương pháp quản lý hiện đại dựa trên nguyên tắc

quản lý rủi ro và ứng dụng công nghệ thông tin mạnh mẽ trong các hoạt động
quản lý thuế, góp phần tạo thuận lợi thương mại, đồng thời đảm bảo nguồn
thu cho ngân sách nhà nước.
Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra sau thông quan đạt trình độ
chuyên nghiệp, hoạt động hiệu quả dựa trên nguyên tắc áp dụng quản lý rủi
ro, ứng dụng công nghệ thông tin, hướng đến mục tiêu hoạt động kiểm tra sau
thông quan được thực hiện theo thông lệ phổ biến của hải quan thế giới là
kiểm toán sau thông quan (PCA).

19


×