Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

CƠ sở lí LUẬN về tổ CHỨC các HOẠT ĐỘNG của TRUNG tâm học tập CỘNG ĐỒNG đáp ỨNG yêu cầu xây DỰNG NÔNG THÔN mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.05 KB, 60 trang )

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TỔ CHỨC CÁC HOẠT
ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM HỌC TẬP CỘNG
ĐỒNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI

1


- Vài nét tổng quan nghiên cứu vấn đề
- Các nghiên cứu quốc tế
UNESCO coi việc xây dựng và phát triển TTHTCĐ là
một giải pháp quan trọng để phát triển cộng đồng ở mỗi quốc
gia, góp phần làm giảm thiểu sự cách biệt về trình độ dân trí
giữa thành thị và nông thôn. Mô hình TTHTCĐ được xem là
một công cụ, một thiết chế có hiệu quả nhất trong việc thực
hiện “giáo dục cho mọi người” và “mọi người cho giáo dục”
[23].
Năm 1998, một thiết chế phục vụ yêu cầu giáo dục phi
chính quy đối với người lớn tuổi được đề xuất là TTHTCĐ
(community learning centrers - CLC). Từ đó, dự án thành lập
TTHTCĐ đã được triển khai ở 18 quốc gia thuộc khu vực
châu Á - Thái Bình Dương, gồm: Bangladesh, Bhutan, Ấn độ,
Trung quốc, Indonesia, Iran, Lào, Campuchia, Malaysia,
Myanma, Mongolia, Nepan, Pakistan, Philippines, Thái Lan,
Ubekistan và Việt Nam, với mục đích cung cấp nền GD cơ
bản (biết đọc, biết viết) và GDTX. Dự án mở rộng dần sang
các nước khác như: Kazakhstan, Kyrgyzstan, Srilanka,
Samoa, Timor Leste và phát triển ra các nước Ả Rập, như: Ai
2



Cập, Lebanon, Jordan, Ma Rốc ... Năm 2008, theo thống kê
của UNESCO, mô hình tổ chức này đã có mặt ở 24 quốc gia
vùng châu Á - Thái Bình Dương và 10 nước khu vực Ả Rập,
với hơn 170.000 cơ sở (kể cả tổ chức có tên gọi TTHTCĐ
hoặc các tên gọi khác nhưng có hoạt động tương tự) [24].
Tổng Giám đốc UNESCO khu vực, ông Victor Ordonez,
đánh giá như sau: “Trung tâm học tập cộng đồng có thể coi là
phát minh quan trọng nhất mà bấy lâu nay thế giới đang tìm
kiếm”. Chính vì vậy, UNESCO đang nỗ lực biên soạn nhiều
tài liệu tập huấn nhằm giúp cho các nhà lãnh đạo ở địa
phương nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của Trung tâm
học tập cộng đồng, giúp cho họ có năng lực quản lý và điều
hành các Trung tâm. Trong khoảng mười năm lại đây, Trung
tâm học tập cộng đồng được hầu hết các nước ở Châu Á chú ý
và xây dựng ngày càng nhiều. Việt Nam cũng nằm trong xu
thế đó.
UNESCO quan niệm rằng, Trung tâm học tập cộng đồng
là cơ sở giáo dục không chính quy của xã, phường, do cộng
đồng thành lập và quản lý nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân và phát triển cộng đồng thông qua việc
tạo cơ hội học tập suốt đời của người dân trong cộng đồng.
3


Trung tâm học tập cộng đồng là thiết chế giáo dục không
chính quy của cộng đồng; do cộng đồng và vì cộng đồng.
- Nhật Bản
Chính phủ Nhật Bản đã nhận thức được vai trò, tác
dụng to lớn của một địa điểm học tập tại làng, xã đối với việc
tạo cơ hội HTTX, HTSĐ cho người dân và Chính phủ đã

quan tâm phát triển mô hình GD này từ rất sớm. Sau
chiến tranh thế thứ II, Bộ GD Nhật Bản đã sáng tạo một mô
hình GD mới, gọi là Kominkan (Cung văn hóa công dân).
Thực chất, đây là trung tâm học tập CĐ của người dân ở địa
phương.
Kominkan được thành lập từ nhu cầu cấp thiết của người
dân, do người dân tham gia quản lý. Kinh phí hoạt động của
Kominkan có sự hỗ trợ một phần của Nhà nước, phần còn lại
là do uỷ ban địa phương tự lo. Phương châm hoạt động của
Kominkan là học theo sở thích, học theo nhu cầu. Nguyên tắc
hoạt động cơ bản của Kominkan là: tự do và bình đẳng, GD
miễn phí. Kominkan phải tổ chức giảng dạy hoặc tập huấn và
có đội ngũ cán bộ giảng dạy riêng, đặt tại CĐ để thuận tiện

4


cho người dân tham gia, được Nhà nước trang bị đầy đủ các
trang thiết bị phục vụ yêu cầu dạy và học.
Kominkan có chức năng vừa là trường học, thư viện, nhà
bảo tàng, hội trường sinh hoạt CĐ của làng/xã; vừa là nơi sinh
hoạt của nhiều tổ chức xã hội khác nhau như Đoàn thanh niên,
Hội phụ nữ,… Kominkan là cơ sở GD xã hội mang tính dân
chủ; là nơi uống trà đàm đạo của người dân; là nơi giao lưu,
gắn kết tình cảm của người dân trong vùng; nguồn động lực
phục hồi sản xuất (hướng dẫn nghề tay trái, trao đổi kinh
nghiệm cải tiến sản phẩm, hướng dẫn kỹ thuật mới, trao đổi
công cụ sản xuất, khai thác lĩnh vực sản xuất mới); là nơi
giáo dục chủ nghĩa dân chủ; là nơi giao lưu văn hóa; là bệ đỡ
xây dựng nông thôn mới.

Phương pháp GD xã hội: Kominkan tiến hành nhiều hoạt
động liên quan đến GD, kỹ thuật, văn hóa. Những hoạt động
này, mang tính thiết thực, phù hợp với nhu cầu đời sống của
người dân địa phương. Kominkan được lập ra với mục đích
đóng góp cho việc nâng cao sự giáo dưỡng, rèn luyện sức
khỏe, tu rèn tâm đức, phục hưng đời sống văn hóa, nâng
cao phúc lợi xã hội cho người dân.

5


Kominkan được xem là cơ sở GD xã hội: bảo đảm quyền
học tập của người dân, hình thành tinh thần tự trị của khu dân
cư; là cơ sở của phường, xã, thị trấn (Điều 2, Luật GD xã
hội); có sự tham gia của người dân đối với sự vận
hành của Kominkan (Điều 29, Luật GD xã hội).
- Hội đồng thẩm định vận hành Kominkan
Kominkan được xem là cứ điểm vận động cải thiện đời
sống: Chìa khóa thành công của Nhật Bản sau thế chiến thứ
hai là hình thành nền tảng xã hội thích ứng với sự biến đổi của
kinh tế. Một trong những chính sách phát triển xã hội đã
chuẩn bị nền tảng để từng ngõ ngách của vùng nông thôn
Nhật Bản tiếp nhận thành quả phát triển kinh tế là “cuộc vận
động cải thiện đời sống”, nhằm mục đích cải thiện đời sống
nông thôn và cải thiện căn bếp của mỗi gia đình.
Năm 1949, mô hình Kominkan đã được thể chế trong Bộ
Luật GD xã hội của Nhật Bản và được coi là một bộ phận của
hệ thống GDNL. Bên cạnh việc Chính phủ ban hành các văn
bản pháp quy về thành lập Kominkan, thì còn có các phong
trào quần chúng vận động thành lập Kominkan diễn ra trên cả

nước. Từ đó, hệ thống Kominkan phát triển nhanh chóng:

6


năm 1947 có 3.534; năm 1963 có 19.410; năm 1993 có
17.562; năm 2002 có 17.947. Năm 2006, có 18.000
Kominkan.
Kominkan hoạt động dưới sự bảo trợ của Chính phủ Nhật
Bản và các cấp chính quyền địa phương (chiếm 90% thành
phố, thị trấn, làng, xã ở Nhật Bản) với trên 50.000 cán bộ phục
vụ. Ngoài ra còn có 76.883 Kominkan tự quản (do người dân tự
thành lập) ở các vùng nông thôn và có quy mô nhỏ hơn.
Việc hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các Kominkan là
kết quả của việc ra đời
Đạo luật GD - xã hội của Nhật Bản năm 1949. Theo điều
tra năm 1950 của Bộ GD, kinh phí đầu tư vào Kominkan
được phân bổ như sau: kinh phí từ thành phố 71,4%; thu
nhập từ hoạt động 11,7%; kinh phí từ tỉnh 2,9%; kinh phí
khác 2%; ngân sách Nhà nước 0,2%; kinh phí từ đoàn thể
16%; kinh phí quyên góp 4,5%; kinh phí từ hội duy trì 5,7%.
Các khoản chi phí cho hoạt động của Kominkan năm 1950
được phân bổ như sau: chi phí hoạt động 28,4%; chi phí hành
chính 6,2%; chi phí đầu tư thiết bị 22,5%; chi phí nhân sự
23,5%; chi phí khác 19% .

7


Sau 60 năm hoạt động và phát triển, Kominkan đã rút ra

bài học kinh nghiệm: muốn vươn tới đỉnh cao khoa học - công
nghệ thì CĐ phải có cái gốc vững chắc về dân trí. Bài học
kinh nghiệm này đã góp phần quyết định cho chiến lược nâng
cao dân trí của Nhật Bản.
Tóm lại, mô hình Kominkan của Nhật Bản hình thành,
phát triển và hoạt động ban đầu tương tự như các TTHTCĐ
của Việt Nam. Từ khi hình thành nó đã là một bộ phận của hệ
thống GD quốc dân. Sau khi đã khẳng định được vị thế và tác
dụng đối với xã hội, Kominkan được giao về cho chính quyền
địa phương tổ chức và quản lý. Nhà nước hỗ trợ kinh phí.
Giai đoạn đầu, cư dân tham gia học tập đều được miễn phí,
giống như cách tổ chức hoạt động của TTHTCĐ của Việt
Nam hiện nay. Nhưng từ năm 1989 đến nay, Kominkan đã
chuyển sang một giai đoạn mới, sau khi đã đáp ứng tốt các
nhu cầu và đem lại lợi ích thiết thực cho người dân, các hoạt
động chủ yếu mang tính dịch vụ, mọi người dân tham gia học
tập đều phải trả tiền.
- Thái Lan

8


Từ những năm 1940, Thái Lan đã sớm nhận thức được
vai trò to lớn của GDKCQ, GD ngoài nhà trường. Năm 1972,
Thái Lan đã chú ý phát triển các trung tâm đọc sách làng, xã.
Năm 1977, Thái Lan đã thực hiện dự án phát triển GDKCQ
trong khuôn khổ GD suốt đời. Năm 1998, Thái Lan đã triển
khai mạnh mẽ việc thành lập các cơ sở GDTX. Ở cấp vùng (5
vùng) có 7 trung tâm nguồn; ở cấp tỉnh có 76 trung tâm
GDKCQ cấp tỉnh; ở cấp huyện có 877 trung tâm GDKCQ cấp

huyện; ở cấp xã có 8.577 TTHTCĐ và 35000 trung tâm đọc
sách làng, xã; Vụ Giáo dục không chính quy và phi chính quy
là cơ quan quản lý các cơ sở GDTX trên.
Tổng biên chế của GDKCQ cả nước là 10.600 người
(riêng số biên chế cho trung tâm nguồn là 400 người). Ngân
sách nhà nước dành cho hoạt động GDKCQ ở Thái Lan
khoảng 4 tỷ Bath/năm. Ngoài ra nguồn đóng góp của khu vực
tư nhân chiếm khoảng 10% ngân sách Nhà nước.
Các trung tâm nguồn có nhiệm vụ điều phối các hoạt
động về tài chính từ nguồn ngân sách nhà nước và các nguồn
tài trợ nước ngoài, nhân sự (cán bộ quản lý, nhân viên) cho
các trung tâm GDKCQ tỉnh, huyện và các TTHTCĐ. Trung

9


tâm GDKCQ cấp huyện có trách nhiệm điều phối người dạy,
tập huấn cán bộ, hỗ trợ về học liệu cho các TTHTCĐ.
TTHTCĐ là một trong những cơ sở GDTX của Thái
Lan, được tổ chức tại xã, phường hoặc liên xã/phường. Trung
tâm thực hiện ba chức năng chủ yếu: GD cơ bản (mở các lớp
xóa mù chữ, các lớp phổ cập GD tiểu học, THCS), GD nghề
nghiệp (mở các lớp huấn luyện kỹ năng ngắn ngày, GD nghề
cho học sinh THCS và THPT), thông tin, tư vấn thông qua tài
liệu in ấn, không in ấn (đài, tivi...) và các hoạt động khác.
TTHTCĐ ở Thái Lan được điều hành và hoạt động theo
nguyên tắc của dân, do dân và vì dân. Người đứng đầu trung
tâm phải do dân bầu ra và người này phải có định hướng cụ
thể để phát triển trung tâm, đảm bảo cho trung tâm hoạt động
và mọi người đều có cơ hội học tập. TTHTCĐ hoạt động

theo cơ chế mở. Mọi người trong CĐ có thể đến học bất cứ
lúc nào. TTHTCĐ trở thành cầu nối thông tin giữa mọi người,
gắn kết việc học chữ với việc thực hành trong cuộc sống hàng
ngày và có mạng lưới liên kết với các cơ sở GD, với các tổ
chức xã hội, các cơ sở sản xuất và các chuyên gia trên các lĩnh
vực.

10


Trong công tác quản lý, TTHTCĐ Thái Lan thực hiện
các chính sách: sử dụng TTHTCĐ như một công cụ quan
trọng để điều hành, tổ chức hoạt động chung của CĐ; sử
dụng tối đa nguồn lực và kinh nghiệm quản lý của CĐ; kết
hợp chặt chẽ các chương trình GD truyền thống và nhu cầu
thực tế của CĐ; cho phép mọi người trong CĐ sở hữu và đánh
giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của trung tâm; ngành GD
phân công ít nhất một giáo viên tham gia quản lý các chương
trình GD của trung tâm.
Mô hình TTHTCĐ được chia thành 2 loại: loại thứ nhất
là TTHTCĐ dựa vào cơ sở sẵn có. Đó là những trung tâm
được tổ chức trên CSVC - kỹ thuật của trường phổ thông,
nhà máy, đình, chùa hoặc nhà thờ ...; Loại thứ hai là TTHTCĐ
do nhân dân tự đứng ra thành lập, quản lý, tự tìm địa điểm và
tự lo kinh phí xây dựng.
Chính phủ hỗ trợ phương tiện dạy học và kinh phí cho
các hoạt động học tập. Nội dung học tập căn cứ nhu cầu của
CĐ. Các TTHTCĐ đều có thư viện, phòng đọc sách, phòng
họp CĐ, phòng xem tivi hoặc nghe radio, nhiều phương tiện
phục vụ cho học tập như máy chiếu, loa phát thanh, nhạc cụ,

dụng cụ thể dục thể thao ... Hoạt động của trung tâm dựa vào
11


sự tham gia tự giác của cộng đồng và lực lượng người dạy
tình nguyện.
Kết quả nổi bật của các TTHTCĐ ở Thái Lan là quá
trình học tập thông qua hình thức hoạt động nhóm đã giúp
người dân hiểu được vấn đề xã hội và tăng cường ý thức cho
học viên về việc xây dựng kế hoạch phát triển CĐ. Với mạng
lưới và sự liên kết mạnh mẽ, TTHTCĐ cho phép người dân
tham gia hình thức GDTX để thay đổi bản thân mình và nâng
cao chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Đáng chú ý nhất là các hoạt động GD của TTHTCĐ liên
quan đến người lớn tuổi và cả người trẻ tuổi đã góp phần phục
hồi các giá trị văn hóa của địa phương, giảm thiểu khoảng
cách giữa các thế hệ và tạo ra sự hài hòa giữa các nhóm dân
cư trong CĐ địa phương, tăng sự tự tin của người lớn tuổi và
phát huy vai trò của thanh niên trong các nhiệm vụ của CĐ.
- Các nghiên cứu trong nước
Vấn đề tổ chức quản lý TTHTCĐ ở Việt Nam chỉ mới
được quan tâm nghiên cứu trong khoảng 15 năm trở lại đây
bởi các tác giả Tô Bá Trượng [21], Thái Xuân Đào [12, 13],
Nguyễn Như Ất [1] … Những nghiên cứu nói trên đã góp
12


phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của TTHTCĐ
như: vị trí của TTHTCĐ trong hệ thống GD quốc dân nói
chung và trong hệ


thống GDTX nói riêng; vai trò của

TTHTCĐ đối với việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội ở địa phương; chức năng của TTHTCĐ;
công tác quản lý TTHTCĐ; những kết quả bước đầu trong
việc phát triển mô hình GD TTHTCĐ…
Ngoài ra, còn có một số các bài báo, đề tài cấp Bộ, luận
văn Thạc sĩ, sách tham khảo… đề cập đến vấn đề này. Trong
đó, đáng chú ý nhất là đề tài cấp Bộ: “Xây dựng mô hình thí
điểm về TTHTCĐ cấp xã ở nông thôn miền Bắc”, mã số B.9949-79 của nhóm tác giả thuộc Trung tâm nghiên cứu xoá mù
chữ và GDTX, Viện Khoa học GD Việt Nam [28]. Đề tài, đã
trình bày khá hệ thống những kết quả nghiên cứu về
TTHTCĐ ở cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Trong công trình nghiên cứu “Yêu cầu của thời đại và
những vấn đề đặt ra với phát triển giáo dục không chính quy
trong thời gian tới”, tác giả Đặng Quốc Bảo [3] cho rằng, từ
TTHTCĐ cần phát triển một số trường trung học CĐ và tiến
tới xây dựng một số trường đại học cho người lớn tuổi.
Trường đại học này không tổ chức theo kiểu các trường ĐH
13


truyền thống dành cho thanh niên. Tiếp đó, trong công trình
nghiên cứu “Xây dựng và phát triển các trung tâm học tập
cộng đồng góp phần thực hiện cuộc đổi mới toàn diện và căn
bản sự nghiệp giáo dục theo đường lối Đại hội Đảng lần thứ
XI”, tác giả Đặng Quốc Bảo một lần nữa khẳng định các
TTHTCĐ chính là hạt nhân của GD phi chính quy, một loại
thiết chế GD không câu nệ các thủ tục hành chính. Nó linh

hoạt nhằm giúp người học các kiến thức trực dụng, hữu dụng
cho đời sống. TTHTCĐ là nơi thúc đẩy nhu cầu hiểu biết của
người dân; nâng cao được năng lực và cơ hội lựa chọn cho
người dân. Nếu gắn kết được bộ ba “nhu cầu - năng lực - cơ
hội” thì TTHTCĐ sẽ làm được sứ mệnh tăng cường được giá
trị vốn tổ chức (organizational

capital), vốn con người

(human capital) và vốn xã hội (social capital). Đó là tiền đề
tạo nên XHHT của đất nước [4].
Trong một số công trình khoa học, như: “Xây dựng và
phát triển xã hội học tập”, “Xây dựng mô hình xã hội học tập
ở Việt Nam”, tác giả Phạm Tất Dong [9, 10, 11] đã đánh giá
một số kết quả đạt được của các TTHTCĐ là: tạo ra được cơ
hội học tập cho người dân, nhất là nông dân, nhờ đó đã góp
phần nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển nguồn nhân
14


lực tại CĐ; tạo điều kiện để người dân “cần gì, học nấy”, giúp
cho mọi người được học tập thường xuyên; tạo ra môi trường
xã hội, trong đó ai cũng học tập và ai cũng có thể tham gia
vào việc phát triển GD tại CĐ. TTHTCĐ chịu sự chỉ đạo,
quản lý của 2 cấp, cấp huyện và cấp xã. Trong quá trình chỉ
đạo thí điểm mô hình XHHT ở nhiều địa phương, tác giả đã
đề nghị chỉnh sửa Luật GD 2005, bổ sung thêm điều luật nói
về TTHTCĐ như là một thiết chế GDPCQ.
Gần đây, trong nhiều nghiên cứu về “Định hướng chiến
lược phát triển giáo dục thường xuyên và xây dựng trung tâm

học tập cộng đồng”, nhiều tác giả đã đề cập đến một số vấn
đề về tình hình phát triển TTHTCĐ, quản lý TTHTCĐ trong
khu vực và ở Việt Nam. Tác giả Ngô Quang Sơn, trong một
số đề tài nghiên cứu khoa học [22] đã tổng hợp và đánh giá
tổng quan về xu thế xây dựng và phát triển các TTHTCĐ,
xác định TTHTCĐ là vấn đề thời sự và xu thế phát triển tất
yếu của GDTX ở các nước trong khu vực và ở Việt Nam. Tác
giả đã trình bày quy trình xây dựng kế hoạch hoạt động, tổ
chức quản lý các nguồn lực của TTHTCĐ, các bước chỉ đạo
và công tác kiểm tra, đánh giá ở TTHTCĐ, chỉ ra những thuận
lợi, khó khăn trong việc xây dựng và phát triển bền vững các
15


TTHTCĐ ở các nước trong khu vực và ở Việt Nam, đề xuất
một số giải pháp hiệu quả để phát triển bền vững các
TTHTCĐ.
Đề tài "Xây dựng mô hình xã hội học tập ở Hà Tây" do
Nguyễn Ngọc Phú thực hiện, đã cho rằng TTHTCĐ là cơ sở
GDNL có tầm quan trọng lớn lao. Khảo sát thực trạng GDNL
ở 3 xã Văn Bình, Duyên Thái và Nhị Khê (huyện Thường
Tín) của tác giả cho thấy: việc học các chuyên đề tại cộng
đồng đều dựa vào nguồn cung cấp thông tin chủ yếu là thư
viện xã và huyện. Từ đó tác giả đề xuất, mối quan hệ giao lưu,
trao đổi thông tin và tài liệu học tập giữa hệ thống TTHTCĐ
phải là một khâu quan trọng của quá trình quản lý chất lượng
hoạt động của trung tâm.
Đề tài "Xây dựng mô hình xã hội học tập ở Hải Dương"
do Phạm Văn Bảo làm chủ nhiệm [2] đã thực hiện thử nghiệm
GD theo chuyên đề ở 5 cơ sở: Xã Minh Đức (Tứ Kỳ): vùng

đồng bằng; Xã Hiệp Hòa (Kinh Môn): miền núi; Phường
Quang Trung: Thành phố Hải Dương; Sở Kế hoạch và Đầu tư:
cơ quan nhà nước; Công ty Lilama 69-3: doanh nghiệp. Từ đó
tác giả đưa ra kết luận: GD theo chuyên đề phải phù hợp với
từng đối tượng người học.
16


Hội Khuyến học Việt Nam, chủ trương xây dựng XHHT
từ cơ sở thông qua phong trào khuyến học, khuyến tài. Hội đã
triển khai các đề tài nghiên cứu, tổ chức các hội nghị, hội thảo
khoa học về xây dựng XHHT, về phát triển TTHTCĐ ở Việt
Nam như: đề tài Xây dựng mô hình XHHT ở Việt Nam; Hội
thảo khoa học Xây dựng XHHT ở Việt Nam; Hội nghị Sơ kết
5 năm xây dựng và phát triển TTHTCĐ (1999-2004); Hội
nghị liên tịch với Bộ GDĐT; Hội nghị tổng kết công tác
khuyến học, khuyến tài 1996-2008; báo cáo tổng kết 4 hội
thảo về đánh giá thực trạng TTHTCĐ xã, phường, những mô
hình TTHTCĐ phát triển bền vững, xây dựng bộ tiêu chí đánh
giá TTHTCĐ xã, phường (8/2011)…
Những hoạt động trên của Hội Khuyến học Việt Nam đã
góp phần quan trọng vào việc giải quyết nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn trong xây dựng XHHT nói chung, quản lý phát triển
bền vững TTHTCĐ nói riêng. Bên cạnh đó, Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã phối hợp với Hiệp hội Quốc gia các tổ chức UNESCO
Nhật Bản (NFUAJ) tổ chức biên soạn: “Sổ tay thành lập và
quản lý trung tâm học tập cộng đồng”. Nội dung tài liệu bao
gồm những kiến thức rất cụ thể, thiết thực, giúp cho cán bộ lãnh
đạo TTHTCĐ có thêm kiến thức quản lý điều hành các
17



TTHTCĐ ngày càng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, cuốn tài liệu này
mới chỉ là những hướng dẫn theo cách “cầm tay chỉ việc”, tính
lý luận còn hạn chế.
Các công trình nghiên cứu ở trong nước đã đề cập đến
phương diện lý luận và thực tiễn nhằm nêu ra sự cần thiết phải
tiếp tục quản lý phát triển các TTHTCĐ. Để các TTHTCĐ ở
nước ta tiếp tục phát triển bền vững, cần quan tâm nghiên cứu
làm sâu sắc hơn về mặt lý luận, như: sứ mạng, vị trí, vai trò
của TTHTCĐ, mối quan hệ giữa kinh tế - xã hội, xây dựng
nông thôn mới với việc phát triển các TTHTCĐ, các điều kiện
cơ bản để quản lý phát triển TTHTCĐ. Việc xây dựng một xã
hội học tập về lý luận và thực tiễn cần dựa trên nền tảng phát
triển đồng thời, gắn kết, liên thông cả hai bộ phận cấu thành:
giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên của hệ thống
giáo dục quốc dân. Trung tâm học tập cộng đồng nằm trong
thiết chế giáo dục không chính quy (giáo dục thường xuyên
hay giáo dục tiếp tục). TTHTCĐ là mô hình (cơ sở) giáo dục
của cộng đồng, do cộng đồng và vì cộng đồng. TTHTCĐ sẽ
có chức năng, vai trò, vị trí quan trọng như thế nào đối với
việc xây dựng xã hội học tập cũng cần được hệ thống hóa và

18


làm rõ thêm về mặt lý luận nhất là quản lý phát triển
TTHTCĐ theo định hướng XHHT.
- Các khái niệm cơ bản
- Trung tâm học tập cộng đồng

Hiện nay, có nhiều tổ chức đưa ra các cách định nghĩa
khác nhau về TTHTCĐ. Sau đây là một số định nghĩa tiêu
biểu:
UNESCO quan niệm rằng, TTHTCĐ là cơ sở GDKCQ
của xã, phường, do cộng đồng thành lập và quản lý nhằm
nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và phát triển
cộng đồng thông qua việc tạo cơ hội học tập suốt đời cho
người dân trong cộng đồng. TTHTCĐ là thiết chế GDKCQ
của cộng đồng, do cộng đồng và vì cộng đồng.
Hiệp hội học tập cộng đồng ở British (Columbia) cho
rằng, TTHTCĐ có 8 đặc điểm: 1) Có sự tham gia của các cư
dân trong CĐ vào giải quyết vấn đề và ra quyết định, qua Hội
đồng CĐ; 2) Tìm kiếm và tạo ra cơ hội HTSĐ cho người học
ở mọi lứa tuổi; 3) Sử dụng các nguồn lực của CĐ cho các
chương trình GD; 4) Tạo cơ hội cho các bậc cha mẹ tham gia

19


vào quá trình học tập của con cái và cuộc sống học tập; 5) Sử
dụng tối đa các phương tiện GD hiện có trong CĐ; 6) Có sự
phối hợp và cộng tác của nhiều cơ quan, tổ chức để cung cấp
dịch vụ GD về kinh tế, xã hội, văn hóa, giải trí ... cho mọi
thành viên của CĐ; 7) Có quan hệ đối tác giữa các doanh
nghiệp, nhà kinh doanh và trường học CĐ để cải thiện bầu
không khí học tập; 8) Có các tình nguyện viên giúp đỡ để
cung cấp, phân phát dịch vụ cho CĐ.
Tác giả Tô Bá Trượng và Thái Thị Xuân Đào cho rằng,
TTHTCĐ là một mô hình giáo dục mới có khả năng tạo cơ
hội HTSĐ cho mọi người dân trong cộng đồng và phát huy sự

làm chủ và tham gia tích cực của cộng đồng đối với giáo dục;
là cơ chế có hiệu quả trong việc thực hiện xã hội hoá giáo
dục, đặc biệt trong lĩnh vực xoá mù chữ và GDTX [15,16,24].
Tác giả Thái Xuân Đào cho rằng, TTHTCĐ là một thiết
chế giáo dục chủ yếu dành cho người lớn, là đầu mối liên kết
để tất cả các ban ngành, đoàn thể cùng với ngành giáo dục
cung ứng, tổ chức các cơ hội học tập, các hoạt động tuyên
truyền giáo dục tới mọi người dân, dưới sự quản lí, điều phối
chung của UBND xã. Mọi người dân trong cộng đồng có thể
đến TTHTCĐ để tìm cho mình một chương trình, hình thức
20


và phương thức học phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể của mỗi người [15,16].
Tác giả Nguyễn Văn Nghĩa định nghĩa: TTHTCĐ là một
mô hình mới hướng tới XHHT nhằm thực hiện các mục tiêu:
tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người trong cộng đồng được
học tập bình đẳng, được trang bị kiến thức nhiều mặt, góp
phần nâng cao mặt bằng dân trí, khuyến học, tăng năng suất
lao động, giải quyết việc làm, lành mạnh hoá các quan hệ xã
hội cộng đồng.
Ở Việt Nam, theo Luật Giáo dục, TTHTCĐ là cơ sở GD
được thành lập tại xã, phường, thị trấn, hoạt động theo
phương thức GDKCQ. TTHTCĐ được thành lập nhằm cung
cấp cơ hội học tập suốt đời cho mọi người trong xã, phường,
thị trấn để phát triển nguồn nhân lực tại chỗ, cải thiện đời
sống và phát triển cộng đồng, xây dựng XHHT, góp phần vào
sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội tại địa phương.
Mô hình tổ chức và hoạt động của TTHTCĐ tại xã, phường,

thị trấn được thực thi theo Quyết định số 09/2008/QĐBGDĐT ngày 24/3/2008 của Bộ trưởng Bộ GDĐT.
- Hoạt động của trung tâm học tập cộng đồng

21


- Chức năng của trung tâm học tập cộng đồng
Hoạt động của trung tâm học tập cộng đồng nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho mọi người ở mọi lứa tuổi được học tập
thường xuyên, học tập suốt đời; được phổ biến kiến thức và
sáng kiến kinh nghiệm trong sản xuất và cuộc sống góp phần
xoá đói giảm nghèo, tăng năng suất lao động, giải quyết việc
làm; nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người dân và cả
cộng đồng; là nơi thực hiện việc phổ biến chủ trương, chính
sách, pháp luật đến với mọi người dân.
Các TTHTCĐ đều có những chức năng chung. Các chức
năng này được thực hiện một cách khác nhau tùy theo hoàn
cảnh kinh tế - xã hội và văn hóa của cộng đồng mà trung tâm
phục vụ. Vì thế, nhiệm vụ quan trọng của Ban quản lý trung
tâm là đảm bảo cho trung tâm thực hiện các chức năng này
một cách phù hợp để đáp ứng nhu cầu đích thực của cộng
đồng. Việc ưu tiên, tập trung vào chức năng nào, mức độ thực
hiện từng chức năng của từng TTHTCĐ cụ thể tùy thuộc vào
điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội của từng cộng đồng. Vì
thế, khi xác định chức năng, nhiệm vụ cụ thể trong từng giai
đoạn cho một TTHTCĐ cụ thể cần chú ý tới một số vấn đề
sau:
22



1. Nhu cầu học tập của nhân dân.
2. Nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội của địa
phương.
3. Yêu cầu giáo dục, tuyên truyền của các ban, ngành,
đoàn thể, chương trình, dự án trong và ngoài cộng đồng.
4. Khả năng của trung tâm.
Về căn bản, TTHTCĐ có 4 chức năng sau:
a. Giáo dục và đào tạo
Chức năng quan trọng hàng đầu của TTHTCĐ là cung
cấp các chương trình giáo dục và đào tạo từ mức cơ sở cho
đến mức nâng cao tùy theo nhu cầu của đối tượng.
Đối tượng có thể là: cá nhân cần học những kỹ năng cụ
thể, hoặc các nhóm cộng đồng cần các dịch vụ hỗ trợ và các
chương trình tạo thu nhập; những tổ chức, xí nghiệp hoặc
những cơ sở đang cần những chương trình đổi mới về tổ chức
để chuẩn bị cho tương lai; những ông chủ cần nâng cao
chuyên môn cho đội ngũ người lao động của mình. Hơn nữa
các tổ chức chính phủ và phi chính phủ cũng có thể sử dụng
các chương trình giáo dục và đào tạo của trung tâm để nâng
23


cao năng lực cho nhóm thiệt thòi như dân tộc ít người, phụ nữ
và trẻ em lang thang cơ nhỡ. Cho dù đối tượng là ai, thì thành
công của chương trình phụ thuộc chủ yếu vào việc xác định
chính xác nhu cầu của đối tượng, vào việc các tài liệu dạy học
được biên soạn tốt và sử dụng các phương pháp dạy học phù
hợp.
Khi cộng đồng phát triển thì các nhu cầu về giáo dục
cũng thay đổi. Chẳng hạn, khi đạt được chuẩn phổ cập giáo

dục tiểu học và XMC cho người lớn, thì người ta quan tâm
đến chương trình sau XMC và chương trình tương đương. Khi
số hộ đói nghèo trong cộng đồng ít đi, thì chương trình tạo thu
nhập của trung tâm lại cần chuyển sang chương trình nâng
cao chất lượng cuộc sống và có thể cả chương trình đáp ứng
yêu cầu, sở thích cá nhân.
Vì vậy, TTHTCĐ cần cân nhắc kỹ chương trình nào dưới
đây là phù hợp:
- XMC
- Sau XMC và các kỹ năng sống.
- Chương trình tương đương.

24


- Chương trình tạo thu nhập.
- Chương trình nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Chương trình đáp ứng sở thích cá nhân.
- Chương trình GDTX hướng tới tương lai.
Các cộng đồng nghèo có thể ưu tiên cho việc XMC và
sau XMC. Ở nông thôn phát triển có thể thêm các chương
trình tạo thu nhập và các chương trình nâng cao chất lượng
cuộc sống. Ở thành thị có thể nhấn mạnh vào các hoạt động
đáp ứng sở thích cá nhân và định hướng tương lai.
Tùy theo nhu cầu học tập, TTHTCĐ cần phải đáp ứng
càng nhiều càng tốt. Các lĩnh vực của chương trình giáo dục
có thể là:
- Cải thiện đời sống gia đình.
- Bảo vệ môi trường.
- Giảm các tệ nạn xã hội.

- Bảo tồn văn hóa, trí tuệ và lối sống truyền thống.

25


×