Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Đổi mới tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền việt nam của dân, do dân, vì dân tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.25 KB, 13 trang )

23
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra nhiệm vụ "Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân" [17, tr. 72], đồng thời, khẳng định "Tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động
của chính quyền địa phương. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm
vi được phân cấp" [17, tr. 251]. Trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng,
Quốc hội đã thông qua Hiến pháp ngày 28 - 11 - 2013 (từ đây, viết gọn là
“Hiến pháp năm 2013”), trong đó quy định về chính quyền địa phương tại
Chương 9, gồm 7 điều (Điều 110 - Điều 116) và Luật Tổ chức chính quyền
địa phương ngày 19 - 6 - 2015 (từ đây, viết gọn là “Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015”). Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam của dân, do dân, vì dân đang đòi hỏi phải cải cách, đổi mới toàn
diện bộ máy nhà nước nói chung, chính quyền địa phương nói riêng, trong đó
có đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh.
Hội đồng nhân dân tỉnh giữ vị trí quan trọng và có vai trò ngày càng
to lớn trong bộ máy nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân
nói chung, chính quyền địa phương nói riêng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân, tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh hiện nay vẫn còn
những hạn chế nhất định, làm cho bộ máy của nó cồng kềnh, hoạt động kém
hiệu lực, hiệu quả và mang tính hình thức.
Trong bối cảnh chúng ta đang tổ chức thi hành Hiến pháp năm 2013
và sắp tới tổ chức thực hiện Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
(kể từ ngày 1 - 1 - 2016) và trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam của dân, do dân, vì dân thì Hội đồng nhân dân tỉnh cần được tổ
chức và hoạt động như thế nào? Đây là câu hỏi chưa có lời giải đáp đầy đủ.
Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về đổi mới
tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, nhưng việc thực hiện đổi



24
mới đó vẫn còn diễn ra chậm chạp và đạt hiệu quả thấp; hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh vẫn chưa được phát huy. Một trong
những nguyên nhân của tình trạng đó là do việc thực hiện đổi mới ấy còn
thiếu những căn cứ lý luận và thực tiễn. Bên cạnh đó, cho đến nay, việc
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về nội dung và cách thức thực
hiện đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh nhằm đáp ứng
yêu cầu xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân,
vì dân còn chưa được triển khai một cách sâu rộng và có tổ chức, cho nên còn
thiếu vắng những công trình có giá trị khoa học cao về vấn đề này.
Trước tình hình trên, Nghiên cứu sinh đã chọn chủ đề "Đổi mới tổ
chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân" làm đề tài luận án
tiến sĩ luật học của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận án
Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của đề tài Luận án là tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân tỉnh ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, đây là
một vấn đề rất lớn và phức tạp, cho nên, trong Luận án này, tác giả chỉ có thể
giải quyết được một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đổi mới tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân tỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
Mục tiêu nghiên cứu đề tài là đề xuất được các quan điểm khoa học,
phương hướng và giải pháp khả thi nhằm tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân trong bối cảnh hiện nay ở nước ta.
Nhằm đạt được mục tiêu nêu trên, tác giả Luận án thực hiện ba
nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
Một là, phân tích làm rõ cơ sở lý luận về đổi mới tổ chức và hoạt

động của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân.


23

24

Hai là, đánh giá thực trạng đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam của dân, do dân, vì dân trên các phương diện ưu điểm, nhược điểm và
phân tích làm rõ nguyên nhân của ưu, nhược điểm đó.
Ba là, đề xuất những quan điểm khoa học, phương hướng, giải pháp
tiếp tục thực hiện đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh
đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân,
vì dân.

dân, vì dân; đánh giá thực trạng tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng thành công Nhà nước
pháp quyền Việt Nam thời gian qua, nhằm chỉ ra ưu điểm, nhược điểm và
phân tích làm rõ nguyên nhân của ưu, nhược điểm đó; đề xuất những quan
điểm, phương hướng, giải pháp tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân tỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng thành công Nhà
nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân ở nước ta…

4. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu của Luận án

Về mặt lý luận, luận án sẽ góp phần xứng đáng vào việc làm sáng tỏ
nhiều vấn đề quan trọng mà cho tới nay, hoặc chỉ được đề cập phần nào, hoặc
chưa hề được đề cập trong các công trình nghiên cứu như vị trí, vai trò của

Hội đồng nhân dân tỉnh trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do
dân, vì dân; những yêu cầu về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân
tỉnh phù hợp với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của
dân, do dân, vì dân; khái niệm, mục tiêu, nguyên tắc, nội dung đổi mới tổ
chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh; các nhân tố ảnh hưởng việc
đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh nhằm xây dựng
thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân ở nước
ta.
Về mặt thực tiễn, trên cơ sở đánh giá một cách khoa học, khách quan
thực trạng đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng
yêu cầu xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do
dân, vì dân, luận án đưa ra được những quan điểm, phương hướng, giải pháp
khả thi nhằm tiếp tục tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân tỉnh có hiệu quả đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
Luận án là một tài liệu khoa học có giá trị phục vụ công tác nghiên
cứu khoa học, đào tạo đại học và sau đại học các ngành luật học, hành chính
học; hoạt động thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
nói chung, của Hội đồng nhân dân tỉnh nói riêng, cũng như hoạt động xây

Luận án được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận khoa học là
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật. Tác giả nghiên cứu đổi mới về
tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh theo quan điểm toàn diện,
khách quan, lịch sử và cụ thể. Đổi mới Hội đồng nhân dân tỉnh trong mối quan
hệ biện chứng và đồng bộ với đổi mới các thành tố của cả hệ thống chính trị
nói chung và cả bộ máy nhà nước, chính quyền địa phương ở nước ta nói
riêng nhằm đáp ứng những yêu cầu xây dựng thành công Nhà nước pháp
quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Tác giả sử dụng phương pháp chủ
yếu này trong Chương 1, Chương 2 và Chương 4. Đồng thời, tác giả phân tích

việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh gắn liền với
những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước trong mỗi thời kỳ một cách
khách quan, phương pháp này tác giả sử dụng chủ yếu tại Chương 3 của
Luận án.
Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác để
thực hiện Luận án như phương pháp phân tích - tổng hợp, so sánh, thống kê,

5. Những đóng góp mới của Luận án
Lần đầu tiên luận án đã phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh nhằm đáp ứng
yêu cầu xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án


23
dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh và của cả bộ máy nhà nước theo
hướng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân;…
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận chung và Danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của Luận án được kết cấu thành bốn chương sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Luận án.
Chương 2: Cơ sở lý luận về đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam của dân, do dân, vì dân.
Chương 3: Thực trạng đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của
dân, do dân, vì dân.
Chương 4: Quan điểm, phương hướng và giải pháp tiếp tục đổi mới

tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN ÁN
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình khoa học ở trong nước nghiên cứu về nhà nước pháp
quyền và Hội đồng nhân dân
1.1.1. Về nhà nước pháp quyền
Các công trình nghiên cứu về nhà nước pháp quyền và xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam tập trung giải quyết những vấn đề nhận
thức luận về nhà nước pháp quyền, Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN
của dân, do dân, vì dân như nguyên tắc, điều kiện, mô hình nhà nước pháp
quyền trong điều kiện, hoàn cảnh của nước ta.
Trong bài Vấn đề nhà nước pháp quyền (Tạp chí Cộng sản, Số 2/1992),
tác giả Nguyễn Văn Động luận giải nhà nước pháp quyền là giá trị của nền
văn minh nhân loại và ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc của việc thực hiện tư
tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân

24
trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Trong bài Học thuyết về nhà nước
pháp quyền- Lịch sử và hiện tại (Tạp chí Luật học, số 4/1996), tác giả Nguyễn
Văn Động phân tích những giá trị và đặc điểm cơ bản của tư tưởng nhà nước
pháp quyền trong lịch sử và hiện tại.
Chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước KX.04 (2001-2005) Xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, trong đó có Đề tài KX.04.01: Cơ sở lý luận và thực
tiễn về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân do
GS,VS. Nguyễn Duy Quý làm Chủ nhiệm; Đề tài KX. 04-02: Mô hình tổ
chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
dân, do dân, vì dân giai đoạn 2001- 2010 do GS.TSKH. Đào Trí Úc làm Chủ

nhiệm. Những công trình nghiên cứu này đã nghiên cứu và đánh giá một cách
toàn diện về nhà nước pháp quyền trong lịch sử ở phương Đông và phương
Tây; về tư tưởng, đặc điểm của Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là sách chuyên khảo của nhiều tác giả (Nxb Tư pháp, Hà
Nội, 2007), trong đó, các tác giả đã nghiên cứu một cách khá toàn diện
những vấn đề lý luận về mô hình nhà nước pháp quyền, bản chất của nhà
nước pháp quyền, chỉ ra những đặc điểm của nhà nước pháp quyền nói
chung và các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền Việt Nam nói riêng. Bài
Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì nhân dân" của Tô Huy Rứa (Tạp chí Cộng sản, số
22, tháng 11/2005) đã tập trung phân tích những quan điểm của Hồ Chí
Minh về tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân,
vì dân trong điều kiện thực tiễn của nước ta. Trong bài Đẩy mạnh xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Http://www
Vietnamplus.vn, ngày 21/4/2011), PGS.TS Nguyễn Viết Thông đã phân tích
một cách toàn diện những quan điểm cơ bản của Đảng ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Trong những công trình nghiên cứu này, các tác giả đã tập trung luận
giải sự hình thành, phát triển của nhận thức về nhà nước pháp quyền, nguyên


23
tắc, đặc trưng của nhà nước pháp quyền với tư cách là những giá trị có tính
phổ biến, sự hạn chế quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền, đồng
thời, nêu ra những quan điểm và đặc trưng của Nhà nước pháp quyền Việt
Nam của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam;
mô hình nhà nước pháp quyền, mô hình tổ chức cơ quan lập pháp, hành pháp,
tư pháp trong nhà nước pháp quyền, nhưng về chính quyền địa phương nói
chung và HĐND tỉnh nói riêng mới chỉ điểm qua ở những nét chung nhất mà

chưa có những phân tích xác đáng về tổ chức và hoạt động của nó nhằm đáp
ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Hơn nữa, trong các nghiên cứu nêu trên, các tác giả còn những quan niệm
khác nhau về nhà nước pháp quyền, về chính quyền địa phương, và về vị trí,
tính chất của HĐND. Tuy vậy, đây là những cơ sở lý luận, là nguồn tài liệu
quan trọng, có ý nghĩa lý luận sâu sắc để tác giả vận dụng vào việc nghiên
cứu đề tài mà nghiên cứu sinh đã lựa chọn.
1.1.2. Về Hội đồng nhân dân
- Về sự hình thành, vị trí, tính chất, vai trò của HĐND nói chung,
HĐND tỉnh nói riêng:
Trong sách Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa
phương ở Việt Nam hiện nay (của nhiều tác giả, Chủ biên: PGS.TS. Lê Minh
Thông và PGS.TS. Nguyễn Như Phát, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002), các tác giả đã phân tích về chính quyền địa phương trên thế giới và
Việt Nam, đem đến cho chúng ta những nhận thức mới, đúng đắn hơn, toàn
diện hơn về chính quyền địa phương nói chung và HĐND nói riêng. Sách
Hội đồng nhân dân, quá trình hình thành và biến đổi (Vũ Hùng, Nxb Đà
Nẵng, 2007) cũng đã phân tích làm rõ nhiều vấn đề về tổ chức và hoạt động
của HĐND một cách có hệ thống từ trước đến nay. Bình luận khoa học Hiến
pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 là sách của Viện
Chính sách công và pháp luật (Nxb Lao động và xã hội, Hà Nội, 2014) đã
bình luận về chính quyền địa phương theo quy định của Hiến pháp năm 2013.
- Về tổ chức và hoạt động của của HĐND các cấp:

24
Kỷ yếu hội nghị toàn quốc về hoạt động của Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân năm 2010 (Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hà Nội,
2010) gồm những bài phân tích nội dung và phương thức hoạt động của HĐND
và UBND nói chung.
- Về thực trạng và những yêu cầu đặt ra về tổ chức, hoạt động của

HĐND nói chung, HĐND tỉnh nói riêng:
Bài 60 năm xây dựng và hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1945-2005) (PGS.TS. Thái Vĩnh
Thắng, Tạp chí Luật học, số 5/2005) trình bày khái quát về quá trình hình
thành và phát triển của tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta, phân tích
những bất cập và đề ra phương hướng khắc phục. Bài Thí điểm bỏ Hội đồng
nhân dân quận, huyện, phường- những vấn đề đặt ra (TS. Nguyễn Thị Thu
Hà, Tạp chí Luật học, số 5/2011) đánh giá những kết quả thành công và hạn
chế của hơn 1 năm việc thí điểm không tổ chức HĐND quận, huyện, phường
và tập trung phân tích những hạn chế, kiến nghị không chủ quan kết luận
sớm, nên thận trọng. Tổ chức và hoạt động của chính quyền tỉnh theo hướng
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là Luận án tiến
sĩ chuyên ngành Quản lý hành chính công (Nguyễn Hồng Diên, Học viện
Hành chính Quốc gia, Hà Nội, 2005), trong đó, tác giả luận án tập trung phân
tích những quan điểm cơ bản về Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, về
tổ chức và hoạt động của chính quyền tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền ở nước ta. Chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Luận án tiến sĩ Luật học (Nguyễn Nam Hà, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam,
Hà Nội, 2011), trong đó, tác giả luận án tập trung phân tích các giải pháp
nâng cao chất lượng các hoạt động của HĐND tỉnh trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay, nhưng chưa đề cập hoặc đề
cập rất ít đến vấn đề cách thức đổi mới về tổ chức HĐND tỉnh đáp ứng yêu cầu
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Sách Hội đồng nhân dân trong Nhà
nước pháp quyền (GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2012)


23
phân tích về nhà nước pháp quyền trên thế giới, những đòi hỏi của nhà nước
pháp quyền, về địa vị pháp lý của HĐND trong nhà nước pháp quyền ở nước

ta hiện nay. Báo cáo kết quả các nghiên cứu chuyên đề phục vụ sửa đổi Hiến
pháp năm 1992" của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Hà Nội, 2013) đã phân tích
làm rõ nhiều nội dung về chính quyền địa phương như mô hình tổ chức chính
quyền địa phương, thực trạng tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương.
- Cải cách, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền địa
phương là vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Suy nghĩ về
cơ sở khoa học của việc đổi mới tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân ở nước ta hiện nay (TS. Nguyễn Văn Động, Tạp chí Luật học, số
4/2003). Bên cạnh đó, cũng có một số công trình đề cập sự cải cách, đổi mới
một số mặt trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương gắn với
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Ví dụ: Đổi mới tổ chức và hoạt
động của các cơ quan đại diện ở nước ta (Luận án phó tiến sĩ Luật học của
Chu Văn Thành, chuyên ngành Lý luận về nhà nước và pháp luật, mã số
5.05.01, Học viện Nguyễn Ái Quốc); Nâng cao hiệu lực giám sát của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay (Vũ
Mạnh Thông, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 1998); Về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở nước ta
hiện nay (TS Nguyễn Thị Hồi, Tạp chí Luật học, Số 1/ 2004); Đổi mới về tổ
chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay (Hoàng
Thu Trang, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội,
2014).
Các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên tiếp tục phát triển tư tưởng
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong điều kiện thế giới
đang chuyển đổi. Đồng thời, các nhà khoa học pháp lý đã đóng góp vào kho
tàng lý luận về nhà nước, pháp luật, đặc biệt là sự phát triển của Nhà nước
Việt Nam trong giai đoạn mới - giai đoạn mà toàn Đảng, toàn dân ta đẩy
mạnh công cuộc cải cách lớn đối với toàn bộ bộ máy nhà nước, cải cách nền
hành chính, cải cách tư pháp, đổi mới công tác lập pháp theo hướng Nhà

24

nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đối với HĐND tỉnh, các công trình
nghiên cứu cũng đã đề cập trên nhiều góc độ khác nhau, từ việc nghiên cứu
tổ chức HĐND tỉnh đến việc nghiên cứu phương thức hoạt động, hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của HĐND, đại biểu HĐND, chất lượng các kỳ họp Hội
đồng, cả việc tổ chức các kỳ họp Hội đồng thế nào cho có hiệu quả... Tuy
nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu khoa học này chưa đề cập việc đổi
mới về tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh như thế nào và tiến trình đổi
mới ra sao nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
của dân, do dân, vì dân. Mặc dù vậy, các công trình nghiên cứu trên có giá trị
lớn giúp cho tác giả có được những luận chứng khoa học để tiếp tục nghiên
cứu, hoàn thiện luận án của mình.
1.2. Các công trình khoa học của các tác giả ngoài nước và các tác giả
trong nước nghiên cứu về chính quyền địa phương ở nước ngoài
- Một số công trình khoa học của các tác giả ngoài nước nghiên cứu về
chính quyền địa phương ở nước ngoài:
Local government finance and industrial policy in China, Economics
of Planning 31: 195-212, 1998. (Tài chính của chính quyền địa phương và
chính sách công nghiệp ở Trung Quốc) là công trình của Christopher
Heady, trong đó, tác giả nhận xét rằng nghiên cứu cho thấy hệ thống tài
chính của chính quyền địa phương ở Trung Quốc ảnh hưởng tới chính sách
công nghiệp địa phương.
Trong: Local government, local economic development and quality of
life in Poland, GeoJournal 90, 225 - 234, 2000 (Chính quyền địa phương, sự
phát triển kinh tế địa phương và chất lượng cuộc sống ở Ba Lan), Craig
Young và Sylwia Kaczmarek cho rằng việc thành lập chính quyền tự trị ở địa
phương là một phần quan trọng trong quá trình chuyển đổi ở các nước Đông
Âu và Trung Âu vào năm 1989.
- Một số công trình khoa học của các tác giả trong nước nghiên cứu về
chính quyền địa phương ở nước ngoài:
Bài: Về bộ máy chính quyền cấp tỉnh ở một số nước (Nguyễn Thị Thu



23
Hà, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 113, tháng 6 năm 2005) tập trung phân
tích về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương nói chung và cơ
quan đại diện của nhân dân ở địa phương nói riêng tại một số nước như Thụy
Điển, Na Uy, trong đó tác giả nhấn mạnh nguyên tắc: chính quyền địa
phương là cộng đồng lãnh thổ tự quản, được tự chủ về tài chính, có tư cách
pháp nhân; không có hệ thống thứ bậc hoặc sự giám sát giữa các cấp chính
quyền địa phương.
Bài: Lịch sử hệ thống chính quyền địa phương Nhật Bản và một số vấn
đề về cải cách chính quyền địa phương Nhật Bản hiện nay (Phạm Hồng
Quang, Tạp chí Luật học, số 4/2010) đã trình bày khái quát về tổ chức chính
quyền địa phương Nhật Bản từ 1868 đến nay.
Nhìn chung, các tác phẩm, các công trình ngoài nước, các công trình
nghiên cứu về pháp luật nước ngoài liên quan đến tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương cung cấp cho tác giả những tư liệu phong phú đề cập
đến mô hình chính quyền địa phương các nước trên thế giới, chế độ bầu cử,
chế độ dân chủ, thiết chế cơ quan đại diện của nhân dân… ở địa phương, từ
đó giúp tác giả có thêm cơ sở lý luận để nghiên cứu luận án của mình.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM CỦA DÂN, DO DÂN,
VÌ DÂN
2.1. Vị trí, tính chất, đặc điểm và vai trò của Hội đồng nhân dân tỉnh
2.1.1. Vị trí, tính chất và đặc điểm của Hội đồng nhân dân tỉnh
Theo chúng tôi, để đánh giá đúng vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân
tỉnh trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân hiện nay
thì vừa phải căn cứ các quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức

chính quyền địa phương năm 2015 vừa cần đặt nó trước những yêu cầu của
Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Chúng tội cho
rằng làm rõ vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân tỉnh trước những yêu cầu

24
của Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân hiện nay cần
phác thảo nó theo kết cấu chiều dọc và chiều ngang của bộ máy nhà nước
như sau:
Theo chiều dọc, Xem xét theo chiều dọc, tức là xét mối quan hệ giữa
Hội đồng nhân dân tỉnh với các cơ quan nhà nước ở Trung ương như Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan nhà nước khác
và ở địa phương như Hội đồng nhân dân huyện. Theo chiều ngang, tức là xét
mối quan hệ giữa HĐND tỉnh với UBND cùng cấp.
Hội đồng nhân dân tỉnh có hai tính chất pháp lý cơ bản: một là, tính
quyền lực nhà nước, hai là, tính đại diện.
2.1.2. Vai trò của Hội đồng nhân dân tỉnh
Hội đồng nhân dân tỉnh có vai trò quan trọng là đầu mối đầu tiên và quan
trọng nhất của chính quyền địa phương cho việc triển khai thực hiện tất cả
các chính sách, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong phạm vi
cộng đồng dân cư của tỉnh.
2.2. Những yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
của dân, do dân, vì dân đối với tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân
tỉnh
2.2.1. Những yêu cầu chung của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam của dân, do dân và vì dân đối với tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân tỉnh
Một là, tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh phải đảm bảo được nguyên
tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Hai là, tổ chức và hoạt động
của HĐND tỉnh phải đảm bảo được nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống
nhất. Ba là, tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh phải bảo đảm được sự phân

định rõ vị trí, vai trò, thẩm quyền giữa HĐND tỉnh với các cơ quan nhà nước
khác theo chiều dọc và theo chiều ngang trên cơ sở Hiến pháp năm 2013.
Bốn là, tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh phải bảo đảm được sự phân định
rõ ràng giữa trách nhiệm của HĐND tỉnh với trách nhiệm của xã hội dân sự trên
địa bàn tỉnh phù hợp với Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và
vì dân


23
2.2.2. Những yêu cầu cụ thể của việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân đối với tổ chức
của Hội đồng nhân dân tỉnh
Tổ chức của HĐND tỉnh trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam của dân, do dân, vì dân phải đảm bảo tính hợp hiến và hợp pháp.
Tổ chức của HĐND tỉnh phải đảm bảo được tính tự chủ và tự chịu trách
nhiệm của HĐND tỉnh.
Tổ chức của HĐND tỉnh phải bảo đảm được tính dân chủ trong xã hội
công dân.
Tổ chức của HĐND tỉnh phải theo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng
Tổ chức HĐND tỉnh phải đảm bảo phát huy vai trò của Đại biểu HĐND tỉnh.
2.2.3. Những yêu cầu cụ thể của việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân đối với hoạt động
của Hội đồng nhân dân tỉnh
Hoạt động của HĐND tỉnh đảm bảo tính thống nhất, phù hợp với Hiến
pháp và pháp luật. Hoạt động của HĐND tỉnh bao gồm hai nhóm hoạt động
chủ yếu sau đây: nhóm hoạt động nhằm giám sát việc tuân theo Hiến pháp và
pháp luật ở địa phương, thực hiện nghị quyết của HĐND tỉnh và nhóm hoạt
động nhằm quyết định các vấn đề của địa phương do luật định.
2.3. Khái niệm, mục tiêu, nguyên tắc, nội dung, hình thức, phương pháp
đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu

xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân
2.3.1. Khái niệm, mục tiêu, nguyên tắc đổi mới tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân tỉnh
- Mục tiêu tổng quát của đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh
là thiết lập cơ cấu tổ chức hợp lý, chặt chẽ, khoa học và nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của HĐND tỉnh, bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của HĐND tỉnh.
- Nguyên tắc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh bao gồm:
Nguyên tắc bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào tiến trình đổi mới tổ chức và
hoạt động của HĐND tỉnh; nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với

24
việc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh; nguyên tắc bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp của việc đổi mới về tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh; Nguyên
tắc dân chủ, công khai, minh bạch trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của
HĐND tỉnh; Nguyên tắc khoa học trong việc tiến hành đổi mới về tổ chức và
hoạt động của HĐND tỉnh yêu cầu việc đổi mới tổ chức và hoạt động của
HĐND tỉnh phải được tiến hành trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn.
2.3.2. Nội dung, hình thức, phương pháp đổi mới tổ chức và hoạt động
của Hội đồng nhân dân tỉnh
2.3.2.1. Nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân tỉnh
Theo chúng tôi, nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh
là toàn bộ các công việc cần giải quyết trong quá trình tiến hành đổi mới. Đó là:
đổi mới tư duy chính trị - pháp lý, nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn vị trí, tinh
chất, vai trò của HĐND tỉnh trong bộ máy nhà nước; Đảng đề ra đường lối, chính
sách về đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh; Nhà nước thể chế hóa
đường lối, chính sách đổi mới tổ chức, hoạt động của HĐND tỉnh thành pháp
luật; tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về đổi mới HĐND tỉnh; tổng kết, đánh giá toàn diện, sâu sắc và khách

quan công cuộc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh; cơ cấu lại tổ
chức bên trong và cải tiến nội dung, hình thức và phương pháp hoạt động của
HĐND tỉnh; đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ,... cho đội ngũ cán bộ làm việc trong HĐND tỉnh và đại biểu HĐND
tỉnh,...
2.3.2.2. Hình thức và phương pháp tiến hành đổi mới về tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân tỉnh
Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh được tiến hành dưới
các hình thức sau đây:
Tổ chức tổng kết, đánh giá lý luận khoa học về HĐND tỉnh và thực tiễn tổ
chức, hoạt động của HĐND tỉnh từ trước tới nay; tổ chức nghiên cứu lý luận
khoa học về đổi mới tổ chức, hoạt động của HĐND tỉnh; tổ chức các hội thảo
khoa học, tọa đàm khoa học, nói chuyện chuyên đề về đổi mới tổ chức, hoạt


23
động của HĐND tỉnh; khảo sát thực tiễn để đánh giá mức độ, nhu cầu và sự cần
thiết về đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh; áp dụng thí điểm những
kết quả nghiên cứu lý luận vào thực tiễn tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh;...
2.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến đổi mới tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam của dân, do dân, vì dân
2.4.1. Những nhân tố ảnh hưởng tích cực đến đổi mới tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân tỉnh
Một là, sự hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về chính quyền địa phương nói chung, HĐND tỉnh nói riêng và về đổi
mới tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh;
Hai là, có đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất để giữ những vị trí
then chốt trong bộ máy của HĐND tỉnh như Thường trực HĐND tỉnh, lãnh
đạo các Ban của HĐND tỉnh;

Ba là, chất lượng của đại biểu HĐND tỉnh và chính sách đãi ngộ đối với
đại biểu HĐND tỉnh là điều kiện cơ bản cho công cuộc đổi mới;
Bốn là, cơ sở vật chất - kỹ thuật, trang thiết bị cho HĐND tỉnh và đại biểu
HĐND tỉnh hoạt động, được đổi mới phù hợp với thẩm quyền và điều kiện thực
tiễn của mỗi địa phương để có tiềm lực vật chất phục vụ công cuộc đổi mới
2.4.2. Những nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến đổi mới tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân tỉnh
Thứ nhất, sự nhận thức chưa đúng đắn, chưa đầy đủ về sự cần thiết phải
đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh nhằm nâng cao hơn nữa hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của HĐND tỉnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân;
Thứ hai, việc xác định chưa đúng vị trí, vai trò của UBND tỉnh trong
mối quan hệ với HĐND tỉnh dẫn tới sự lúng túng trong cách làm;
Thứ ba, cách diễn đạt chưa rõ ràng, chặt chẽ trong các quy định pháp
luật cũng ảnh hưởng tới sự nhận thức và thực hiện đổi mới tổ chức và hoạt
động của HĐND tỉnh.
2.5. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở một số nước và

24
giá trị tham khảo cho Việt Nam
Một là, dù là nhà nước liên bang hay nhà nước đơn nhất đều có sự lựa
chọn mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương bao gồm hai cơ
quan chính là Hội đồng do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra và Ủy ban do
Hội đồng bầu ra thực hiện chức năng chấp hành của Hội đồng. Hai là, quyền tự
chủ, tự quyết và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương, HĐND tỉnh
gắn liền với phân quyền rạch ròi về thẩm quyền giữa chính quyền trung ương và
chính quyền địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau.
Ba là, các quy định về tổ chức chính quyền địa phương các nước hiện nay
luôn theo hướng tăng thẩm quyền cho chính quyền địa phương, cho cơ quan
dân cử cao nhất tại địa phương là cơ quan Hội đồng, bảo đảm tính chủ động,

sáng tạo của chính quyền địa phương và giảm nhẹ gánh nặng cho chính
quyền trung ương. Bốn là, nhiều quốc gia trên thế giới đã ghi nhận nguyên
tắc phân quyền vào trong Hiến pháp - văn bản có hiệu lực pháp lý tối cao.
Chương 3
THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM CỦA DÂN, DO DÂN,
VÌ DÂN
3.1. THÀNH TỰU TRONG ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
3.1.1. Thành tựu trong đổi mới tổ chức của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì
dân
Một là, về vị trí, tính chất và vai trò của HĐND tỉnh trên cơ sở của
Hiến pháp năm 1992 có những thay đổi về tổ chức bộ máy nhà nước nói
chung và bộ máy tổ chức của HĐND tỉnh nói riêng theo hướng bảo đảm
gọn nhẹ, năng động, và có khả năng điều hành, quản lý các lĩnh vực của đời
sống nhân dân địa phương của tỉnh theo cơ chế kinh tế thị trường. Hai là,


23

24

về thẩm quyền của HĐND tỉnh. Thẩm quyền của HĐND tỉnh đã có bước

luật, các nghị quyết, chủ trương, chính sách của các cơ quan nhà nước, các tổ

phát triển mới đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt Nam của


chức, đơn vị vũ trang nhân dân và các công dân ở địa phương cũng như trách

dân, do dân và vì dân. Ba là, về bộ máy giúp việc cho HĐND tỉnh, HĐND

nhiệm giám sát thông qua các báo cáo, giải trình, chất vấn và trả lời chất vấn

tỉnh đều thành lập các Ban chuyên trách để giúp HĐND tỉnh thẩm tra các

tại kỳ họp

đề án, báo cáo, tờ trình của UBND tỉnh, kiểm tra việc thi hành nghị quyết

3.1.3. Nguyên nhân của thành tựu trong đổi mới tổ chức và hoạt động

của HĐND tỉnh, góp ý kiến về việc xây dựng và thực hiện nhiệm vụ ở địa

của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền

phương. Bốn là, về đại biểu HĐND tỉnh. Khác với các quy định trước thời

Việt Nam của dân, do dân, vì dân

kỳ đổi mới theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân,

Thứ nhất, nhờ có đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và có

do dân, vì dân thì số lượng đại biểu HĐND tỉnh giảm dần; tiêu chuẩn đại

pháp luật mang tính khả thi của Nhà nước về đổi mới tổ chức và hoạt


biểu HĐND tỉnh ngày càng được quy định cụ thể và đầy đủ; trong hoạt

động của HĐND tỉnh. Thứ hai, pháp luật về tổ chức và hoạt động của

động của đại biểu HĐND tỉnh thì tính chuyên nghiệp ngày càng tăng, tính

HĐND tỉnh, về bầu cử đại biểu HĐND tỉnh liên tục được ban hành, sửa

kiêm nhiệm ngày càng giảm.

đổi, bổ sung nhằm thể hóa đường lối đổi mới của Đảng; pháp luật quy

3.1.2. Thành tựu trong đổi mới hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh

định ngày càng cụ thể, hệ thống và minh bạch cả về tổ chức và hoạt động

đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân,

của HĐND tỉnh, tạo hành lang pháp lý cho HĐND tỉnh thực hiện ngày

vì dân

càng có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đại diện nhân dân

Trong thời kỳ đổi mới, hoạt động của HĐND tỉnh nói riêng và HĐND

tại địa phương theo xu hướng dân chủ và Nhà nước pháp quyền Việt Nam

các cấp nói chung được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật chuyên


của dân, do dân và vì dân. Thứ ba, HĐND tỉnh luôn nhận được sự hướng

biệt: Nghị quyết số 301NQ/UBTVQH về việc ban hành Quy chế hoạt động

dẫn, giám sát kịp thời của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nhận được những

của HĐND các cấp năm 1996. Và như vậy, mọi hoạt động của HĐND tỉnh và

điều kiện thuận lợi, sự hướng dẫn, kiểm tra trong thực hiện văn bản của

các bộ phận hợp thành của HĐND tỉnh cũng như mọi sự phối hợp hoạt động

cơ quan nhà nước cấp trên của Chính phủ để thực hiện tốt nhiệm vụ,

của HĐND tỉnh với các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong việc thực

quyền hạn do luật định. Thứ tư, HĐND tỉnh luôn chủ động phối hợp chặt

hiện chức năng, thẩm quyền của HĐND tỉnh đều được dựa trên cơ sở Hiến

chẽ với các cơ quan của Quốc hội, UBND tỉnh, Mặt trận Tổ quốc Việt

pháp và pháp luật, tránh sự lạm quyền, lộng quyền hoặc tùy tiện từ phía các

Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và HĐND các cấp khác để trao đổi

cơ quan công quyền của nhà nước. Kỳ họp HĐND tỉnh đã xem xét và quyết

kinh nghiệm hoạt động, mạnh dạn cải tiến, đổi mới nội dung và phương


định các vấn đề của địa phương theo luật định một cách công khai thông qua

thức hoạt động đem lại hiệu quả thiết thực. Thứ năm, các điều kiện bảo

việc truyền hình trực tiếp các phiên họp của HĐND tỉnh, các phiên họp chất

đảm về tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh luôn được sự quan tâm của

vấn của HĐND tỉnh. Sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, thường xuyên của cấp ủy

Đảng, Nhà nước và nhân dân, nên cả tổ chức, hoạt động của HĐND tỉnh

Đảng, giúp cho việc chuẩn bị báo cáo các kỳ họp HĐND tỉnh bảo đảm nội

ngày càng có chất lượng và hiệu quả.

dung đề ra trong kỳ họp phù hợp với đường lối chính trị của Đảng. Một trong

3.2. HẠN CHẾ TRONG ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA

những hoạt động trọng tâm của HĐND tỉnh là giám sát việc thực hiện pháp

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ


23
NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
3.2.1. Hạn chế trong đổi mới tổ chức của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì

dân
Một là, quan niệm về HĐND nói chung, trong đó có HĐND tỉnh nói
riêng chưa phản ánh đúng tính chất, vai trò và vị trí pháp lý của HĐND tỉnh
đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân
và vì dân. Hai là, chúng tôi cho rằng: quan điểm về cơ chế song trùng trực
thuộc của UBND tỉnh vẫn đang được thực hiện là quan điểm hiện hành mang
tính ổn định và thống nhất trong pháp luật nước ta từ trước tới nay và những
khuyết điểm của nó về tính hình thức của HĐND tỉnh, hoạt động thiếu tính
chủ động, nhiều quyền nhưng không thực quyền, tính đùn đẩy trách nhiệm
trước nhân dân địa phương vẫn diễn ra và đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ đáp
ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
Ba là, mặc dù thẩm quyền của HĐND tỉnh liên tục được đổi mới trong các
văn bản pháp luật của Nhà nước ta theo hướng hoàn thiện thể chế dân chủ và
minh bạch hóa về thẩm quyền trong mối quan hệ với các cơ quan nhà nước
cấp trên, giữa trung ương và địa phương, giữa HĐND tỉnh và UBND tỉnh,
giữa HĐND tỉnh với các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội tại địa phương
tỉnh, nhưng cho đến nay vẫn chưa minh bạch hóa về thẩm quyền của HĐND
tỉnh nhằm phát huy dân chủ và quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính
quyền địa phương trên cơ sở pháp luật đáp ứng những yêu cầu của Nhà nước
pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Bốn là, một trong những
yếu tố cơ bản để hình thành bộ máy tổ chức của HĐND tỉnh là đại biểu
HĐND tỉnh, vì thế những nhược điểm hiện nay về đại biểu HĐND tỉnh theo
quy định của pháp luật hiện hành chưa đáp ứng được những yêu cầu của Nhà
nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân
3.2.2. Hạn chế trong đổi mới hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì
dân
Về kỳ họp của HĐND tỉnh. Pháp luật hiện hành mới chỉ quy định số

24

lượng kỳ họp thường lệ 2 kỳ hoặc ít nhất 2 kỳ trong năm (không kể bất
thường, chỉ tiến hành trong trường hợp đặc biệt) nhưng lại không quy định
thời gian tối thiểu, tối đa cho mỗi kỳ họp, trong khi đó, khối lượng công việc
cả năm dồn vào 2 kỳ họp nên thường là quá tải. Về hoạt động của Thường
trực HĐND tỉnh. Khối lượng công việc theo luật định là rất lớn và nặng nề,
trong khi đó Thường trực HĐND tỉnh chỉ có 3 thành viên, trong đó, Chủ tịch
HĐND tỉnh thường hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm còn lại 2 chuyên trách
nhưng chưa được phân định rõ trong luật về chức năng nhiệm vụ và quyền
hạn của phó chủ tịch HĐND tỉnh. Về hoạt động của các Ban HĐND tỉnh.
Các Ban của HĐND tỉnh có chức năng, nhiệm vụ quyền hạn là rất lớn, trong
khi đó số lượng thành viên mỗi Ban thường chỉ có từ 5 - 7 người. Do đó, hoạt
động của các Ban của HĐND tỉnh còn nhiều bất cập, mang nhiều tính hình
thức. Về hoạt động của đại biểu HĐND tỉnh. Đại biểu HĐND tỉnh có những
hạn chế trong hoạt động công tác đại biểu nhiều năm qua là: "Khi bầu cử,
nặng về cơ cấu nên trình độ, năng lực đại biểu HĐND tỉnh còn hạn chế về
nhiều mặt làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động chung". Về hoạt động ban
hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND tỉnh. Trình tự ban hành văn
bản còn thiếu thống nhất, không theo một quy trình, thủ tục chặt chẽ, khoa
học và hợp lý. Về các điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động của
HĐND tỉnh nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn cho mọi hoạt
động của HĐND tỉnh. Về năng lực hiểu biết về pháp luật của các đại biểu
HĐND tỉnh nói chung và cán bộ lãnh đạo HĐND tỉnh nói riêng còn hạn chế. Về
công tác sơ kết, tổng kết hàng năm về các quyết định, chính sách của HĐND
tỉnh chưa thường xuyên và có hiệu quả.
3.2.3. Nguyên nhân của hạn chế trong đổi mới tổ chức và hoạt động Hội
đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam của dân, do dân, vì dân
Một là, Nhà nước ta chưa có những quy định trong pháp luật cụ thể về việc
lựa chọn mô hình tổ chức HĐND tỉnh gắn liền với những yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân. Hai là, công tác quy hoạch

cán bộ, đại biểu HĐND tỉnh chưa được quan tâm, thiếu chiến lược cụ thể, thụ
động về đào tạo nguồn cán bộ, nguồn đại biểu hoạt động chuyên nghiệp cho


23
HĐND tỉnh cả về năng lực phẩm chất và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công
tác đại biểu cũng như kinh nghiệm trong công tác của đại biểu HĐND tỉnh. Ba
là, pháp luật về tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh tuy được sửa đổi, bổ sung
nhưng thiếu tính nhất quán, chưa đồng bộ, còn nhiều mâu thuẫn....Bốn là, nhiệm
vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ trong công tác hướng
dẫn, kiểm tra, giám sát và tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức và hoạt động của
HĐND tỉnh chưa được phân định rạch ròi, còn chung chung và mang tính hình
thức. Năm là, số lượng, chất lượng đại biểu HĐND tỉnh tuy được quy định ngày
càng cụ thể và mang tầm đại biểu của nhân dân, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ và đòi hỏi của thực tiễn xã hội. Sáu là, các điều kiện về cơ sở vật chất,
trang thiết bị, kinh phí bảo đảm cho hoạt động của HĐND tỉnh tuy được quan
tâm nhưng chưa đồng đều, chưa tương thích và thường xuyên với những đòi hỏi
khách quan cho mọi hoạt động của HĐND tỉnh nói chung và đại biểu HĐND
tỉnh nói riêng.Bẩy là, công tác tổ chức tổng kết, đánh giá lý luận khoa học về tổ
chức và hoạt động của HĐND tỉnh và thực tiễn tổ chức, hoạt động của HĐND
tỉnh từ trước tới nay đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
của dân, do dân và vì dân chưa thường xuyên và chưa có kết quả cụ thể.
Chương 4
QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC
ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN TỈNH ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN VIỆT NAM CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
4.1. Quan điểm về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của
dân, do dân và vì dân

Một là, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh phải được
tiến hành trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ về vị trí, vai trò của
HĐND tỉnh trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
Hai là, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh phải được tiến
hành trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
về HĐND tỉnh và đổi mới tổ chức, hoạt động của HĐND tỉnh.

24
Ba là, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh phải được tiến
hành phù hợp với Hiến pháp, pháp luật về HĐND tỉnh và đổi mới tổ chức,
hoạt động của HĐND tỉnh.
Bốn là, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh phải bảo đảm
giữ vững ổn định chính trị ở địa phương tỉnh.
Năm là, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh phải có tính
kế thừa và phát triển những thành tựu đã đạt được về đổi mới tổ chức và hoạt
động của HĐND tỉnh trong thời gian qua.
Sáu là, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh phải có sự
tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm cải cách chính quyền địa phương của
các nước trên thế giới hiện nay.
Bẩy là, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh phải được
tiến hành theo một quá trình liên tục, thống nhất, có tổng kết, đánh giá qua
mỗi giai đoạn.
4.2. Phương hướng và giải pháp tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động
của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam của dân, do dân, vì dân
4.2.1. Phương hướng chung về đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân tỉnh
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước về tổ chức, hoạt động của HĐND tỉnh và đổi mới tổ chức,
hoạt động của HĐND tỉnh.

Thứ hai, tổ chức tốt việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước về HĐND tỉnh và đổi mới tổ chức và hoạt động
HĐND tỉnh.
Thứ ba, tổng kết, đánh giá toàn diện, sâu sắc, khách quan công cuộc đổi
mới tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh.
Thứ tư, tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với HĐND
tỉnh và công cuộc đổi mới tổ chức, hoạt động của HĐND tỉnh.
4.2.2. Phương hướng, giải pháp cụ thể về đổi mới tổ chức và hoạt động
của Hội đồng nhân dân tỉnh
4.2.2.1. Phương hướng và giải pháp cụ thể về đổi mới tổ chức của Hội


23
đồng nhân dân tỉnh
Một là, trên cơ sở các quy định của Hiến pháp năm 2013 về vị trí, tính
chất, vai trò của HĐND tỉnh, cần xác định đúng mối quan hệ giữa HĐND
tỉnh với UBND tỉnh cũng như vị trí,tính chất, vai trò của UBND tỉnh.
Hai là, xác định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND tỉnh, các bộ
phận hợp thành HĐND tỉnh, mối quan hệ giữa HĐND tỉnh với Tòa án nhân
dân, VKSND và mối quan hệ giữa HĐND tỉnh với Quốc hội, Chính phủ.
Ba là, cần có chính sách đãi ngộ đối với đại biểu HĐND tỉnh và đẩy
mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp
vụ cho đại biểu HĐND tỉnh và đội ngũ cán bộ giúp việc trong HĐND tỉnh.
4.2.2.2. Phương hướng và giải pháp cụ thể về đổi mới hoạt động của Hội
đồng nhân dân tỉnh
- Đổi mới hoạt động của HĐND tỉnh thông qua việc quy định về số
lượng kỳ họp HĐND tỉnh, quy định rõ thời gian họp tối thiểu và tối đa.
- Đổi mới hoạt động của HĐND tỉnh trong kỳ họp HĐND tỉnh
- Đổi mới hoạt động của HĐND tỉnh ngoài kỳ họp HĐND tỉnh
Như vậy, những giải pháp về hoạt động của HĐND tỉnh đã thể hiện rõ

được vị trí, vai trò, thẩm quyền của HĐND tỉnh nói chung và các bộ phận
hợp thành của HĐND tỉnh nói riêng trên tất cả các mặt hoạt động trong và
ngoài kỳ họp của HĐND tỉnh, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất
lượng hoạt động của HĐND tỉnh đáp ứng những yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
KẾT LUẬN
Vấn đề đổi mới về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh
đã có các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý trong và ngoài nước tập
trung nghiên cứu những vấn đề chung: sự hình thành, phát triển, đặc điểm
của chính quyền địa phương, phân biệt chính quyền đô thị, chính quyền nông
thôn; mô hình chính quyền hai cấp ở đô thị, ba cấp ở nông thôn; quan điểm tổ
chức chính quyền địa phương nói chung, trong một chừng mực nhất định đều
đề cập đến phân công, phân cấp quyền lực nhà nước, tổ chức và hoạt động
của Hội đồng nhân dân tỉnh ở bình diện chung trong nhà nước pháp quyền

24
Việt Nam, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên biệt,
có hệ thống về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh theo hướng
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân,
vì dân. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, chuyển dần từ nhà
nước cai trị sang nhà nước phục vụ, nhà nước mà ở đó có tinh thần thượng
tôn pháp luật, càng đặt ra những đòi hỏi phải đổi mới tổ chức và hoạt động
của Bộ máy nhà nước nói chung, Hội đồng nhân dân tỉnh nói riêng. Vì vậy,
việc nghiên cứu đưa ra những khuyến nghị khoa học nhằm đổi mới tổ chức
và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, dưới sự
lãnh đạo của Đảng là đáp ứng yêu cầu tất yếu khách quan đang đặt ra hiện
nay, đồng thời những thành công của luận án sẽ là những đóng góp vào sự
phát triển của khoa học pháp lý và thực tiễn xây dựng Luật Tổ chức chính
quyền địa phương hiện nay.

Hội đồng nhân dân tỉnh là thiết chế nhà nước ở cấp tỉnh có quyền lực
hành chính nhà nước thực hiện quyền hành pháp là chủ yếu, giải quyết những
công việc chung của cả nước phát sinh trên địa bàn địa phương và những vấn
đề của địa phương theo luật định. Trong cơ cấu quyền lực nhà nước ở địa
phương, Hội đồng nhân dân tỉnh là cấp đầu tiên của chính quyền địa phương,
nơi tổ chức thực hiện, chỉ đạo thực hiện mọi chủ trương, chính sách, pháp
luật của nhà nước và của địa phương. Hội đồng nhân dân tỉnh trực tiếp nhận
sự phân cấp, phân quyền của trung ương đối với địa phương. Nhà nước pháp
quyền đòi hỏi tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương nói chung,
Hội đồng nhân dân tỉnh nói riêng phải được đổi mới trên cơ sở đường lối đổi
mới của Đảng, phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật
khác; bảo đảm tính thống nhất, thông suốt của nền hành chính nhà nước, bảo
đảm tính nghiêm minh của pháp luật; bộ máy chính quyền địa phương nói
chung, Hội đồng nhân dân tỉnh nói riêng phải gọn nhẹ, có sự phân quyền,
phân cấp, ủy quyền rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với
chính quyền địa phương và Hội đồng nhân dân tỉnh, giữa các bộ phận hợp
thành Hội đồng nhân dân tỉnh; hoạt động của chính quyền địa phương và Hội


23
đồng nhân dân tỉnh phải hướng tới bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả; thực quyền,
không hình thức.
Thực trạng đổi mới về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân
tỉnh ở nước ta từ năm 1992 đến nay, luôn phản ánh đường lối đổi mới của
Đảng trong từng giai đoạn đổi mới của dân tộc. Đó cũng là quá trình đổi mới,
từng bước phát triển của pháp luật qua các giai đoạn lịch sử lập Hiến và lập
pháp quy định về tổ chức chính quyền địa phương nói chung, Hội đồng nhân
dân tỉnh nói riêng.
Thể chế dân chủ của nhà nước ta thông qua vai trò, vị trí, tính chất
của Hội đồng nhân dân tỉnh ngày càng sâu sắc, đã phản ánh bản chất của Nhà

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, từng bước khẳng định xu thế tất
yếu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
Đổi mới về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh thời
gian qua đã đạt nhiều thành tựu nhưng cũng bộc lộ nhiều hạn chế đòi hỏi bức
thiết trong giai đoạn hiện nay là tiếp tục đổi mới mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo
của Đảng, chấm dứt tình trạng lúng túng về lựa chọn mô hình tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân tỉnh trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân để hiện thực hóa định hướng xây
dựng chính quyền địa phương mà vai trò quan trọng hàng đầu là Hội đồng
nhân dân tỉnh trong các đạo luật liên quan đến chính quyền địa phương trên
cơ sở Hiến pháp năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương nói
chung, Hội đồng nhân dân tỉnh nói riêng là một yêu cầu tất yếu khách quan
phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng và Hiến pháp năm 2013. Quá trình
đổi mới về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh mang tính
thường xuyên, liên tục dưới sự lãnh đạo của Đảng. Việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh trong giai đoạn hiện nay được cụ thể
hóa trong Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 vừa mang tính đổi
mới vừa mang tính ổn định trong tương lai, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước thống nhất và
thông suốt.

24



×