Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Luận văn thạc sỹ - Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty CPTM Dịch vụ và Đầu tư Gia Linh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.69 KB, 125 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI

------------

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CÔNG TY CỔ
PHẦN THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ VÀ ĐẦU TƯ GIA LINH
CHUYÊN NGÀNH: KẾ TOÁN
MÃ SỐ: 60.34.03.01

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS ĐOÀN VÂN ANH

HÀ NỘI - 2015


MỤC LỤC
1.3.8. Phương pháp đánh giá sản phẩm làm dở trong xây dựng.......................................43

PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3


4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15

Kí hiệu
BHTN
BHXH
BHYT
CT
HMCT
CPSX
CP NVLTT
CP NCTT
CP SXC
KPCĐ
NC
NVL
SXC
TK
TSCĐ


Tên
Bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm y tế
Công trình
Hạng mục công trình
Chi phí sản xuất
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí sản xuất chung
Kinh phí công đoàn
Nhân công
Nguyên vật liệu
Sản xuất chung
Tài khoản
Tài sản cố định


DANH MỤC SƠ ĐỒ, PHỤ LỤC
SƠ ĐỒ:
1.3.2.1.1 Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất..............................................................25
1.3.8. Phương pháp đánh giá sản phẩm làm dở trong xây dựng.......................................43
1.3.9.1. Đối tượng tính giá thành và kỳ tính giá thành.................................................45
Kỳ tính giá thành...........................................................................................................46
1.3.9.2. Các phương pháp tính giá thành sản phẩm xây dựng...................................47
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty........................................................50
2.1.2. Đặc điểm tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công ty..............................54
(Nguồn: Báo cáo tài chính Công ty CPTM DV&ĐT Gia Linh).........................................56
2.1.3.Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của Công ty......................................................56
(Nguồn: Báo cáo tài chính Công ty CPTM DV&ĐT Gia Linh).........................................56

2.1.4. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán của Công ty.....................................................56
(Nguồn: Báo cáo tài chính Công ty CPTM DV&ĐT Gia Linh).........................................57
Đoàn kiểm kê có nhiệm vụ trực tiếp đánh giá khối lượng xây lắp dở dang của từng
công trình, hạng mục công trình. Giá trị sản phẩm xây lắp dở dang được xác định
theo công thức:.............................................................................................................77

a/ Kế toán thiệt hại sản phẩm hỏng..........................................................................93


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Xây lắp là ngành sản xuất đặc biệt có vai trò quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân. Bằng cách tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành sản xuất và
góp phần tạo cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế quốc dân. Với chính sách mở cửa
của nền kinh tế, hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới, hoạt động
xây dựng cơ bản đã không ngừng phát triển và giữ vai trò quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân.
Các doanh nghiệp xây lắp ngày càng mở rộng phát triển cả chiều sâu và
chiều rộng, làm cho quy mô của ngành càng lớn mạnh. Để đáp ứng nhu cầu
phát triển của xã hội ngày một tăng cũng như để đáp ứng sự phát triển trong
sản xuất xây lắp, một trong những biện pháp được cấp Nhà nước đặc biệt
quan tâm hiện nay là công tác kế toán nói chung cũng như kế toán tập hợp chi
phí sản xuất và tính giá thành nói riêng. Trong điều kiện hiện nay, việc sử
dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn lực cùng với việc hạ thấp giá thành sản
phẩm là mục tiêu sống còn của các Doanh nghiệp. Việc hạch toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm trở thành khâu quan trọng trong quá trình tổ
chức hạch toán kế toán của Doanh nghiệp xây lắp vì nó mở ra hướng đi đúng

đắn cho các Doanh nghiệp. Thực chất chi phí sản xuất là đầu vào của quá
trình sản xuất, do vậy tiết kiệm chi phí sản xuất là hạ giá thành sản phẩm,
đồng thời đảm bảo đầu ra của quá trình sản xuất sao cho nó được chấp nhận
và làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp mình.
Trước yêu cầu và thách thức của nền kinh tế thị trường, hạch toán chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các Doanh nghiệp xây lắp đã
biểu hiện những hạn chế, quá trình hạch toán còn nhiều bất cập, chưa đi đến
thống nhất. Do vậy các Doanh nghiệp xây lắp cần hạch toán chi phí sản xuất

1


và tính giá thành sản phẩm xây lắp để mang lại hiệu quả, lợi ích cho chính
Doanh nghiệp và toàn xã hội vì trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước hiện nay thì bên cạnh những mặt thuận lợi cũng gặp
không ít những khó khăn, thách thức đối với các doanh nghiệp xây lắp. Vì
vậy muốn đảm bảo ưu thế cạnh tranh, thu lợi nhuận cao thì bên cạnh việc sản
xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, hợp thị hiếu người tiêu dùng,
một trong những yếu tố quan trọng khác là sản phẩm đó phải có giá thành hạ
phù hợp với đa số sức mua của nhân dân. Muốn vậy thì các doanh nghiệp xây
lắp cần phải quản lý tốt chi phí sản xuất.
Xuất phát từ những bất cập trên, qua quá trình khảo sát thực tế em xin
chọn đề tài:” Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm xây lắp tại Công ty CPTM Dịch vụ và Đầu Tư Gia Linh ” cho luận
văn thạc sỹ của mình.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu về kế toán chi phí sản xuất và tính giá

thành sản phẩm xây lắp trong các doanh nghiệp xây lắp
Tùy theo phương pháp tiếp cận, các nhà khoa học có những quan điểm
khác nhau kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Các quan điểm

này được các nhà khoa học nghiên cứu và trình bày trong các đề tài nghiên cứu
khoa học, luận văn thạc sỹ và các luận án tiến sĩ dưới các góc độ khác nhau.
Qua quá trình tìm hiểu các công trình đã nghiên cứu tác giả nhận thấy có nhiều
công trình nghiên cứu về ngành xây dựng cơ bản và rất nhiều công trình nghiên
cứu về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất sản phẩm tuy nhiên
lại rất ít công trình nghiên cứu về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
xuất sản phẩm xây lắp.
Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu có liên quan đến đề
tài như :
- Luận văn thạc sỹ Nguyễn Văn Thanh: Hoàn thiện công tác kế toán chi phí
và tính giá thành các dự án xây dựng nhà ở, đô thị tại Tổng công ty đầu tư phát triển
nhà Hà Nội (năm 2012).

2


- Luận văn thạc sỹ Hà Thị Phương Dung: Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm xây lắp với việc tăng cường quản trị chi phí tại Tổng
Công ty Sông Đà (năm 2011).
- Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Thái Hà: Hoàn thiện công tác hạch toán chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nhằm tăng cường quản trị chi phí trong các
doanh nghiệp xây lắp (năm 2012).
- Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Dung: Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm xây lắp tài Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt
Nam (năm 2013).
 Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Thanh (năm 2012) chỉ ra rằng: Công
tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành các dự án xây dựng nhà ở, đô thị tại
Tổng công ty phát triển nhà Hà Nội có nhiều điểm đặc trưng nhất định cho ngành
nghề kinh doanh của mình. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc vận dụng phương pháp
tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các Công ty thành viên về

cơ bản đã phù hợp với đặc điểm cụ thể của Tổng công ty. Thực tế kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành các dự án xây dựng nhà ở, đô thị tại Tổng công ty phát
triển nhà Hà Nội như sau: Ở cấp Công ty, chi phí sản xuất được tập hợp theo khu
vực thi công hoặc theo bộ phận thi công. Cách tập hợp này thường được áp dụng
đối với những doanh nghiệp hạch toán nội bộ một cách rộng rãi. Còn ở cấp xí
nghiệp, chi phí sản xuất được tập hợp theo từng công trình, hạng mục công trình
của dự án theo từng tổ, đội thi công. Nghĩa là hàng tháng, các chi phí sản xuất phát
sinh có liên quan đến dự án, công tình xây dựng nào sẽ được tập hợp và phân loại
chi phí vào các dự án, công trình, hạng mục công trình xây dựng đó.
Đối với chi phí trực tiếp như: Chi phí nguyên vật trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, kế toán các đơn vị áp dụng phương pháp
ghi trực tiếp cho đối tượng tập hợp chi phí. Đối với chi phí máy thi công dùng
cho nhiều công trình và chi phí sản xuất chung tập hợp ở Công ty, kế toán dung
những tiêu thức phân bổ gián tiếp cho các đối tượng tập hợp chi phí (các công
trình Công ty trực tiếp tổ chức thi công, các xí nghiệp, tổ đội trực thuộc) theo
một tiêu thức thích hợp.

3


Đối tượng tính giá thành được Công ty xác định căn cứ trên cơ sở đặc điểm về
loại hình sản phẩm, đặc điểm tổ chức sản xuất, chu kỳ sản xuất… Do đó đối tượng
tính giá thành nhà ở, đô thị là các công trình, hạng mục công tình xây lắp hoàn
thành bàn giao và trên cơ sở giá thành tổng hợp các hạng mục, kế toán tính giá
thành sản phẩm chi tiết.
Nhìn chung, luận văn đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận chung của công tác
kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành các dự án xây dựng nhà ở, đô thị, đồng
thời khái quát được thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành các dự án
xây dựng nhà ở, đô thị tại Tổng công ty đầu tư phát triển nhà Hà nội, chỉ ra những
ưu, nhược điểm còn tồn tại. Một trong những hạn chế mà nghiên cứu đã chỉ ra đó là

công tác tập hợp, ghi chép, phân bổ ở mỗi đơn vị thành viên còn tồn tại nhiều sai
phạm khác nhau. Ví dụ như việc khoản mục chi phí nhân công ghi Nợ TK 622/Có
TK 111 (không tính lương và hạch toán lương qua TK 334) ở một số đơn vị thành
viên vi phạm nghiêm trọng chế độ kế toán ban hành, hệ thống định mức giá hành
xây dựng chưa đầy đủ… Cũng xuất phát từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn tác giả
đã đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành các dự án xây dựng nhà ở, đô thị.
 Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Dung (năm 2013): Trong nghiên cứu
của mình, tác giả chỉ ra rằng: Đối tượng tập hợp chi phí của các Công ty trong Tổng
công ty là từng công trình, hạng mục công trình hay theo từng đơn đặt hàng riêng
biệt. Đối tượng tập hợp chi phí của Tổng công ty cũng chính là đối tượng tính giá
thành, điều này theo tác giả, sẽ giúp cho công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính
giá thành từng đối tượng cụ thể, đơn giản hơn. Cũng theo nghiên cứu, Công ty quản
lý nguyên vật liệu bằng cách ủy quyền cho các đội mua vật tư nên giảm được chi
phí thu mua khi công trình ở xa trung tâm điều hành. Đồng thời căn cứ vào dự toán
và tiến độ thi công, chủ nhiệm công trình sẽ chủ động mua vật tư. Đối với việc hạch
toán chi phí nhân công, tại các công trình, Công ty giao khoán cho các tổ sản xuất
thông qua hợp đồng giao khoán, cách làm này sẽ giúp công ty quản lý chặt chẽ hơn
đối với người lao động. Còn chi phí sử dụng máy thi công thì được theo dõi chi tiết

4


đối với từng đối tượng, chi phí liên quan đến nhiều đối tượng được kế toán tập hợp
sau đó phân bổ đến từng đối tượng liên quan theo số ca máy thực hiện. Chi phí sản
xuất chung ở công trình nào thi Công ty tính vào công trình đó, những chi phí
không thể tính trực tiếp vào một công trình cụ thể được tập hợp và phân bổ theo chi
phí nhân công trực tiếp.
Bên cạnh những ưu điểm trong công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây lắp tại Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam, luận

văn cũng chỉ ra những hạn chế trong việc phân loại chi phí. Các công ty mới chỉ
phân loại chi phí theo công dụng kết cấu mà chưa quan tâm đúng mức đến việc
phân loại theo các tiêu thức khác, đặc biệt là theo cách ứng xử của chi phí, nhằm
phục vụ cho nhu cầu ra quyết định của các nhà quản lý.
 Nghiên cứu của tác giả Hà Thị Phương Dung (năm 2011) đã trình bày khá
đầy đủ và chi tiết cơ sở lý luận của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm xây lắp. Luận văn cũng đã nêu ra được đặc điểm của sản phẩm xây lắp mang
tính riêng lẻ, có giá trị lớn, mỗi sản phẩm xây lắp có những kết cấu mỹ thuật, vật tư,
địa điểm xây dựng và phương pháp thi công khác nhau. Từ đó tác giả rút ra những
ảnh hưởng của ngành xây dựng cơ bản đến kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm. Điểm nổi bật của nghiên cứu này là tác giả đã nghiên cứu kế toán
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Tổng công ty Sông Đà dưới
các góc độ khác nhau là kế toán tài chính và kế toán quản trị, trong đó chú trọng vào
nghiên cứu dưới góc độ kế toán quản trị. Tác giả đã xây dựng được mô hình phân
loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí, xây dựng hệ thống báo cáo kế toán chi tiết
và đầy đủ nhằm phục vụ nhu cầu của các nhà quản trị doanh nghiệp tại Tổng công
ty Sông Đà.
 Nghiên cứu tác giả Nguyễn Thị Thái Hà (năm 2012): Cũng như nghiên cứu
của tác giả Hà Thị Phương Dung, tác giả Nguyễn Thị Thái Hà cũng đi sâu vào nghiên
cứu kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp dưới góc độ kế toán
quản trị và đã đưa ra được những giải pháp ý nghĩa và cần thiết để hoàn thiện kế toán
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.

5


Bên cạnh, các đề tài khoa học, luận văn thạc sỹ thì cũng có khá nhiều luận án
tiến sỹ nghiên cứu về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm dưới các
góc độ khác nhau như: “Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành điện
truyền tải ở doanh nghiệp nhà nước” của tác giả Nguyễn Thị Lời (năm 2008),

“Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc hoàn thiện hệ thống
chỉ tiêu quản trị doanh nghiệp” của tác giả Trần Quý Liên (năm 2010), hay “Hạch
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị
trong doanh nghiệp vận tải hàng không” (năm 2010) của tác giả Đinh Phúc Tiến.
Như vậy, có thể thấy mặc dù có đã có khá nhiều nghiên cứu về kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm nhưng các đề tài đều phổ biến nghiên cứu dưới
góc độ kế toán quản trị. Trong khi đó, một số ít các đề tài nghiên cứu về kế toán chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm dưới góc độ kế toán tài chính đa phần lại sử
dụng những phương pháp nghiên cứu cũ như: Phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp duy vật lịch sử… đã không còn phù hợp trong điều kiện hiện nay.
Thêm vào đó, các doanh nghiệp xây lắp và xây dựng cơ bản cũng đóng vai trò quan
trọng đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới lại chưa
có nhiều nghiên cứu về loại hình doanh nghiệp này nói chung và điển hình tại Công
ty CPTM Dịch vụ và Đầu tư Gia Linh nói riêng.
Do vậy, xuất phát từ những nghiên cứu về kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây lắp, cũng như từ định hướng của cán bộ hướng dẫn khoa học,
em đã thực hiện Luận văn thạc sỹ của mình với đề tài: “Hoàn thiện kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty CPTM Dịch vụ và
Đầu tư Gia Linh”.
3.

Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận chung về kế toán chi phí sản

xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.
- Luận văn phân tích và đánh giá thực trạng công tác kế toán tập hợp
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty CPTM Dịch vụ và
Đầu tư Gia Linh.

6



- Dựa trên cơ sở lý luận và tổng kết thực tiễn về công tác kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty CPTM Dịch vụ và Đầu tư Gia Linh để
đề xuất những giải pháp hoàn thiện kế toán kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm ở Công ty CPTM Dịch vụ và Đầu tư Gia Linh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn đi sâu vào nghiên cứu kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm đối với sản phẩm xây lắp, các chi phí cấu thành giá
thành sản phẩm đứng trên giác độ kế toán tài chính.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài :
+ Về mặt không gian: Là nghiên cứu thực tế kế toán CPSX và tính giá thành
sản phẩm tại Công ty CPTM Dịch vụ và Đầu tư Gia Linh.
+ Về mặt thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu các nghiệp vụ phát sinh chủ
yếu trong năm tài chính 2013, 2014.
- Nội dung nghiên cứu:
+ Đặc điểm hoạt động xây lắp ảnh hưởng như thế nào đến kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm?
+ Bản chất, nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong
doanh nghiệp xây lắp?
+ Nội dung kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các
doanh nghiệp xây lắp dưới góc độ kế toán tài chính.
+ Thực trạng công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Công ty CPTM Dịch vụ và Đầu tư Gia Linh như thế nào? Ưu điểm và tồn tại gì?
+ Cần có những giải pháp nào để hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm tại Công ty CPTM Dịch vụ và Đầu tư Gia Linh
5. Phương pháp nghiên cứu
-Sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu và sử lý phân tích số liệu một cách
khoa học trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn đã
được tiến hành ở Việt Nam về lĩnh vực kế toán xây lắp.

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thực tế của đơn vị theo chủ đề: Thực hiện

7


nghiên cứu chứng từ, sổ sách, tài khoản sử dụng, báo cáo kế toán tại Công ty CPTM
Dịch vụ và Đầu tư Gia Linh.
- Phương pháp phỏng vấn: Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn các cán bộ chủ
chốt cũng như nhân viên đang làm việc tại Công ty CPTM Dịch vụ và Đầu tư Gia
Linh (Giám đốc, trưởng phòng kế hoạch đầu từ, kế toán trưởng, kỹ sư công
trường...), thu thập các ý kiến phỏng vấn từ các đối tượng, sau đó tổng hợp các ý
kiến để nhận định thực trạng về tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm tại xí nghiệp.
- Phương pháp điều tra: Giúp Công ty CPTM Dịch vụ và Đầu tư Gia Linh
nắm được hình thức ghi chép, hiểu được phương pháp hạch toán tiêu thụ trong
Công ty. Mặt khác, qua các tài liệu được cung cấp như: Báo cáo kế toán
tháng,quý,năm sẽ có thông tin chính xác về tình hình khấu hao TSCĐ tại Công ty.
- Phương pháp phân tích: Phương pháp này sử dụng phương pháp so sánh
các chỉ tiêu giữa các kỳ với nhau. Chia nhỏ vấn đề nghiên cứu làm cho vấn đề trở
nên đơn giản hóa để từ đó đưa ra nhận xét, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới chỉ
tiêu phân tích.
- Nghiên cứu tiến hành thu thập số liệu cần thiết cho các mục tiêu nghiên
cứu, cụ thể là tiến hành thu thập số liệu liên quan đến tình hình kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp
Phỏng vấn sâu: Sử dụng bộ câu hỏi bán cấu trúc trong phỏng vấn sâu.
Quan sát trực tiếp: Dùng phiếu điều tra cơ sở vật chất, nhân lực trong
toàn Công ty.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích số liệu

Số liệu định lượng lấy từ số liệu thứ cấp được sử dụng chương trình Excel để

tính toán, tổng hợp và phân tích theo mục tiêu nghiên cứu.
Số liệu định tính lấy từ quan sát trực tiếp và các cuộc phỏng vấn sâu, phân tích
và trích dẫn theo chủ đề để phục vụ cho phân tích theo các mục tiêu nghiên cứu.
6.

Kết cấu đề tài nghiên cứu

8


Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục bảng biểu, danh mục viết tắt,
danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục thì nội dung của luận văn được kết cấu gồm
ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm xây lắp trong các doanh nghiệp xây lắp.
Chương 2: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm xây lắp tại Công ty CPTM Dịch vụ và Đầu tư Gia Linh.
Chương 3: Kết luận và các đề xuất hoàn thiện

kế

toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp
tại Công ty CPTM Dịch vụ và Đầu tư Gia Linh.

9


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN
CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM

XÂY LẮP TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh xây dựng ảnh hưởng đến kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp
Ngành xây dựng là ngành sản xuất độc lập có những điểm đặc thù về mặt kinh
tế, tổ chức quản lý và kỹ thuật chi phối trực tiếp đến việc tổ chức nói chung và tổ
chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành nói riêng. So với các ngành sản xuất
khác, xây dựng cơ bản có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật đặc trưng, được thể hiện
rất rõ ở sản phẩm xây lắp và quá trình sáng tạo ra sản phẩm của ngành. Sự chi phối
này được thể hiện như sau:
Sản phẩm xây lắp mang tính chất riêng lẻ: Sản phẩm sản xuất xây lắp không
có sản phẩm nào giống sản phẩm nào, mỗi sản phẩm có yêu cầu về mặt thiết kế mỹ
thuật, kết cấu, hình thức, địa điểm xây dựng khác nhau. Chính vì vậy, mỗi sản phẩm
xây lắp đều có yêu cầu về tổ chức quản lý, tổ chức thi công và biện pháp thi công
phù hợp với đặc điểm của từng công trình cụ thể, có như vậy việc sản xuất thi công
mới mang lại hiệu quả cao và bảo đảm cho sản xuất được liên tục. Do sản phẩm có
tính chất đơn chiếc và được sản xuất theo đơn đặt hàng nên chi phí bỏ vào sản xuất
thi công cũng hoàn toàn khác nhau giữa các công trình, ngay cả khi công trình thi
công theo các thiết kế mẫu nhưng đựơc xây dựng ở những địa điểm khác nhau
với các điều kiện thi công khác nhau thì chi phí sản xuất cũng khác nhau. Việc
tập hợp các chi phí sản xuất, tính giá thành và xác định kết quả thi công xây lắp
cũng được tính cho từng sản phẩm xây lắp riêng biệt, sản xuất xây lắp được thực
hiện theo đơn đặt hàng của khách hàng nên ít phát sinh chi phí trong quá trình
lưu thông.
Sản phẩm xây dựng cơ bản có giá trị lớn, khối lượng công trình lớn, thời gian
thi công tương đối dài. Các công trình xây dựng cơ bản thường có thời gian thi công

10


rất dài, có công trình phải xây dựng hàng chục năm mới xong. Trong thời gian sản

xuất thi công xây dựng chưa tạo ra sản phẩm cho xã hội nhưng lại sử dụng nhiều vật
tư, nhân lực của xã hội. Do đó khi lập kế hoạch xây dựng cơ bản cần cân nhắc, thận
trọng nêu ra các yêu cầu về vật tư, tiền vốn, nhân công .Việc quản lý theo dõi quá
trình sản xuất thi công phải chặt chẽ, đảm bảo sử dụng vốn tiết kiệm, bảo đảm chất
lượng thi công công trình. Do thời gian thi công tương đối dài nên khi tính giá
thường không xác định hàng tháng như trong sản xuất công nghiệp mà được xác
định theo thời điểm khi công trình, hạng mục công trình hoàn thành hay thực hiện
bàn giao thanh toán theo giai đoạn quy ước tuỳ thuộc vào kết cấu đặc điểm kỹ thuật
và khả năng về vốn của đơn vị xây lắp. Việc xác định đúng đắn đối tượng tính giá
thành sẽ góp phần to lớn trong việc quản lý sản xuất thi công và sử dụng đồng vốn
đạt hiệu quả cao nhất.
Thời gian sử dụng sản phẩm xây lắp tương đối dài: Các công trình xây dựng
cơ bản thường có thời gian sử dụng dài nên mọi sai lầm trong quá trình thi công
thường khó sửa chữa phải phá đi làm lại. Sai lầm trong xây dựng cơ bản vừa gây
lãng phí, vừa để lại hậu quả có khi rất nghiêm trọng, lâu dài và khó khắc phục. Do
đặc điểm này mà trong quá trình thi công cần phải thường xuyên kiểm tra giám sát
chất lượng công trình.
Sản phẩm xây dựng cơ bản được sử dụng tại chỗ, địa điểm xây dựng luôn thay
đổi theo địa bàn thi công. Khi chọn địa điểm xây dựng phải điều tra nghiên cứu
khảo sát thật kỹ về điều kiện kinh tế, địa chất, thuỷ văn, kết hợp các yêu cầu về phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội trước mắt cũng như lâu dài. Sau khi đi vào sử dụng,
công trình không thể di dời, cho nên, nếu các công trình là nhà máy, xí nghiệp cần
nghiên cứu các điều kiện về nguồn cung cấp nguyên vật liệu, nguồn lực lao động,
nguồn tiêu thụ sản phẩm, bảo đảm điều kiện thụân lợi khi công trình đi vào hoạt
động sản xuất kinh doanh sau này.
Một công trình xây dựng cơ bản hoàn thành, điều đó có nghĩa là người công
nhân xây dựng không còn việc gì làm ở đó nữa, phải chuyển đến thi công ở một
công trình khác. Do đó, sẽ phát sinh các chi phí như điều động công nhân, máy móc

11



thi công, chi phí về xây lắp các công trình tạm thời cho công nhân và cho máy móc
thi công. Cũng do đặc điểm này mà các đơn vị xây lắp thường sử dụng lực lượng
lao động thuê ngoài tại chỗ, nơi thi công công trình, để giảm bớt các chi phí di dời.
Sản xuất xây dựng cơ bản thường diễn ra ngoài trời, chịu tác động trực tiếp
bởi điều kiện môi trường, thiên nhiên, thời tiết và do đó việc thi công xây lắp ở một
mức độ nào đó mang tính chất thời vụ. Do đặc điểm này, trong quá trình thi công
cần tổ chức quản lý lao động, vật tư chặt chẽ đảm bảo thi công nhanh, đúng tiến độ
khi điều kiện môi trường thời tiết thuận lợi. Trong điều kiện thời tiết không thuận
lợi ảnh hưởng đến chất lượng thi công, có thể sẽ phát sinh các khối lượng công trình
phải phá đi làm lại và các thiệt hại phát sinh do ngừng sản xuất, doanh nghiệp cần
có kế hoạch điều độ cho phù hợp nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành.
1.2. Khái niệm, bản chất và phân loại chi phí, giá thành trong doanh nghiệp
xây lắp.
1.2.1. Khái niệm, bản chất và phân loại chi phí sản xuất xây lắp
1.2.1.1. Khái niệm và bản chất chi phí sản xuất xây lắp
Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp của ba yếu tố: tư liệu lao động, đối
tượng lao động và sức lao động đồng thời cũng chính là quá trình tiêu hao của bản
thân các yếu tố trên. Như vậy để tiến hành sản xuất hàng hoá nhà sản xuất phải bỏ
ra các chi phí về thù lao lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó
tư liệu lao động và đối tượng lao động đóng vai trò là lao động vật hoá, còn sức lao
động đóng vai trò là lao động sống. Những yếu tố này đều được biểu hiện dưới hình
thái tiền tệ và được xác định là chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chi ra
để tiến hành thi công công trình.
Như vậy, chi phí sản xuất của đơn vị xây lắp là toàn bộ chi phí về lao động
sống và lao động vật hóa phát sinh trong quá trình sản xuất và cấu thành nên giá
thành của sản phẩm xây lắp.
Để hiểu rõ hơn về chi phí sản xuất, cần phân biệt rõ giữa chi phí sản xuất
trong kỳ với chi tiêu trong kỳ. Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí

về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất

12


kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một kỳ kinh doanh. Tức là nó gắn
liền với khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ. Còn chi tiêu là sự giảm đi đơn
thuần của các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp bất kể nó được dùng
với mục đích gì.
1.2.1.2. Phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp kinh doanh xây lắp
Trong doanh nghiệp kinh doanh xây lắp, các chi phí sản xuất bao gồm nhiều
loại có tính chất kinh tế khác nhau, do đó yêu cầu quản lý đối với từng loại chi phí
cũng khác nhau. Việc quản lý chi phí không thể chỉ dựa vào số liệu phản ánh tổng
hợp chi phí sản xuất mà còn phải căn cứ vào từng loại chi phí riêng biệt để phục vụ
và phân tích toàn bộ chi phí sản xuất hoặc từng yếu tố kinh tế ban đầu của chúng
theo từng công trình, hạng mục công trình, theo từng nơi phát sinh chi phí và nơi
chịu chi phí. Do đó đòi hỏi phải có sự phân loại chi phí sản xuất.
Việc phân loại chi phí sản xuất một cách khoa học có ý nghĩa rất lớn đối
với công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành công trình xây lắp. Trên
cơ sở phân loại chi phí sản xuất, căn cứ vào nội dung phát sinh chi phí, kế toán
tiến hành tập hợp chi phí cho các đối tượng có liên quan. Bên cạnh đó việc phân
loại còn giúp doanh nghiệp kiểm tra, phân tích chi phí sản xuất trên của doanh
nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp không ngừng tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá
thành sản phẩm xây lắp.
Tuỳ theo yêu cầu quản lý, đối tượng cung cấp thông tin, giác độ xem xét chi
phí mà chi phí sản xuất được phân loại theo những cách sau:


Phân loại theo yếu tố chi phí


Phân loại theo yếu tố chi phí giúp chúng ta giữ được tính nguyên vẹn của từng
yếu tố cũng như từng khoản chi phí không kể nó được phát sinh từ đâu, có quan hệ
như thế nào tới quá trình sản xuất.
Theo cách phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố thì những chi phí
có tính chất kinh tế chung được xếp chung vào một yếu tố, không tính đến nơi phát
sinh chi phí và dùng vào mục đích gì trong quá trình sản xuất.

13


Đối với doanh nghiệp xây dựng cơ bản, chi phí sản xuất gồm các yếu tố sau:
• Chi phí nguyên vật liệu
• Chi phí nhiên liệu động lực
• Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp theo lương
• Chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN theo tỷ lệ quy định
• Chi phí khấu hao TSCĐ
• Chi phí dịch vụ mua ngoài
• Chi phí khác bằng tiền.
 Phân loại theo khoản mục tính giá thành
Cách phân loại này nhằm tính giá thành sản phẩm và phân tích cơ cấu chi phí
sản xuất trong giá thành sản phẩm. Theo đó, chi phí sản xuất ở đơn vị xây lắp được
chia thành bốn khoản mục chính: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân
công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công và chi phí sản xuất chung.
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là chi phí của các vật liệu chính, vật liệu
phụ, vật kết cấu, giá trị thiết bị kèm theo vật kiến trúc… cần thiết để tham gia cấu
thành thực thể sản phẩm xây lắp. Cụ thể:
• Vật liệu xây dựng như: Cát, đá, sỏi, sắt, thép, xi măng…
• Vật liệu khác như: Bột màu, dao, đinh, dây…
• Nhiên liệu như: Than củi dùng để nấu nhựa rải đường…
• Vật kết cấu như: Bê tông đúc sẵn…

• Thiết bị gắn liền với vật kiến trúc như: thiết bị vệ sinh, thông gió, ánh sáng,
thiết bị sưởi ấm…
- Chi phí nhân công trực tiếp: Là các chi phí tiền lương chính, lương
phụ, phụ cấp lương, kể cả khoản hỗ trợ lương của công nhân trực tiếp tham
gia xây lắp công trình.
Khoản mục chi phí nhân công trực tiếp không bao gồm tiền lương của công
nhân khi vận chuyển vật liệu ngoài cự ly công trường, lương nhân viên thu mua bảo
quản bốc dỡ vật liệu trước khi đến kho công trường, lương công nhân tát nước vét

14


bùn khi thi công gặp trời mưa hay mạch nước ngầm và tiền lương của các bộ phận
khác (sản xuất phụ, xây lắp phụ, nhân viên bảo vệ, quản lý…). Mặt khác, chi phí
nhân công trực tiếp cũng không bao gồm khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ,
BHTN theo tỷ lệ quy định tính trên tiền lương phải trả của công nhân trực tiếp thi
công xây lắp. Chi phí nhân công trực tiếp cũng không tính tiền ăn giữa ca của công
nhân viên trực tiếp xây lắp. Các khoản này được tính vào khoản mục chi phí sản
xuất chung. Trong trường hợp tại doanh nghiệp xây lắp có các hoạt động khác mang
tính chất công nghiệp hoặc cung cấp dịch vụ thì vẫn được tính vào khoản mục chi
phí nhân công trực tiếp khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN và tiền ăn giữa
ca của công nhân trực tiếp.
- Chi phí sử dụng máy thi công: Đối với trường hợp doanh nghiệp thực hiện
việc xây lắp theo phương thức thi công hỗn hợp vừa thi công bằng thủ công vừa kết
hợp thi công bằng máy, trong giá thành xây lắp còn có khoản mục chi phí sử dụng
máy thi công. Chi phí sử dụng máy thi công là chi phí cho các máy thi công nhằm
thực hiện khối lượng công tác xây, lắp bằng máy. Chi phí sử dụng máy thi công
gồm hai loại chi phí là: Chi phí thường xuyên và chi phí tạm thời.
• Chi phí thường xuyên: Gồm các chi phí xảy ra hàng ngày một cách thường
xuyên cho quá trình sử dụng máy thi công như chi phí về nhiên liệu, dầu mỡ, các

chi phí vật liệu phụ khác; tiền lương của công nhân điều khiển và công nhân phục
vụ máy thi công; tiền khấu hao TSCĐ là xe máy thi công; các chi phí về thuê xe
máy, chi phí sửa chữa thường xuyên xe máy thi công.
• Chi phí tạm thời: Gồm những chi phí phát sinh một lần có liên quan đến
việc lắp, tháo, vận chuyển, di chuyển máy và các khoản chi phí về những công trình
tạm phục vụ cho việc sử dụng máy thi công như lán che máy ở công trường, bệ để
máy ở khu vực thi công.
Các chi phí thường xuyên được tính trực tiếp một lần vào chi phí sử dụng máy
thi công trong kỳ còn chi phí tạm thời không hạch toán một lần vào chi phí sử dụng
máy thi công mà được tính phân bổ dần theo thời gian sử dụng các công trình tạm
hoặc theo thời gian thi công trên công trường (thời gian nào ngắn hơn sẽ được chọn
làm tiêu thức để phân bổ). Chi phí tạm thời cũng có thể được tiến hành trích trước
vào chi phí sử dụng máy thi công. Khi sử dụng xong công trình tạm, số chênh lệch

15


giữa chi phí thực tế phát sinh với chi phí trích trước được xử lý theo quy định.
Chi phí sử dụng máy thi công không bao gồm khoản trích BHXH, BHYT,
KPCĐ, BHTN theo tỷ lệ quy định trên tiền lương của công nhân điều khiển máy
thi công - khoản này được tính vào chi phí sản xuất chung. Chi phí sử dụng máy
thi công cũng không bao gồm các khoản sau: lương công nhân vận chuyển, phân
phối vật liệu cho máy; vật liệu là đối tượng chế biến của máy, các chi phí xảy ra
trong quá trình máy ngừng sản xuất, các chi phí lắp đặt lần đầu cho máy móc thi
công, chi phí sử dụng máy móc thiết bị khác và các chi phí có tính chất quản lý,
phục vụ chung.
Trường hợp doanh nghiệp thi công toàn bằng thủ công hoặc thi công toàn
bằng máy, các chi phí phát sinh không đưa vào khoản mục chi phí sử dụng máy thi
công mà được tập hợp vào các khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí
nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung.

- Chi phí sản xuất chung: Chi phí sản xuất chung là các chi phí sản xuất khác
khác (ngoài chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí
sử dụng máy thi công) và các chi phí về tổ chức, quản lý, phục vụ sản xuất xây lắp,
các chi phí có tính chất chung cho hoạt động xây lắp gắn liền với từng đơn vị thi
công như tổ, đội, công trường thi công.
Chi phí sản xuất chung gồm các khoản chi phí như sau:
• Chi phí vật liệu: Gồm chi phí vật liệu cho đội xây dựng như vật liệu dùng để
sửa chữa, bảo dưỡng TSCĐ, công cụ dụng cụ thuộc đội xây dựng quản lý và sử
dụng, chi phí lán trại tạm thời.
• Chi phí dụng cụ sản xuất xây lắp: Gồm các chi phí về công cụ dụng cụ dùng
cho thi công như cuốc xẻng, dụng cụ cầm tay, xe đẩy, đà giao, ván khuôn và các loại
công cụ dụng cụ khác dùng cho sản xuất và quản lý của đội xây dựng.
• Chi phí khấu hao TSCĐ: Gồm chi phí khấu hao TSCĐ dùng chung cho hoạt
động của đội xây dựng. Trong trường hợp doanh nghiệp tổ chức thi công hỗn hợp
vừa bằng thủ công vừa bằng máy, khoản chi phí khấu hao máy móc thi công được

16


tính vào chi phí sử dụng máy thi công chứ không tính vào chi phí sản xuất chung.
• Chi phí nhân viên phân xưởng: Gồm tiền lương chính, lương phụ, phụ cấp
lương, phụ cấp lưu động phải trả cho nhân viên quản lý đội xây dựng, tiền ăn giữa
ca của nhân viên quản lý đội xây dựng và của công nhân xây lắp; khoản trích
BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN được tính theo tỷ lệ quy định hiện hành trên tiền
lương phải trả của công nhân trực tiếp xây lắp, nhân viên sử dụng máy thi công và
nhân viên quản lý đội thuộc biên chế của doanh nghiệp.
• Ngoài khoản chi phí của nhân viên quản lý công trường, kế toán, thống kê,
kho, vệ sinh… của công trường, chi phí nhân viên phân xưởng bao gồm tiền công
vận chuyển vật liệu ngoài cự ly thi công do mặt bằng thi công chật hẹp, công tát
nước vét bùn khi trời mưa hoặc gặp mạch nước ngầm…

 Phân loại theo cách ứng xử của chi phí
Cách phân loại này giúp doanh nghiệp có cơ sở để lập kế hoạch, kiểm tra chi
phí, xác định điểm hòa vốn, phân tích tình hình tiết kiệm chi phí nhằm mục đích tìm
ra phương hướng nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản xuất sản phẩm
xây lắp.
Theo cách phân loại này tổng chi phí của doanh nghiệp bao gồm ba loại chi
phí: Biến phí, định phí và chi phí hỗn hợp.
- Chi phí khả biến (Biến phí): Là những khoản chi phí xét về mặt tổng số có
quan hệ tỷ lệ thuận với biến động về mức độ hoạt động. Biến phí cho một đơn vị thì
ổn định, không thay đổi. Biến phí khi không có hoạt động bằng không. Trong doanh
nghiệp xây lắp, biến phí tồn tại khá phổ biến như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp,
chi phí nhân công trực tiếp… những chi phí tăng khi mức độ hoạt động của doanh
nghiệp tăng và ngược lại.
- Chi phí bất biến (Định phí): Là những chi phí mà xét về mặt tổng số ít thay
đổi hoặc không thay đổi theo mức độ hoạt động nhưng nếu xét trên một đơn vị mức
độ hoạt động thì tỷ lệ nghịch với mức độ hoạt động. Như vậy doanh nghiệp có hoạt
động hay không hoạt động thì vẫn tồn tại định phí. Ngược lại khi doanh nghiệp tăng
mức độ hoạt động thì định phí trên một đơn vị mức độ hoạt động sẽ giảm dần.

17


Trong doanh nghiệp xây lắp, định phí luôn xuất hiện như: Chi phí khấu hao, chi phí
thuê nhà xưởng, văn phòng, chi phí quảng cáo, chi phí giao dịch… Định phí tồn tại
dưới hai hình thức ứng xử khác nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp bao gồm: Định phí bắt buộc và định phí không bắt buộc.
• Định phí bắt buộc: Là định phí không thể thay đổi được một cách
nhanh chóng vì chúng thường liên quan đến TSCĐ và cấu trúc tổ chức cơ bản
của doanh nghiệp.
• Định phí không bắt buộc: Là các định phí có thể thay đổi nhanh chóng

bằng các quyết định của nhà quản trị doanh nghiệp như: Chi phí quảng cáo, chi
phí nghiên cứu, chi phí giao dịch…
Tóm lại, mỗi cách phân loại chi phí sản xuất có ý nghĩa riêng phục vụ cho
từng yêu cầu quản lý và từng đối tượng cung cấp thông tin cụ thể. Nhưng chúng
luôn bổ sung cho nhau nhằm quản lý hiệu quả nhất về toàn bộ chi phí sản xuất
phát sinh trong phạm vi toàn doanh nghiệp trong từng thời kỳ nhất định.
Chi phí hỗn hợp: Chi phí hỗn hợp là những chi phí bao gồm cả yếu tố biến
phí và định phí. Ở mức độ hoạt động căn bản chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điểm
của định phí, quá mức độ đó lại thể hiện đặc tính của biến phí. Chi phí hỗn hợp
thường bao gồm: Chi phí phương tiện vận tải, chi phí điện thoại, hàng tháng
ngoài khoản cước thuê bao cố định, nghiệp còn phải trả tiền cước theo số lượng
cuộc gọi và thời gian đàm thoại.
Chi phí hỗn hợp tồn tại theo hai vùng: vùng định phí và vùng biến phí. Do
đó, các nhà quản trị doanh nghiệp cần phải nhận định và lựa chọn tích hợp những
vùng chi phí trong việc xây dựng kế hoạch, dự toán chi phí của doanh nghiệp.
Việc quản lý thích hợp với định phí bắt buộc phải bắt đầu từ giai đoạn khảo sát,
tận dụng tối đa công suất và linh hoạt trong các quyết định về định phí không bắt
buộc. Cần phải cân nhắc, khảo sát chi tiết tính hữu dụng của chi phí hỗn hợp
trong tương lai để tránh lãng phí, khi tiến hành cần phải tăng cường công suất
hoạt động để đơn giá bình quân thấp đi, đồng thời phải thiết lập được mức biến

18


phí trong thành phẩm hỗn hợp chi phí.
1.2.2. Khái niệm , bản chất và phân loại giá thành sản phẩm xây lắp
1.2.2.1. Khái niệm giá thành sản phẩm xây lắp
Để xây dựng một công trình hay một hạng mục công trình thì doanh nghiệp
kinh doanh xây lắp phải đầu tư vào quá trình sản xuất thi công một lượng chi phí
nhất định. Những chi phí sản xuất mà doanh nghiệp chi ra trong một quá trình thi

công đó sẽ tham gia cấu thành nên giá thành sản phẩm xây lắp hoàn thành của
quá trình đó.
Như vậy, giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về
lao động sống và lao động vật hóa phát sinh trong quá trình sản xuất có liên quan tới
khối lượng xây lắp đã hoàn thành. Mỗi công trình, hạng mục công trình hay khối
lượng xây lắp sau khi đã hoàn thành đều có một giá thành riêng.
Hơn nữa, khi nhận thầu một công trình xây dựng thì rõ ràng là giá bán (giá
nhận thầu hoặc giá trúng thầu) đã có ngay trước khi thi công công trình. Như vậy,
giá bán có trước khi xác định được giá thành thực tế của công trình. Do đó, giá
thành thực tế của công trình đó chỉ quyết định tới lợi nhuận của doanh nghiệp đạt
được do thi công công trình đó mà thôi.
Tuy vậy, trong điều kiện hiện nay, để đa dạng hoá hoạt động sản xuất kinh
doanh, được sự cho phép của Nhà nước một số doanh nghiệp kinh doanh xây lắp đã
linh hoạt, chủ động xây dựng một số công trình (chủ yếu là công trình như nhà ở,
văn phòng, cửa hàng...) sau đó bán lại cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng với giá
bán hợp lý thì giá thành sản phẩm xây lắp cũng là một nhân tố quan trọng để xác
định giá bán.
Chỉ tiêu giá thành nếu được xác định một cách chính xác, trung thực có thể
giúp cho các doanh nghiệp cũng như Nhà nước có cơ sở để xem xét, đánh giá thực
trạng hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó đưa ra những biện pháp, đường lối thích
hợp cho từng giai đoạn cụ thể.
Do đó, việc quản lý, hạch toán công tác giá thành sao cho vừa hợp lý, chính
xác vừa bảo đảm vạch ra phương hướng hạ thấp giá thành sản phẩm có vai trò vô

19


cùng quan trọng.
1.2.2.2. Bản chất và chức năng của giá thành sản phẩm xây lắp
Giá thành sản phẩm luôn luôn chứa hai mặt khác nhau vốn có bên trong của

nó là chi phí sản xuất đã chi ra và lượng giá trị sử dụng thu hồi được cấu thành
trong khối lượng sản phẩm xây dựng cơ bản hoàn thành. Như vậy, bản chất của giá
thành sản phẩm là kết quả sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố chi phí vào sản
phẩm xây lắp, công việc lao vụ hoàn thành.
Giá thành sản phẩm có hai chức năng chủ yếu là: Chức năng thước đo bù đắp
chi phí và chức năng lập giá. Số tiền thu được từ việc tiêu thụ sản phẩm sẽ bù đắp
phần chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất sản phẩm đó. Tuy nhiên, sự bù
đắp các yếu tố chi phí đầu vào mới chỉ là đáp ứng yêu cầu của tái sản xuất giản đơn.
Trong khi đó mục đích chính của cơ chế thị trường là tái sản xuất mở rộng, tức là
giá tiêu thụ hàng hóa sau khi bù đắp chi phí đầu vào vẫn phải bảo đảm có lãi.
Toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp chi ra để hoàn thành một khối lượng công
tác xây lắp, một công trình, hạng mục công trình phải được bù đắp bằng chính số
tiền thu về do quyết toán công trình, hạng mục công trình và khối lượng công tác
xây lắp đó. Việc bù đắp chi phí đầu vào đó chỉ có thể đảm bảo được quá trình tái sản
xuất giản đơn. Mục đích sản xuất và nguyên tắc kinh doanh trong cơ chế thị trường
đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải trang trải, bù đắp được chi phí đầu vào đồng thời
có lợi nhuận. Trong điều kiện hiện nay, giá bán sản phẩm xây lắp là giá nhận thầu.
Do đó giá nhận thầu xây lắp biểu hiện giá trị công trình, hạng mục công trình... phải
được dựa trên cơ sở giá thành dự toán. Thông qua giá bán sản phẩm xây lắp mà
đánh giá mức độ bù đắp chi phí và hiệu quả của chi phí.
1.2.2.3. Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp
Để đáp ứng yêu cầu của quản lý trong quá trình sản xuất cũng như tiêu thụ sản
phẩm, xác định giá thành của sản phẩm là việc làm cần thiết và cũng có ý nghĩa
thực tiễn cao. Tuy nhiên yêu cầu của quản lý tại những thời điểm và phạm vi khác
nhau sẽ khác nhau. Do vậy, việc phân loại giá thành sẽ là cơ sở để các nhà quản trị

20


doanh nghiệp xác định giá thành sản phẩm.

 Căn cứ vào thời gian, thời điểm và cơ sở nguồn số liệu để tính giá thành
Theo tiêu thức này người ta chia giá thành thành các loại như sau:
- Giá thành dự toán: Sản phẩm của ngành xây dựng có đặc điểm là có giá trị
lớn, thời gian thi công dài và mang tính chất đơn chiếc, kết cấu phức tạp, quy mô
lớn. Do đó, mỗi giai đoạn thiết kế có một dự toán tương ứng với mức độ chính xác
và cụ thể khác nhau phù hợp với nội dung của mỗi giai đoạn thiết kế. Căn cứ vào
giá trị dự toán của từng công trình, hạng mục công trình, chúng ta có thể xác định
được giá thành dự toán.
Giá thành dự toán là tổng số chi phí dự toán để hoàn thành một khối lượng sản
phẩm xây lắp nhất định. Giá dự toán được xác định trên cơ sở các định mức chi phí
theo thiết kế được duyệt và khung giá quy định áp dụng trong lĩnh vực xây dựng cơ
bản do các cấp có thẩm quyền ban hành.
Theo chế độ mới do có sự thay đổi của thuế GTGT nên giá thành dự toán được
tính theo công thức:
Giá thành dự toán của sản phẩm xây lắp
Z dự toán = T + C + TL
Trong đó:

[1.1]

- T: Chi phí trực tiếp (vật liệu, nhân công, máy)

- C: chi phí chung
- TL: Thu nhập chịu thuế tính trước
(Nguồn: Chế độ kế toán Việt Nam)
Mặt khác, đơn giá về vật liệu, nhân công, máy của các cơ quan có thẩm quyền
ban hành và dựa trên mặt bằng giá cả thị trường. Chính vì vậy Z dự toán không theo
sát được sự biến động thực tế, không phản ánh được thực chất giá trị công trình. Do
vậy Doanh nghiệp phải lập giá thành kế hoạch để dự kiến chỉ tiêu hạ giá thành.
- Giá thành kế hoạch: Là giá thành được xây dựng từ những điều kiện cụ thể

của doanh nghiệp trên cơ sở phấn đấu hạ giá thành dự toán bằng các biện pháp quản
lý kỹ thuật và tổ chức thi công, các định mức và đơn giá áp dụng trong doanh

21


×