Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Biến đổi của làng xã người việt hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.36 KB, 32 trang )

Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Khoa Việt Nam học

Bài tiểu luận
Môn: Gia đình – dòng họ – làng xã Việt Nam

Chủ đề:

SỰ BIẾN ĐỔI CỦA LÀNG XÃ
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
Giảng viên:

TS. Đặng Thị Phương Anh

Nhóm SV : 1. Nguyễn Thị Linh
2. Nguyễn Thị Hương
3. Nguyễn Thị Mỹ Linh
4. Bùi Thị Thu Hiền
5. Nguyễn Thị Giang

6. Đặng Thị Phương Hoa
7. Vũ Bá Đạt
8. Kiều Văn Tùng
9. Nguyễn Thu Thiều
10. Phạm Thị Phượng

Hà Nội, 2019



1


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

SỰ BIẾN ĐỔI CỦA LÀNG XÃ VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
Mục lục
Chương I: Khái quát làng xã người Việt truyền thống........................................4
1. Một số khái niệm............................................................................................4
2. Các loại hình tổ chức và trật tự thứ bậc trong làng và những biến đổi
trong bối cảnh hiện nay........................................................................................6
Chương II: Vai trò của kinh tế làng xã trong bối cảnh hiện nay........................8
1. Chế độ sử hữu ruộng đất...............................................................................8
2. Nông nghiệp làng xã.......................................................................................9
3. Thương nghiệp làng xã................................................................................11
4. Thủ công nghiệp làng xã..............................................................................12
Chương III: Sự biến đổi của văn hóa làng xã trong bối cảnh đương đại.........13
1. Tính cộng đồng làng xã và sự biến đổi của nó trong bối cảnh hiện nay. 13
1.1 Tính cộng đồng..........................................................................................13
1.2 Sự biến đổi của tính cộng đồng làng xã...................................................15
2. Tính bảo thủ và sự biến đổi của nó trong bối cảnh hiện nay...................17
2.1 Tính bảo thủ làng xã.................................................................................17
2.2 Sự biến đổi của tính bảo thủ.....................................................................19
3. Tính tự quản, tự trị và sự biến đổi của nó trong bối cảnh hiện nay........21
3.1 Tính tự quản, tự trị...................................................................................21


2


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

3.2 Biểu hiện và sự biến đổi của tính tự quản, tự trị làng xã......................21
4. Chủ nghĩa cục bộ địa phương và sự biến đổi của nó trong bối cảnh
đương đại.............................................................................................................26
4.1 Chủ nghĩa cục bộ địa phương ở làng xã..................................................26
4.2 Sự biến đổi của chủ nghĩa cục bộ địa phương........................................27
Chương IV. Làng xã người Việt trong mối tương quan với đô thi hiện nay và
công cuộc xây dựng nông thôn mới......................................................................28
1. Mối tương quan của làng xã với đô thị hiện nay.........................................28
2. Công cuộc xây dựng nông thôn mới.............................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................33

3


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

Chương I: Khái quát làng xã người Việt truyền thống
1.

Một số khái niệm


Theo GS Phan Đại Doãn, làng – xã thường được dùng như một khái niệm
chung nhưng thực ra làng và xã có nội hàm không đồng nhất. Làng là cộng đồng tự
nhiên được tập hợp theo quan hệ huyết thống, quan hệ địa vực, nghề nghiệp... còn
xã là cộng đồng dân cư theo tổ chức hành chính. Làng xuất hiện từ lâu trong lịch
sử, còn xã chỉ xuất hiện khi nhà nước trung ương muốn và có đủ khả năng vươn tới
quản lý các đơn vị dân cư cấp cơ sở.
Vậy, Làng xã là một đơn vị tụ cư, đơn vị kinh tế, đơn vị tín ngưỡng và sinh
hoạt văn hóa cộng đồng, đơn vị hành chính cấp cơ sở truyền thống của người nông
dân Việt ở nông thôn, có địa vực, cơ sở hạ tầng, cơ cấu tổ chức, phong tục, tập
quán, tâm lý, quan niệm, tính cách và cả “hương âm”, "thổ ngữ" tức "giọng làng"
riêng, hoàn chỉnh và tương đối ổn định trong quá trình lịch sử.
Làng - xã chính là trung tâm sinh hoạt tự lập tự chủ của người dân, và cũng
là sức mạnh của dân tộc. Trước mọi cuộc xâm lăng thuộc mọi lĩnh vực, trước mọi
mưu đồ làm tổn hại cuộc sống hạnh phúc của người dân, hệ thống làng – xã đã
luôn luôn là cơ cấu chính yếu giúp dân tộc ta bảo toàn lực lượng, phục hồi sức
mạnh, và vùng lên phá tan giặc.
Làng - xã là một thiết chế xã hội, một đơn vị tổ chức chặt chẽ của nông thôn
Việt Nam trên cơ sở địa vực, địa bàn cư trú; là sản phẩm tự nhiên phát sinh từ quá
trình định cư và cộng cư của người Việt; trồng trọt là điểm tập hợp cuộc sống cộng
đồng tự quản đa dạng và phong phú của người nông dân, ở đó họ sống, làm việc,
quan hệ, vui chơi, thể hiện mối ứng xử văn hoá với thiên nhiên, xã hội và bản thân
họ.

4


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam


Mỗi làng có một địa vực nhất định coi như không gian sinh tồn gồm khu cư
trú, ruộng đất, gò đồi, núi sông, ao đầm... do cộng đồng làng hay các thành viên
của cộng đồng làng sử dụng.
Cư dân trong làng là thành viên của cộng đồng gắn bó với nhau bằng nhiều
mối quan hệ như quan hệ láng giềng, quan hệ huyết thống, quan hệ nghề nghiệp,
quan hệ tín ngưỡng, quan hệ tương trợ giúp đỡ lẫn nhau...
Về mặt văn hóa mỗi làng thường có đình làng thờ Thành hoàng làng, có
chùa, đền, miếu, am, quán, có cơ sở sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng và lễ hội chung
(riêng các làng theo Thiên chúa giáo các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng tập trung ở
nhà thờ).
Về mặt quản lý, thời kỳ đầu có thể chỉ là hội đồng già làng, chủ yếu tổ chức
quản lý theo tục, sau đó đến Hội đồng kỳ mục rồi Hội đồng tộc biểu ..., quản lý
thông qua hương ước.
Nếu Gia đình là những người có quan hệ với nhau về mặt huyết thống.
Dòng họ là một cộng đồng liên kết chặt, xác lập với nhau bằng quan hệ huyết
thống giữa các gia đình và cùng cư trú trên một địa vực. Thì, Làng xã chính là một
tổ chức cộng đồng trong đó có cả gia đình và dòng họ, vừa được xác lập bởi quan
hệ huyết thống của nhiều dòng họ hoặc chỉ một dòng họ, vừa được xác lập bởi
quan hệ địa vực chính là láng giềng và quan hệ nghề nghiệp.
Như vậy, làng xã chính là một cộng đồng đa chức năng liên kết chặt bởi
nhiều mối quan hệ.
Ngày nay, làng xã cổ truyền đã thay đổi, không còn bao bọc khép kín trong
lũy tre làng mà là một đơn vị dân cư mở, mỗi xã là một đơn vị hành chính cấp nhỏ
nhất trong hệ thống hành chính bốn cấp hiện nay.
Làng xã là đơn vị hành chính dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước và quản
lý của chính quyền nhân dân.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, làng xã đã tháo gỡ những nếp cũ đã lỗi
thời, không còn phù hợp của làng xã truyền thống như co cụm, khép kín “Trống
làng nào làng ấy đánh, Thánh làng nào làng ấy thờ” hay chỉ trọng lệ làng, coi
5



Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

thường pháp luật kiểu “Phép vua thua lệ làng” … nhưng cũng đồng bảo lưu được
những giá trị quý báu của văn hóa làng xã như ý thức trách nhiệm cao với cộng
đồng; tôn trọng trật tự, kỷ cương; tinh thần tương thân, tương ái, đùm bọc “tắt lửa
tối đèn có nhau” …
2.

Các loại hình tổ chức và trật tự thứ bậc trong làng và

những biến đổi trong bối cảnh hiện nay
Những tiếp cận của GS. Trần Từ đã chỉ ra cơ cấu tổ chức của làng - xã cổ
truyền ở Bắc Bộ với rất nhiều hình thức tập hợp khác nhau: tập hợp người theo địa
vực (ngõ, xóm), tập hợp người theo huyết thống (họ, chi, ngành), tập hợp người
theo líp tuổi (giáp), tập hợp người trong bộ máy chính quyền cấp xã (dân làng - xã,
hội đồng kỳ mục, lý dịch )...Các hình thức tổ chức, tập hợp này tuy tồn tại như các
“ốc đảo” theo những cơ chế vận hành riêng, nhưng lại đan cài chồng chéo vào
nhau tạo ra trong làng – xã những mối quan hệ liên hệ rất chặt chẽ, gắn bó song vô
cùng phức tạp, và trùm lên tất cả làng – xã như tế bào sống của xã hội Việt, mà
theo tác giả có thể nói nó là một biển tiểu nông tư hữu.
Ngày nay, cơ bản các làng vẫn giữ nguyên địa vực hành chính và phân mốc
giới hạn của làng mình. Tuy nhiên mối quan hệ giữa các làng với nhau đã trở nên
gần gũi và cởi mở hơn, không còn bó buộc, theo những thiết chế chặt chẽ nghiêm
khắc như trước đây.
Trong làng xã Việt Nam, người Việt rất coi trọng danh tiếng và lấy đó để tự
khẳng định vị trí của bản thân trong cộng đồng, vì vậy mà trong dân gian có câu

“một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”, nhất là ở các làng đồng bằng Bắc
Bộ, sự phân chia ngôi thứ trong làng rất cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ.

6


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

Theo Phan Kế Bính, trong cuốn “Việt Nam phong tục” phân chia ngôi thứ
trong làng Việt cổ truyền được phân chia thành nhiều hạng từ cao xuống thấp: chức
sắc, chức tước, thí sinh khóa sinh, lão hạng, dân đinh, ti ẩu. Lệ xưa ở mỗi làng có
nhiều nét khác nhau, tuy nhiên cũng có những điểm tương đồng nhất định.
Trong cuốn “Văn Minh Việt Nam”, ông Nguyễn Văn Huyên lại chia thành
năm lớp trong hệ thống phân chia thứ bậc, và đến nay năm lớp này dường như vẫn
giữ được trong xã hội hiện nay, với chức vụ và trách nhiệm với làng xã không có
sự biến đổi nhiều.
Lớp thứ nhất là những người được phong chức tước phẩm hàm được hưởng
những quyền lợi gắn với thứ bậc của mình trong làng xã. Ngày nay lớp người này
chính là những cán bộ từ cấp xã trở lên, có những quyền hạn nhất định gắn liền với
quyền lợi của người dân.
Lớp thứ hai gồm các cụ cao niên trên sáu chục tuổi trong làng, trước kia họ
thường được miễn mọi nhiệm vụ, thuế khóa, và các khoản đóng góp chung. Những
người này thường hoạt động và tổ chức các buổi lễ tế, ở đình làng và hội làng, rất
được kính trọng. Đặc biệt, các cụ ông khi đến tuổi “đi đình”, thường sẽ tổ chức
một buổi lễ có xôi, rượu và thịt để làm lễ cúng ở đình làng, có sự tham gia của
những cụ cao niên khác trong làng. Đây được xem như một hình thức lên lão cho
những cụ cao niên khi đến tuổi. Từ đó, những người này thường sẽ tổ chức cúng lễ
vào các ngày đầu tháng ở đình làng và được tham gia vào những sự kiện trọng đại

của làng.
Lớp thứ ba gọi là kỳ mục, bao gồm tất cả những nhân viên hành chính ở
làng, như lý trưởng, phó lý, đến nay chính là những người nằm trong ban lãnh đạo
thôn, có trưởng thôn, bí thư chi bộ, phó thôn, …tham gia chỉ đạo tất cả các công
việc trong làng.
7


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

Lớp thứ tư là tư văn, là những người có chữ nghĩa, có bằng cấp, làm ăn và
định cư xa quê. Ở một số làng, người ta coi những người này là những ân nhân của
làng, tức là những người đóng góp tiền của để xây đường xá, đê điều, cơ sở vật
chất cho làng.
Lớp thứ năm là hoàng đinh, gồm những người còn lại trong làng, dân làng,
có vai trò làm kinh tế, xây dựng văn hóa làng, tham gia các hoạt động tập thể, đóng
góp cho làng mình.
Như vậy, sự phân chia thứ bậc trong làng Việt truyền thống hay bây giờ đều
có những nét tương đồng, tuy nhiên những phân biệt ngôi bậc sang hèn, ngôi vị
nhiều phiền nhiễu đã không còn. Mọi người trong làng đã có sự bình đẳng nhất
định trong xã hội, mỗi người đảm nhận những trách nhiệm và vai trò khác nhau
trong cộng đồng làng xã. Truyền thống kính trên nhường dưới, tôn trọng người cao
tuổi vẫn được lưu giữ.

Chương II: Vai trò của kinh tế làng xã trong bối cảnh hiện nay
1.
Chế độ sử hữu ruộng đất
Trước năm 1946, Việt Nam tồn tại 2 cơ chế sử dụng ruộng đất đó là chế độ

công điền (ruộng công) và chế độ tư điền (ruộng tư).
Chế độ ruộng đất công
Ruộng đất công của làng là ruộng công làng xã, do làng xã trực tiếp quản lý
và phân chia cho các thành viên của làng theo lệ làng hoặc theo quy định của nhà
nước (chính sách quân điền thời Lê Sơ, thời Nguyễn). Đây là bộ phận quan trọng,
luôn được nhà nước phong kiến và làng xã tìm cách duy trì vì đây chính là chỗ dựa
để huy động thuế và nhân lực cho nhà nước và cho làng, là nguồn thu chính của
nhà nước và của làng xã.
Chế độ ruộng đất tư
Do cá nhân khai hoang, do mua bán, thừa kế hay nhà nước ban tặng, ban
thưởng...
8


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

Sau Cách mạng tháng Tám, với 5 bản Hiến pháp và 4 lần ban hành Luật Đất
đai, nhận thức về sở hữu đất đai đã không ngừng hoàn thiện. Những quy định hiện
nay về quyền của Nhà nước cũng như quyền và nghĩa vụ của chủ sử dụng đất là cơ
sở pháp lý cần thiết để khai thác có hiệu quả nguồn lực có giới hạn đó của đất
nước.
Quy định “đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại diện chủ sở
hữu”.
Chế độ ruộng đất ở làng, xã hiện nay quyền sở hữu thuộc về toàn dân nhưng
nhà nước hay bộ máy chính quyền cấp cao của làng xã đại diện cho nhà nước là đại
diện chủ sở hữu.
Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại chế độ ruộng đất công thuộc về quyền sở hữu
của làng như là: trường học, trạm y tế, uỷ ban, nhà văn hoá các thôn… nhân dân sở

hữu đất và có trách nhiệm đóng thuế.
2.
Nông nghiệp làng xã
Nền văn minh Việt Nam là nền văn minh lúa nước tuy nhiên tuỳ thuộc vào
điều kiện tự nhiên và khí hậu của từng vùng thường kết hợp với nhiều nghề phụ.
Dưới chế độ phong kiến, các làng xã của Việt Nam nông nghiệp luôn đóng vai trò
làm kinh tế chủ đạo.
Đất nước ta tiến hành CNH, HĐH đất nước kinh tế phát triển khiến cho nông
nghiệp ở làng, xã hiện nay có sự biến đổi.
Làng xã đô thị hoặc ven đô thị: có xu hướng hội nhập, tỷ lệ làm nông nghiệp
ở nhóm này không còn cao và nông nghiệp chủ yếu là trồng các cây hoa màu, xây
dựng khu vườn rau sạch, mô hình VAC (vườn – ao – chuồng), một vài bộ phận
khác cho nhà đầu tư thuê để sản xuất theo mô hình khu vườn, trang trại khép kín
theo hướng hiện đại. Kinh tế chính đã không còn dựa vào làm nông là chủ yếu nữa,
sự thay đổi này theo đường lối “nông thôn mới” của nhà nước đề ra.
Ví dụ: tại các xã Thượng Mỗ, Hạ Mỗ, TT Phùng, huyện Đan Phượng phần
lớn đất nông nghiệp canh tác đã được cho thuê để trồng hoa thay vì lúa nước.
Một phần không nhỏ trong diện tích canh tác làm nông đã được bán và thầu
để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, trường đại học…
9


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

Sau khi chủ nghĩa tập trung quan liêu bao cấp được xóa bỏ, kinh tế nông
thôn Việt Nam đã có những bước khởi sắc nhất định, trong đó có vai trò lớn của
kinh tế hộ gia đình tiểu nông. Với chính sách giao đất, chia ruộng, những hộ gia
đình nông thôn đã có những cải thiện đáng kể trong đời sống của mình.

Trong lịch sử Việt Nam, và cho đến tận bây giờ sản xuất nhỏ mà chủ yếu là
kinh tế hộ gia đình có vai trò cực kỳ quan trọng. Gia đình tiểu nông là đơn vị của
làng xã, cũng là tế bào của xã hội mà nông nghiệp là chủ yếu. Nhưng trên thực tế,
làng xã Việt Nam cũng có tính linh hoạt của mình, nông dân làng xã rất ít có hộ
nào chỉ có làm nông truyền thống mà luôn có nhưng nghề phụ gắn với thủ công
nghiệp và buôn bán. Sản xuất nhỏ kinh tế tiểu nông hộ gia đình là một loại hình
kinh doanh tổng hợp dựa trên cơ sở của nền nông nghiệp lúa nước. Ngoài trống
lúa, các hộ nông dân thường trồng thêm rau màu, làm vườn, trồng cây ăn quả, chăn
nuôi gia súc, gia cầm, thả cá, v.v. là để tận dụng sức lao động, khai thác tự nhiên có
sẵn vừa để tự cung tự cấp vừa để làm hàng hóa buôn bán ở chợ làng.
Chính vì lẽ đó, chợ làng được hình thành một cách hết sức tự nhiên, nó
không chỉ là nơi buôn bán, trao đổi hàng hóa trong làng mà còn là nơi tụ họp của
những bà, những mẹ. Chợ không phải ngày nào cũng họp mà thường họp theo
phiên, ở đó ta sẽ thấy tất cả những sản phẩm mà người làng làm ra. Người ta đi chợ
đôi khi không phải chỉ mua đồ, mà đi chợ chơi, đi để trò chuyện. Chợ chính là
không gian văn hóa thể hiện rõ nét đời sống vật chất và tinh thần của một làng.
Như vậy, nhìn chung kinh tế làng xã nông nghiệp vẫn đóng vai trò chủ yếu,
sản xuất tuy bấp bênh còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và điều kiện xã
hội, sản xuất nông nghiệp mở rộng, vẫn là một hạt nhân quan trọng của nền kinh
tế. Chính những đặc điểm nghề nghiệp vốn có của làng xã mà nó đã lưu giữ được
những nét văn hóa tốt đẹp trong truyền thống cho đến ngày nay.
3.

Thương nghiệp làng xã

10


Gia đình – dòng họ - làng xã


Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

Một trong những đặc điểm kinh tế của làng xã truyền thống chính là trọng
ruộng đất, trọng nông nghiệp, lấy nông làm gốc, coi thường thương nghiệp, hạn
chế sự phát triển của thương nghiệp.
Thương nghiệp làng xã chỉ dừng lại ở mức độ là các hoạt động buôn bán nhỏ
hoặc cung cấp dịch vụ về tiêu thụ một phần công cụ lao động, nông sản và các mặt
hàng thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhất cho nông dân. Hoạt động
thương nghiệp của người nông dân chỉ nhằm đáp ứng những nhu cầu trao đổi bức
thiết nhất của họ mà thôi.
Do nhu cầu quá bức bách trong đời sống của người nông dân mà thời phong
kiến các chợ làng đã tự phát hình thành. Chợ làng thường nằm ở các vị trí là ngã ba
ngã tư đường giao thông, các khu vực trung tâm hành chính; còn nếu là vùng có
sông thì bao giờ cũng thường gắn với bến sông.
Ngày nay cùng với sự hội nhập kinh tế theo chính sách mở cửa của nhà
nước, thương nghiệp được coi trọng đóng vai trò quan trọng đi đôi với sản xuất
nông nghiệp. Do nhu cầu mua bán, trao đồi hàng hoá ngày càng lớn các chợ làng
xã được mở rộng quy mô và có sự quy hoạch và quản lý của các ban ngành các cấp
làng xã.
Mô hình các chợ làng nhỏ họp tại ngã ba, ngã tư hay ven sông thuận tiện cho
việc đi lại và trao đổi buôn bán, các mặt hàng sản phẩm đa dạng hoá và phong phú
bên cạnh những thực phẩm thiết yếu hàng ngày còn có các mặt hàng đồ gia dụng,
vải vóc, quần áo… tấp nập thường được họp vào sáng sớm, chiều tối hoặc có thể
cả ngày tuỳ vào điều kiện của mỗi làng xã.
Mô hình các chợ làng lớn được mở theo quy mô có sự quy hoạch và quản lý
thường được họp theo phiên tuỳ theo đặc điểm mỗi làng quy định phiên chợ họp
những ngày chẵn hay những ngày lẻ, phiên chợ họp sáng hay chiều. Những phiên
chợ làng lớn này là nơi tập chung buôn bán trao đổi đa dạng các mặt hàng hoá mà
không chỉ có người dân trong thôn trong làng đó mà còn là nơi giao lưu buôn bán
của nhiều cư dân các làng khác hay khách thập phương.

11


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

Mô hình chợ làng hiện nay nhộn nhịp và là nhu cầu thiết yếu cần phải có bên
cạnh việc trao đổi hàng hoá buôn bán, chợ làng còn là nơi để giao lưu văn hoá giữa
các làng các thôn xóm với nhau.
4. Thủ công nghiệp làng xã
Do đặc điểm nghề nông nên ở nông thôn Việt Nam nghề thủ công lại rất
phát triển nhân lúc làm nông rảnh rỗi với tư cách là nghề phụ và phần lớn mang
tính chất gia đình, hộ gia đình như tơ tằm, đan dệt…
Làng nghề Việt Nam là một thuật ngữ dùng để chỉ các cộng đồng cư dân,
chủ yếu ở các vùng ngoại vi thành phố và nông thôn, có chung truyền thống sản
xuất các sản phẩm thủ công cùng chủng loại tại Việt Nam. Làng nghề thường mang
tính tập tục truyền thống đặc sắc, đặc trưng, không chỉ có tính chất kinh tế mà còn
bao gồm cả tính văn hóa, đặc điểm du lịch tại Việt Nam.
Trong nông thôn Việt Nam về mặt kinh tế đã xuất hiện nhiều loại làng: làng
nông nghiệp, làng thủ công, làng buôn nhưng phổ biến vẫn là làng nông – công –
thương.
Đặc điểm của các sản phẩm, do đặc điểm tính chất nông nghiệp và quan hệ
làng xã cho nên những sản phẩm được chọn dễ phát triển trong quy mô cá nhân
tiếp đó đến quy mô gia đình và trao đổi giữa các thợ thủ công với nhau sau đó lan
ra cả làng đó là nguyên tắc của làng nghề. Cũng tuỳ theo nghề mà mỗi làng chọn
nếu không phát triển được thì dần sẽ bị mai một, nếu hiệu quả tốt phù hợp sẽ phát
triển chuyên sâu tạo thành các làng nghề truyền thống như làng gốm, làng mộc,
làng lụa…
Làng nghề đóng một vai trò vô cùng lớn trong sự phát triển kinh tế làng xã.

Thực tế cho thấy những làng nghề có nghề truyền thống tại Việt Nam xét về mặt
kinh tế cũng như văn hoá mạnh hơn rất nhiều những làng không hình thành làng
nghề.
Thực trạng làng xã nông thôn Việt Nam hiện nay làng nghề đã trở nên đa
dạng và phong phú thể loại hơn rất nhiều bên cạnh những làng nghề truyền thống
như: mài, gốm sứ, vàng bạc, thêu ren, mây tre đan, cói, dệt, giấy, tranh dân gian,
12


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

gỗ, đá. Thì những làng nghề mới xuất hiện do nhu cầu của con người như là: làng
đi buôn, làng thịt chó, làng làm đậu, làng nấu rượu,… các làng nghề này cũng phát
triển theo quy mô gia đình và sau đó phát triển ra cả làng.

Chương III: Sự biến đổi của văn hóa làng xã trong bối cảnh
đương đại
1.

Tính cộng đồng làng xã và sự biến đổi của nó trong bối

cảnh hiện nay
1.1 Tính cộng đồng
Được sinh ra và lớn lên nuôi dưỡng bởi dòng nước của làng quê, được đùm
bọc trong sự quan tâm của bạn bè, hàng xóm láng giềng. Điểm mạnh của “tính
cộng đồng” là mọi người trong cộng đồng yêu thương giúp đỡ lẫn nhau tạo thành
một tập thể. Nhưng đặc trưng đó chỉ được phát huy trong làng xã khép kín, có quen
biết thì có cộng đồng mà không quen biết thì không có tập thể.

Bước vào xã hội công nghiệp – đô thị rộng lớn, nơi mà mọi người không thể
quen biết thân thiết hết được với nhau, mọi hậu quả xấu bắt đầu nảy sinh. Lẽ ra
mỗi người một việc, việc mình mình làm thì người Việt chúng ta cứ phải la cà trò
chuyện, rồi tự cho mình cái quyền can thiệp vào việc riêng của người khác, nhà
khác ngay cả khi người ta không làm gì ảnh hưởng đến mình, đến tập thể, cộng
đồng.
Tính cộng đồng kéo theo hệ lụy khác là thói cào bằng: Người Việt Nam
không muốn ai hơn mình nên cứ thấy ai hơn mình là tìm cách phá họ, dìm họ
xuống. Thói nói xấu sau lưng cũng từ đây mà ra.
Trong truyền thống cộng đồng của người Việt Nam, ít thấy có quan hệ trực
tiếp giữa cá nhân với tập thể mà chỉ có quan hệ giữa cá nhân với gia đình, gia tộc,
gia tộc có quan hệ với làng, làng có trách nhiệm với nước. Vì vậy, đối với tập thể
lớn thì vai trò của cá nhân bị hòa tan. Để duy trì được quan hệ giữa các cộng đồng
thì cá nhân phải hoà vào tập thể và ngược lại cơ chế quản lí làng – xã phải tổ chức
13


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

sao cho đảm bảo được quyền lợi bình đẳng giữa các thành viên. Biểu hiện rõ nét
nhất là quyền tham gia bầu chọn người đại diện tham gia vào bộ máy quản lí của
làng – xã, dân làng đựơc hỏi ý kiến trước những quyết định hệ trọng.
Làng – xã có thể là nơi ở của một họ hoặc một vài dòng họ lớn. Các họ trong
làng có mối quan hệ gắn bó lâu đời và mang tính bất biến với chủ nghĩa tập thể và
tự quản rất cao. Người Việt rất sợ cảnh bị “đuổi ra khỏi làng”, sợ cảnh phải bỏ nhà,
bỏ cửa, bỏ làng ra đi. Làng- xã chính là nơi cư trú, là nơi mà mọi người gắn bó với
nhau bằng quan hệ huyết thống, quan hệ cộng đồng và quan hệ sản xuất. Với cơ sở
văn hoá là nền tảng nông nghiệp mà nghề trồng lúa nước là nghề chính, người Việt

luôn có xu hướng thích đẻ nhiều (đông con nhiều của), làm đổi công cho nhau, bên
cạnh đó tính quần tụ giúp người Việt có thể giúp đỡ nhau chống đỡ với thiên tai,
địch họa, do đó họ phải hợp sức với nhau.
Người Việt trong một làng dù không có mối quan hệ thân tộc thì họ vẫn luôn
liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành tình làng nghĩa xóm, láng giềng tối lửa tắt đèn
có nhau hay bán anh em xa mua láng giềng gần. Như vậy, bà con lối xóm là mối
quan hệ cộng đồng gắn kết quan trọng thứ hai sau quan hệ huyết thống dòng tộc.
Nguyên tắc quan trọng hình thành nên làng xã là tính cộng đồng. Tính cộng
đồng có vai trò gắn kết các thành viên trong làng lại với nhau thông qua các biểu
tượng mang tính truyền thống, như cây đa, bến nước, sân đình. Hầu hết, mọi làng
xã của người Việt đều hội tụ cả ba biểu tượng này. Dù đi xa mãi đâu mỗi khi về
làng, hình ảnh mà người ta mong chờ được nhìn thấy đầu tiên chính là cây đa đầu
làng.
Phải nói rằng, cây đa chính là nơi hội tụ giao tiếp của làng với thế giới bên
ngoài, là chốn nghỉ chân của lữ khách qua đường hay của những người dân sau
một ngày lao động nơi đồng ruộng. Bên cạnh cây đa, bến nước chính là nơi tập
14


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

trung cho sinh hoạt thường nhật của dân làng, đặc biệt là những người phụ nữ. Bến
nước có thể là một đoạn của con sông chảy qua làng hay một hồ lớn của làng thậm
chí đôi khi chỉ là một giếng nước. Đây chính là chỗ giao lưu, tâm sự chuyện trò của
chị em phụ nữ trong khi tắm cho con, vo gạo, rửa rau… Đó chính là những biểu
hiện – minh chứng rõ ràng nhất cho tính tập thể của làng xã Việt Nam.
1.2 Sự biến đổi của tính cộng đồng làng xã
Lịch sử đã chứng minh ưu điểm của tính cộng đồng là dễ quy tụ được một

tập thể đoàn kết, gắn bó để đạt được mục tiêu chung. Chủ nghĩa tập thể là một
trong những bản tính nguyên thủy của con người. Con người từ thời “ăn lông ở lỗ”
đã sống thành một cộng đồng, tập thể từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền
đạt các kĩ năng sinh tồn, kích thích cho quá trình tiến hóa. Cũng từ đó mà dần dần
hình thành các mô hình xã hội từ dạng sơ khai cho đến phức tạp và phát triển cao
như ngày nay. Cũng nhờ chủ nghĩa tập thể mà dân tộc Việt Nam dễ tập hợp thành
một tập thể đại đoàn kết để bảo vệ và xây dựng đất nước từ thời kỳ các vua Hùng
cho đến hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
Mặt trái của tính cộng đồng là nếu bị hiểu lệch lạc sẽ không xác định được
vai trò của yếu tố cá nhân. Một cộng đồng quá coi trọng tính tập thể thì yếu tố cá
nhân bị lu mờ, vai trò và lợi ích của cá nhân bị gạt bỏ để phục vụ tập thể.
Điểm dễ thấy ở người Việt là tâm lý dựa dẫm ỷ lại vào tập thể, cá nhân
không dám nhận trách nhiệm: “Cha chung không ai khóc”, “Đắm đò chết chung”,
“Có lụt thì lút cả làng”. Một khi sống dựa vào tập thể thì ý thức cá nhân bị mờ đi,
có xấu thì cả làng đều xấu. Từ tâm lý dựa dẫm ỷ lại vào tập thể mà nảy ra tư tưởng
cào bằng, nó dìm con người trong cái ao tù “trung bình chủ nghĩa” không tạo điều
kiện cho những sáng tạo cá nhân bứt phá.

15


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

Sau thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp của nhà nước bị xóa bỏ thì văn hóa
làng xã và chủ nghĩa tập thể có những thay đổi tích cực.
Văn hóa làng – xã là một trong những tiêu chí hàng đầu để xác định và phân
biệt diện mạo của làng này với làng khác. Người sáng tạo ra những giá trị văn hóa
của làng xã chính là những thành viên của làng. Họ chính là những người vừa tham

gia sáng tạo, vừa tổ chức thực hiện và cũng đồng thời là người chiêm ngưỡng,
hưởng thụ những giá trị văn hóa do chính bản thân mình gây dựng nên. Chính vì
vậy, tính nhân dân của văn hóa làng càng được tô đậm ở tính chất cộng đồng, tính
tập thể của nó. Làng – xã là chủ thể của văn hóa và thông qua văn hóa làng chúng
ta có thể khám phá ra diện mạo văn hóa chung của cả làng. Đây cũng chính là điều
khá lý thú để phân biệt làng này với làng khác nhằm khẳng định “cái ta” của làng
mình.
Trong tính cộng đồng của làng xã hiện nay, người làng thường rất coi trọng
học vấn, dạy bảo con cháu trong làng cách làm người, biết ăn ở có tình có nghĩa in
đậm tính nhân bản trong văn hóa làng xã. Giáo dục truyền thống cho con cháu
chính là một yếu tố quan trọng để tính cộng đồng có thể phát huy được những đặc
điểm tích cực của nó.
Bên cạnh đó, trước đây kinh tế nông nghiệp là chủ yếu cần phải có nhiều lao
động và gia tộc nào có nhiều con cháu thì sẽ có lợi. Tuy nhiên, khi xã hội chuyển
sang kinh tế thị trường, vai trò của gia tộc dần bị phá vỡ thay vào đó là vai trò quan
trọng của gia đình hạt nhân và kinh tế của gia đình hạt nhân. Tính cộng đồng bị
mất dần về vai trò kinh tế, những hợp tác xã nông nghiệp dần chuyển thành kinh tế
hộ gia đình và trang trại theo hướng hiện đại.
Quan hệ dòng tộc trong làng xã là quan hệ theo hàng dọc với tính tôn tị trật
tự nghiêm ngặt, khép kín cho đến nay vẫn có tác động vô cùng quan trọng đến cách
16


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

ứng xử của con người trong cồng đồng làng xã. Nhà thờ họ, giỗ họ là những nơi,
những lúc các thành viên trong gia tộc có dịp suy ngẫm sâu sắc về bản thân mình,
tưởng nhớ đến công ơn, lời dạy của các bậc tiên tổ để giữ gìn, kế tục và phát triển

gia phong.
Khi xét về điều kiện tự nhiên (nhiệt, ẩm, gió mùa, sông nước, nông nghiệp
trồng lúa nước...) đã tác động không nhỏ đến đời sống văn hóa vật chất và tinh thần
của dân tộc, đến tính cách, tâm lý con người Việt Nam. Xã hội nông nghiệp có đặc
trưng là tính cộng đồng làng xã với nhiều tàn dư nguyên thuỷ kéo dài đã tạo ra tính
cách đặc thù của con người Việt Nam. Đó là một lối tư duy lưỡng hợp, một cách tư
duy cụ thể, thiên về kinh nghiệm cảm tính hơn là duy lý, ưa hình tượng hơn khái
niệm, nhưng uyển chuyển linh hoạt, dễ dung hợp, dễ thích nghi.
Như vậy, tính cộng đồng làng xã hiện nay đã có những sự biến đổi tích cực
phù hợp với xã hội hiện đại, song nó vẫn đóng một vai trò quan trọng trong văn
hóa làng xã, kinh tế ở làng, giáo dục truyền thống cho thế hệ sau và tô đậm đặc
điểm của văn hóa làng xã Việt Nam.
2.
Tính bảo thủ và sự biến đổi của nó trong bối cảnh hiện nay
2.1 Tính bảo thủ làng xã
Tính bảo thủ là duy trì cái cũ, không chịu thay đổi, chống lại những đổi mới.
Tư tưởng bảo thủ được ví như sợi dây buộc chặt, kìm hãm sự phát triển, nhất là
trong làng xã người Việt xưa. Trong một cộng đồng, nếu như cá nhân đứng đầu là
người bảo thủ, không chịu thay đổi, đó chính là gắng nặng kìm hãm sự phát triển,
ngăn họ tiếp cận đổi mới, vì thế bảo thủ là tư tưởng tiêu cực để một làng hoặc xã
hội phát triển về kinh tế văn hóa, hơn ai hết người đứng đầu cần có tư duy mở rộng
thay vì bảo thủ, không chịu thay đổi.
Theo TS Cao Thị Sính, vì được củng cố bởi những điều kiện kinh tế và xã
hội ngưng đọng hàng nghìn năm nên tâm lý tiểu nông có tính bảo thủ và sức ỳ rất
lớn. Thể hiện trước hết ở đặc điểm người Việt ít có sự khẳng định về cái tôi cá
17


Gia đình – dòng họ - làng xã


Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

nhân, về nhân cách độc lập của mình. Người Việt ít khi xưng “tôi” mà luôn hòa tan
mình vào các mối quan hệ cộng đồng, thường xác định vị thế và trách nhiệm của
mình trong quan hệ cộng đồng để có xưng hô tương ứng: Là anh, là em, là con, là
cháu, ... Cái cá nhân gần như bị hòa tan, gần như bị che lấp bởi con người cộng
đồng. Đặc điểm văn hóa này có ở mỗi người dân, bám vào họ một cách bền chặt và
dai dẳng trở thành một đặc điểm tâm lý Việt bền vững.
Xuất phát điểm của làng – xã Việt Nam truyền thống về cơ bản là làng – xã
nông nghiệp. Nền kinh tế làng – xã mang tính tự cung, tự cấp. Mọi sinh hoạt đều bị
bó hẹp bên trong lũy tre làng, ít có điều kiện giao lưu với bên ngoài, khép kín với
thói quen sản xuất nhỏ, manh mún, phân tán. Phương thức sản xuất này cùng với
tính khép kín trong quan hệ dòng họ, thôn xóm dẫn đến tư duy của người tiểu nông
không có tầm nhìn xa, không có tính chiến lược, bảo thủ trong sự tiếp nhận cái
mới. Cách tư duy ấy, cách nhìn ấy, cùng với sự rụt rè thiếu tự chủ của con người cá
nhân trong cộng đồng là điều kiện để nảy sinh tâm lý bám làng; dù đói, dù no cũng
bám lấy làng mình, ở lại làng mình: “Ta về ta tắm ao ta...”. Người nông dân thích
sự ổn định, an phận, ngại đi xa để làm ăn mở mang tầm nhìn, họ chỉ muốn “an cư
lạc nghiệp” nên nảy ra tâm lý cầu an. Người tiểu nông Việt Nam vốn ưa cái thanh
bình, tĩnh lặng, nhẹ nhàng, ngại sự thay đổi. Vì vậy, không nên đánh giá quá cao
những yếu tố tương tự dân chủ của làng xã, vì cùng với thời gian, chúng đã chuyển
hóa thành mặt đối lập.
2.2 Sự biến đổi của tính bảo thủ
Nền kinh tế tiểu nông đã tồn tại hàng ngàn năm ở Việt Nam cùng với chế độ
phong kiến, chế độ thuộc địa nửa phong kiến và văn hóa làng xã đã góp phần tạo
nên đặc điểm tâm lý đa dạng, phong phú và phức tạp của người nông dân.
Nền kinh tế thị trường là cuộc cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để về mọi
mặt, nhất là trong đời sống tâm lý của người nông dân. Dưới góc độ tâm lý, đó
cũng là quá trình chuyển từ “tâm lý tiểu nông” lên “tâm lý công nghiệp”. Đó là
cuộc cải biến mang tính khoa học và cách mạng trong đời sống tâm lý của người

18


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

nông dân. Nhưng yếu tố tác động đến tâm lý nông dân chịu ảnh hưởng của chế độ
phong kiến đặc biệt là tư tưởng nho giáo.
Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với cơ chế hành chính bao cấp, dựa trên
hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể đã làm nảy sinh và phát triển tinh thần tập
thể, ý thức trách nhiệm, tính tổ chức kỷ luật của người nông dân, nhưng cũng chính
nó đã tạo điều kiện phát triển tâm lý: “bình quân”, “cá mè một lứa”, thụ động, dựa
dẫm, ỷ lại vào cấp trên.
Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường ở nông thôn thì ruộng đất manh
mún, môi trường sinh thái ngày càng suy giảm, giá nông sản không ổn định, thu
nhập và đời sống nông dân thấp và tăng rất chậm so với thành thị, tình trạng thiếu
đất, thiếu việc làm ngày càng nhiều... Chính hiện tượng này đã và đang là “áp lực”,
thách thức lớn “đè nặng” lên tâm lý người dân ở nông dân.
Trong điều kiện tác động mạnh của các quy luật kinh tế thị trường thì một bộ
phận dân cư trong đó có nông dân có tâm lý “sùng ngoại”, có lối sống thực dụng,
coi nhẹ các giá trị văn hóa truyền thống.
Đặc điểm tâm lý người nông dân là yêu quê hương đất nước, gắn bó với lũy
tre làng, trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, người nông dân vừa phải
cày cấy, vừa phải chống chọi với thiên nhiên và chống giặc ngoại xuân dù hoàn
cảnh nào họ vẫn bám trụ quê cha đất tổ đoàn kết gắn bó cộng đồng, yêu thương
đùm bọc lẫn nhau, tình nghĩa thủy chung đã trở thành lẽ sống của người nông dân.
Tác phong, lối sống công nghiệp, hiện đại đang trở thành lối sống phổ biến
trong lớp thanh niên nông dân được tiếp xúc với xã hội bên ngoài, được học tập có
hệ thống niềm tin vào lý tưởng, bộ mặt của làng xã Việt Nam đã những chuyển đổi

tích cực.
Tuy nhiên hoàn cảnh xã hội thay đổi đã làm nảy sinh và nuôi dưỡng tư duy
manh mún, tản mạn (thiếu khả năng khái quát tổng hợp) của người nông dân.
Chính vì vậy mà họ chỉ thấy lợi trước mắt, không thấy lợi lâu dài, chỉ thấy lợi ích
cá nhân, không thấy lợi ích tập thể... Thói “lười biếng” suy nghĩ và tính toán, tính ỷ

19


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

lại và bảo thủ, sự sùng bái kinh nghiệm và “coi thường” lớp trẻ là sản phẩm lâu dài
của nền kinh tế tiểu nông mà dù muốn hay không người nông dân vẫn tiêm nhiễm.
Trong nền kinh tế tiểu nông, “Lão nông tri điền”, “sống lâu lên lão làng”,
“đất lề quê thói”, “phép vua thua lệ làng” đã trở thành thói quen ứng xử phổ biến.
Hơn nữa, sống trong chế độ phong kiến dưới sự thống trị của chế độ đẳng cấp, tôn
ti, trật tự Nho giáo, người nông dân coi lớp trẻ như là loại “trứng khôn hơn vịt”,
“khôn ba năm dại một giờ thiếu ý thức kỷ luật lao động và “thừa” tính đố kỵ, ganh
ghét, cục bộ, bản vị địa phương cũng là một đặc điểm tâm lý nổi bật của nông dân.
Người nông dân (tư hữu nhỏ) sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên “nắng mưa bất
thường” và “tùy hứng” cá nhân đã trở thành thói quen phổ biến ở làng xã Việt
Nam.

3.

Tính tự quản, tự trị và sự biến đổi của nó trong bối cảnh

hiện nay

3.1 Tính tự quản, tự trị
Mỗi làng từ khi mới thành lập đều có một sự độc lập nhất định hay còn gọi
là tính tự trị. Tính tự trị được vận hành thông qua kết cấu quản trị của làng xã và
được thực hiện trên cơ sở tất cả mọi người đều tự nguyện hành động theo hương
ước. Dưới tác động của nền kinh tế thị trường và quá trình công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước, tính tự quản, tự trị đã có sự biến đổi.
Chế độ quân điền thực hiện, ruộng đất của làng nào thì làng ấy sử dụng, nhà
nước không trực tiếp phân chia, làng tự phân chia lấy đã làm cho tính tự trị tương
đối của làng xã tiếp tục tồn tại.
Văn hóa làng – xã mang tính tự quản, làng nào biết làng đấy, các làng tồn tại
khá biệt lập với nhau và có phần nào biệt lập với triều đình phong kiến. Mỗi làng là
một “vương quốc” nhỏ khép kín với luật pháp riêng (mà các làng gọi là hương
ước) và tiểu triều đình riêng (trong đó nội đồng kì mục là cơ quan lập pháp, lí lịch
là cơ quan hành pháp, nhiều làng tôn xưng bốn cụ cao tuổi nhất làng là tứ trụ).
20


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

Tính tự quản và các quan hệ cộng đồng trong văn hóa làng – xã khiến cho
con người chỉ tồn tại hợp pháp với tư cách là thành viên chính thức, vì lý do nào đó
mà có người không đủ tư cách chính thức như dân ngoại tịch ngụ cư hoặc bị xoá
tên trong sổ làng thì không được lệ làng đảm bảo, bị sống ngoài lệ làng.
3.2 Biểu hiện và sự biến đổi của tính tự quản, tự trị làng xã
Lũy tre làng:
Lũy tre làng từ xưa vẫn được xem như một biểu tượng bất di bất dịch của
làng xã. Sau lũy tre làng chính là một cồng đồng làng xã với những thiết chế chặt
chẽ, khép kín riêng nó giống như một bức tường ngăn cách làng xã với thế giới bên

ngoài.
Ngày nay, làng xã không còn được bao bọc khép kín trong lũy tre mà làng là
một đơn vị dân cư mở, mỗi xã là một đơn vị hành chính cấp nhỏ nhất trong hệ
thống hành chính bốn cấp của Nhà nước. Lũy tre làng không còn là “bức tường” để
ngăn các giữa làng này với làng khác. Và vì thế, nó không còn xuất hiện nhiều ở
các làng quê Việt Nam mà thay vào đó là những công trình hiện đại khác.
Cổng làng:
Trải qua thời gian, dưới tác động của đô thị hóa, cổng làng mang nét truyền
thống, văn hóa miền quê đã và đang dần biến mất và thay vào đó là những cổng
làng hoành tráng với kinh phí xây dựng rất lớn thể hiện sự phô trương, lãng phí,…
Nhiều địa phương ở nước ta đã có những cuộc “chạy đua” làm cổng làng quy mô
với kinh phí hàng trăm, hàng triệu, thậm chí là hàng tỉ đồng khiến nhiều người
không khỏi băn khoăn, suy ngẫm.
Cổng làng cũng không còn được xây dựng để kiểm tra, kiểm soát người ra
vào làng và được đóng lại vào ban đêm như trước kia mà nay nó là một chiếc cổng
mở để mọi người có thể tự do đi lại.
Hương ước:
Hương ước là lệ làng được văn bản hóa, quy định chặt chẽ về cơ cấu tổ
chức; yêu cầu công khai, minh bạch về bầu bán, bãi miễn các chức vị trong làng;
phân bổ thuế, phân chia ruộng đất công; về tuần phòng; về lễ nghi, tín ngưỡng; về
lệ hôn thú, tang ma; về tương trợ, cứu tế; về khai sinh, khai tử, học hành và xử phạt
21


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

vi phạm… Có thể nói mọi quan hệ trong làng xã đều được quy định trong hương
ước. Hương ước do chính dân làng soạn thảo, nên rất phù hợp với điều kiện kinh

tế, xã hội của địa phương; hằng năm hương ước đều được tuyên đọc một lần tại
đình làng, để ai cũng nhớ, cũng thuộc và những điều khoản không còn phù hợp
cũng thường được sửa đổi.
Làng xã truyền thống nói chung là đóng, là của nông dân, nhưng lại bị quan
viên chức sắc và bọn cường hào địa chủ thao túng. Làng xã ngày nay là mở, là của
nông dân, công nhân, cán bộ và các thành phần xã hội khác, bình đẳng dưới sự
lãnh đạo của Đảng và quản lý của chính quyền nhân dân. Chính vì sự thay đổi ấy
nên hương ước cũng phải đổi mới. Hương ước của làng xã hiện đại cũng phải kế
thừa quy tắc: phù hợp với pháp luật, vận hành theo pháp luật Nhà nước, nhưng lại
có những biện pháp hữu hiệu, cụ thể phù hợp với từng địa phương, phát huy được
tính tự quản, bình đẳng, dân chủ của nhân dân.
Một điều không thể phủ nhận là ở nông thôn nước ta hiện nay, trình độ văn
hóa và luật pháp của đại đa số nông dân vẫn còn thấp, nông dân ít quan tâm đến
pháp luật và chưa có lối sống theo pháp luật. Người nông dân thật ra vẫn chưa mất
đi thói quen sống với tập quán, với lệ làng, nên hiệu lực thực tế của pháp luật Nhà
nước ở vùng nông thôn không cao. Như thế, nếu chúng ta khéo đưa luật nước vào
lệ làng thì sẽ làm tăng hiệu quả thực thi của pháp luật ở mỗi địa phương. Vậy nên,
hương ước vẫn có vai trò, thậm chí vẫn còn giữ vị trí quan trọng trong việc điều
chỉnh các quan hệ xã hội ở nông thôn.
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 22/2018/QĐ – TTg về xây dựng
thực hiện hương ước, quy ước ngày 09/05/2018. Theo đó:
Điều 3 quy định mục đích xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước như
sau:


Phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của

Nhà nước; đạo đức xã hội, phong tục tập quán tốt đẹp của cộng đồng dân cư.

22



Gia đình – dòng họ - làng xã



Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

Bảo đảm tự nguuyện, trên cơ sở thỏa thuận, thống nhất của cộng đồng

dân cư; phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân; dựa trên nhu cầu tự quản của
cộng đồng dân cư.

Bảo vệ, giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; xây dựng
các giá trị văn hóa mới phù hợp với đặc điểm tình hình của cộng đồng dân cư.

Không vi phạm quyền con người, quyền công dân, bảo đảm bình đẳng
giới.

Không đặt ra các khoản phí, lệ phí, phạt tiền, phạt vật chất.
Điều 5 quy định hình thức của hương ước, quy ước:

Hương ước, quy ước được thể hiện dưới hình thức văn bản, có chữ ký
xác nhận của Trưởng ban công tác Mặt trận, Trưởng thôn hoặc Tổ trưởng tổ dân
phố. Hương ước, quy ước sau khi được công nhận có đóng dấu giáp lai của Ủy ban
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương.
Như vậy, hương ước với tư cách là một công cụ quản lý của cộng đồng dân
cư đã phát huy được vai trò quyền lực của Nhà nước.
Thế nhưng, một thực tế hiện nay là các hương ước không còn thể hiện đặc

trưng, “tính cách” của làng như trước kia mà nó khá giống nhau, thậm chí chỉ thay
đổi tên làng.
Đình làng và tín ngưỡng thờ thành hoàng làng:
Đình làng cũng như tục thờ Thành hoàng làng là đặc trưng của làng quê Việt
Nam. Việc thờ Thành hoàng làng ở đình làng là tín ngưỡng tâm linh độc đáo của
người Việt. Tuy nhiên, hoạt động tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng từng bị gián
đoạn do chiến tranh kéo dài. Một số di tích đình làng có giá trị kiến trúc nghệ thuật
cũng bị xuống cấp và phá hủy.
Trong thời gian gần đây, hàng loạt ngôi đình đã được xây dựng lại, được
Nhà nước công nhận và xếp hạng. Các lễ hội được tổ chức lại cùng với đó là sự
giao lưu văn hóa, văn nghệ giữa các làng này với làng khác, xã này với xã khác.
Tín ngưỡng thờ thành hoàng làng không còn bị bó hẹp ở phạm vi “thánh làng nào
làng ấy thờ” mà mở rộng ra cho cả những người dân ngoài làng được tham gia.
23


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

Thế nhưng, chính vì thế mà hiện nay nảy sinh một số vấn đề phức tạp như “buôn
thần bán thánh”, thương mại hóa văn hóa, xây dựng các công trình nhằm trục lợi,
lôi kéo khách du lịch. Một số nơi còn tái tạo sự tích Thần thành hoàng làng sai lệch
“râu ông nọ cắm cằm bà kia” gây ảnh hưởng đến truyền thống và bản sắc văn hóa
dân tộc.
Việc tổ chức lễ hội ngày nay ở làng xã cũng bị biến đổi khá rõ. Cộng đồng
làng ủy thác cho ban tổ chứ gồm các thành viên có uy tín và tâm huyết với cộng
đồng thực hiện chứ không chọn các vị trưởng thượng, cao niên, người có vai vế
(tiên chỉ, chức sắc, …) khắt khe như xưa. Việc thực hành nghi lễ cũng có những
thay đổi cho phù hợp với cuộc sống đương đại như bớt các nghi lễ rườm rà, đưa

các trò chơi, các hoạt động hội hè, các môn thể thao mới (bóng đá mini, bóng
chuyền, …) vào hội cho mới mẻ.
Tác động của sự biến đổi tính tự trị, tự quản:
Thứ nhất, làng xã mở, không còn đóng kín như trước trong bối cảnh của nền
kinh tế thị trường giúp cho các làng xã có cơ hội đón nhận những cơ hội để phát
triển, phát triển đa dạng ngành nghề. Thực tế hiện nay ở nhiều địa phương, các
công ty nước ngoài mọc lên ngày càng nhiều, giải quyết được vấn đề việc làm cho
người dân làng xã.
Thứ hai, giao lưu văn hóa, trao đổi thông tin giữa làng với bên ngoài được
mở rộng không làm mất đi bản sắc văn hóa làng xã, mà ngược lại càng làm cho
bản sắc đó được khẳng định và phát triển. Bởi vì, khi tham gia vào quá trình giao
lưu văn hóa, trao đổi thông tin, những người dân làng sẽ thấy rõ hơn các giá trị văn
hóa làng mình bên cạnh các giá trị văn hóa các làng khác. Đó chính là điều kiện để
tạo ra sự đa dạng, phong phú của bản sắc văn hóa làng xã trong môi trường xã hội
hiện nay.
Thứ ba, sự biến đổi về hương ước giúp giảm đi được những hủ tục lạc hậu ở
các làng xã hiện nay.
Tuy nhiên, tính chất mở của làng xã sẽ giúp những cộng đồng này dễ tiếp
thu cái mới, phát triển nhanh hơn nhưng tính chất khép kín sẽ khó có thể chọn lọc
24


Gia đình – dòng họ - làng xã

Sự biến đổi của làng xã Việt Nam

được những ảnh hưởng tốt xấu. Các làng xã cần một sự thay đổi, cần một diện mạo
mới nhưng cũng cần giữ lại những nét văn hóa đặc sắc, tốt đẹp. Quá trình mở
“cổng làng”, có sự xâm nhập của nền văn hóa ngoại lai làm cho văn hóa truyền
thống có thể bị mai một. Điều này, đặt ra thách thức giữa vấn đề bảo tồn và phát

triển các giá trị văn hóa làng xã truyền thống của người Việt trong bối cảnh đương
đại.
4.

Chủ nghĩa cục bộ địa phương và sự biến đổi của nó trong

bối cảnh đương đại
4.1 Chủ nghĩa cục bộ địa phương ở làng xã
Ở nước ta, để chống lại thiên nhiên, thú dữ, ý thức cộng đồng làng – xã đã
hình thành rất sớm. Con người sống trong làng xã phải cố kết với nhau tạo thành
sức mạnh tập thể, lâu dần trở thành truyền thống văn hóa, sức sống của người Việt.
Vì thế, ngoài tình cảm gia đình, người Việt còn mang nặng tình cảm dòng
họ, quê hương, họ đặt “tình” lên trên nguyên tắc, chế độ, chính sách lấy đó làm
phương châm ứng xử hàng đầu “Nhất thân, nhì quen”, “giọt máu đào hơn ao nước
lã”. Điều đó trở thành bệnh cục bộ địa phương, đem lại nhiều tác động xấu đến sự
phát triển và hội nhập hiện nay.
Người Việt đã đi làm ăn, sinh sống khắp năm châu, bốn biển, người nước
ngoài đã và sẽ đến Việt Nam làm ăn ngày càng đông. Chúng ta đã hội nhập với thế
giới. Thế mà một số người vẫn mang tư tưởng địa phương, cục bộ rất tác hại cho
sự phát triển. “Giọt máu đào hơn ao nước lã”, câu thành ngữ này cần phải được
hiểu theo tư duy mới. Không phải lúc nào “máu đào” cũng quý hơn “nước lã”; nếu
biết sử dụng thì cả hai thứ đều quý như nhau; chẳng hạn để chữa đám cháy hoặc
khi trên sa mạc, ta cần nước hơn cần máu. Nếu không vượt qua được tư tưởng cục
bộ thì đất nước chưa thể phát triển, hội nhập thực sự.
Như vậy, chính đặc trưng này đã làm cho sự tiếp nhận các quy định chung
của nhà nước trở nên bê trễ, hoặc chỉ mang tính hình thức, hoặc bị áp dụng và giải
thích sai lệch về nội dung, bị “uốn nắn” theo quan điểm địa phương chủ nghĩa:
25



×